Người Việt nói chung quan niệm, con
người được hình thành bởi linh hồn và thể
xác, có cuộc đời nơi trần thế và cuộc đời
sau khi chết. Cuộc sống tại trần thế chỉ là
tạm bợ, cuộc sống sau khi chết mới là mãi
mãi (sống gửi thác về). Khi con người
chết đi, thể xác sẽ tan rã nhưng linh hồn
về với tổ tiên ở một thế giới mới, gọi là
suối vàng hay chín suối, cõi âm. Tại đây,
linh hồn con người sống như cuộc sống
trần thế theo tư duy “trần sao âm vậy”.
Tuy ở thế giới khác nhưng linh hồn vẫn
“đi lại” và tác động đến trần thế, vẫn dõi
theo bước đi của con cháu
8 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 650 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về thờ cúng tổ tiên ở dòng họ của người Công giáo (trường hợp giáo xứ Kẻ Sặt, Hải Dương), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Một số vấn đề về thờ cúng tổ tiên ở dòng họ
của người Công giáo (trường hợp giáo xứ Kẻ Sặt,
Hải Dương)
Vũ Thị Thanh Tâm(*)
Tóm tắt: Sau hơn 3 thế kỷ cấm người Công giáo thực hành thờ cúng tổ tiên, năm 1939
Giáo Hoàng Pio XII đã phê chuẩn Huấn thị Plane compertum est - bước ngoặt đầu tiên
đánh dấu sự chấp nhận một phần “nghi lễ Trung Hoa” của Giáo hội Công giáo, xóa đi
sự căng thẳng trong nhiều thế kỷ. Năm 1964, Việt Nam chính thức được Tòa thánh cho
phép thực hiện Huấn thị này. Thư chung mục vụ năm 1980 với đường hướng “Sống
phúc âm giữa lòng dân tộc” đã mở ra nhiều hoạt động của Công giáo Việt Nam thời kỳ
mới, thời kỳ hội nhập văn hóa dân tộc. Theo đó, những năm gần đây tín đồ Công giáo
một số nơi không chỉ lập lại bàn thờ tổ tiên trong nhà, mà còn khôi phục lại nhà thờ họ,
nhà thờ tổ và lập gia phả. Bài viết giới thiệu sự hội nhập đó tại giáo xứ Kẻ Sặt (Hải
Dương) thông qua việc thờ cúng tổ tiên ở cấp dòng họ. Từ đó cho thấy, các nghi thức
thờ cúng tổ tiên của người Công giáo không ảnh hưởng tới niềm tin tôn giáo của họ,
thậm chí còn làm phong phú, đa dạng hơn các sinh hoạt tôn giáo trong cộng đồng
người Công giáo.
Từ khóa: Công giáo, Giáo xứ Kẻ Sặt, Nghi thức thờ cúng, Gia phả
(*)
Thờ cúng tổ tiên trước hết là thể hiện
đạo làm người, là lòng thành kính biết ơn
của thế hệ sau đối với thế hệ trước. Đây là
một truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta.
Trong những thế kỷ đầu khi truyền giáo
vào Việt Nam, giáo hội Công giáo cho
rằng thờ cúng tổ tiên là sự rối và đã loại
phần lớn các lễ thức truyền thống trong
tang ma; cấm ngặt giáo dân của mình lập
bàn thờ, đặt bài vị, bát hương, kể cả việc
học trò lạy bàn thờ tiên sư nhà thầy, Do
(*)
NCS. Khoa Dân tộc học, Học viện Khoa học xã
hội; Email: thanhtamvme2015@gmail.com
vậy, người Công giáo nói chung và người
Công giáo ở giáo xứ Kẻ Sặt nói riêng có
thời kỳ gần như không thực hành thờ cúng
tổ tiên. Tuy vậy, lòng tôn kính tổ tiên vẫn
tồn tại sâu lắng trong đời sống tâm linh
của họ. Khi Giáo hội Công giáo cho phép
tín đồ được thực hành theo các huấn thị,
thông cáo mới ở thế kỷ XX, giáo dân tại
Việt Nam đã dần dần thực hiện các nghi
thức thờ cúng tổ tiên theo lễ thức truyền
thống và quy định của giáo hội.
Thờ cúng tổ tiên của người Công giáo
mang đặc điểm chung của tín ngưỡng thờ
cúng tổ tiên của người Việt và những đặc
36 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 8.2016
điểm riêng. Thờ cúng tổ tiên của người
Việt nói chung được thể hiện ở 3 cấp có
quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là: gia đình
- dòng họ (những người cùng huyết
thống), làng xã (người có công, bảo trợ
làng, xã - thành hoàng làng), đất nước
(vua Hùng). Người Công giáo ở giáo xứ
Kẻ Sặt cũng thực hiện thờ cúng tổ tiên
theo 3 cấp trên nhưng có những đặc điểm
riêng vừa tỏ lòng thành kính, sự quan tâm,
chăm sóc với tổ tiên, vừa thể hiện đức tin,
thực thi giới luật của Công giáo.
Giáo xứ Kẻ Sặt nằm trên địa bàn xã
Tráng Liệt, huyện Bình Giang, tỉnh Hải
Dương. Trong lịch sử, Kẻ Sặt là một trong
những trung tâm chính để truyền bá Công
giáo ở Đông Đàng Ngoài. Đây từng là nơi
đặt cơ sở chính của các thừa sai Dòng Tên
ở Đông Đàng Ngoài vào cuối thế kỷ XVII.
Đầu thế kỷ XVIII, tại Kẻ Sặt, linh mục
Raimondo Lezoli thụ phong Giám mục
tiên khởi của Dòng Đa Minh ở miền Bắc.
Giáo xứ Kẻ Sặt cũng từng có trường thần
học, trường thầy giảng vào đầu thế kỷ XX
và là nơi diễn ra Công đồng Kẻ Sặt năm
1900 (Công đồng thứ I của Đàng Ngoài -
Bắc kỳ). Năm 1954, 3/5 dân Công giáo Kẻ
Sặt đã di cư vào miền Nam và thành lập
giáo xứ mới cũng với tên Kẻ Sặt (Hố Nai,
Đồng Nai). Đây là một trong những giáo
xứ điển hình giữ đạo của cộng đồng Công
giáo trong lịch sử Việt Nam. Trong giáo
xứ có những dòng họ chính như: Phạm,
Chu, Vũ, Dương, Quách, Đào,
Trước khi được Giáo hội cho phép tôn
kính tổ tiên, người Công giáo Việt Nam
nói chung và người Công giáo ở giáo xứ
Kẻ Sặt nói riêng hầu như không duy trì
việc tổ chức thờ cúng cấp dòng họ. Hiện
nay, việc thờ cúng tổ tiên cấp dòng họ tại
giáo xứ Kẻ Sặt đang diễn ra âm thầm
nhưng rất mạnh mẽ. Dưới đây chúng tôi
sẽ làm rõ quan niệm và một số hoạt động
(lập nhà thờ họ, lập gia phả, thờ cúng tổ
họ, tìm mộ tổ và sự kết nối những người
trong cùng một họ) liên quan đến việc thờ
cúng tổ tiên ở cấp dòng họ của người
Công giáo Kẻ Sặt ở Hải Dương(*).
1. Quan niệm về cái chết, linh hồn và việc
thờ cúng tổ tiên
Người Việt nói chung quan niệm, con
người được hình thành bởi linh hồn và thể
xác, có cuộc đời nơi trần thế và cuộc đời
sau khi chết. Cuộc sống tại trần thế chỉ là
tạm bợ, cuộc sống sau khi chết mới là mãi
mãi (sống gửi thác về). Khi con người
chết đi, thể xác sẽ tan rã nhưng linh hồn
về với tổ tiên ở một thế giới mới, gọi là
suối vàng hay chín suối, cõi âm... Tại đây,
linh hồn con người sống như cuộc sống
trần thế theo tư duy “trần sao âm vậy”.
Tuy ở thế giới khác nhưng linh hồn vẫn
“đi lại” và tác động đến trần thế, vẫn dõi
theo bước đi của con cháu.
Người Công giáo cũng tin rằng, con
người có linh hồn và thể xác. Nhưng khác
với người Việt không Công giáo, họ cho
rằng cả hồn và xác đều do Thiên Chúa tạo
nên. Thể xác con người được Chúa tạo
nên từ đất bụi, còn linh hồn là sinh khí
được Chúa thổi vào từ mũi. Sau khi chết,
linh hồn lìa khỏi xác và Chúa tạm thời
phán xét về mọi tư tưởng, lời nói, việc làm
và những việc thiện chưa làm được. Tùy
tội - phúc khi còn sống mà linh hồn vào
một trong ba nơi: Thiên đàng, Hỏa ngục
hoặc Luyện ngục. Những người được lên
Thiên đàng là người sạch mọi tội trọng,
tội nhẹ và đền tội đã đủ - đó là người sống
trong ơn thánh, trong tình bạn với Chúa;
những người xuống Hỏa ngục nếu có tội
trọng, sống gian ác mà không ăn năn sám
hối; và vào Luyện ngục nếu còn những tội
(*)
Một số trích dẫn phỏng vấn sâu (PVS) trong bài viết
được lấy từ tư liệu điền dã thực địa do tác giả thực hiện
tháng 3/2015.
Một số vấn đề về§ 37
nhẹ hay đền tội chưa đủ. Đến ngày cánh
chung hay ngày tận thế, mọi người sẽ
được phục sinh và chịu sự phán xét cuối
cùng của Chúa.
Thờ cúng tổ tiên nhằm xác lập mối
liên hệ tương hỗ giữa người sống với
người chết, thế giới thực tại và thế giới
tâm linh. Với người Việt, tổ tiên luôn ngự
trên bàn thờ và trợ giúp khi con cháu kêu
cầu. Con cháu khấn cúng để báo cáo và
cầu tổ tiên phù hộ, hay tạ ơn khi công việc
thành công. Tổ tiên tác động trực tiếp, phù
trợ, dẫn dắt hậu thế. Nhưng với người
Công giáo, sự liên hệ giữa người sống và
người chết được thể hiện qua Tín điều các
Thánh cùng thông công. Nghĩa là, linh
hồn người chết không thể tác động trực
tiếp đến người sống nhưng sẽ cầu Chúa
giúp người sống thực hiện được những
mong muốn của mình. Ngược lại, người
đang sống sẽ lập công phúc cho người đã
khuất bằng cách làm các việc lành với ý
chỉ dành cho tổ tiên, đọc kinh cầu nguyện,
xin lễ vì các linh hồn không thể tự làm
được điều này. Những công phúc này sẽ
đền bù vào tội lỗi mà người quá cố đã làm
trước kia. Tuy nhiên, việc tác động qua lại
giữa hai thế giới này không nhằm mục
đích “được lợi”, mà quan trọng hơn là thờ
cúng tổ tiên nhằm tưởng nhớ, tỏ lòng biết
ơn người đã qua đời cũng như có sự cộng
cảm với nhau.
Thờ cúng tổ tiên là một trong những
bổn phận mà Giáo hội Công giáo Việt
Nam ngày nay khuyến khích các giáo dân
nên làm, vì nó phù hợp với giới răn thứ 4
của Chúa: “thảo kính cha mẹ”. Đây là giới
răn đầu tiên nói về việc ứng xử của con
người với con người, sau 3 điều răn nói về
Chúa(*). Các tín hữu ở Kẻ Sặt cũng cho
(*)
10 điều răn của Chúa: 1/ Thờ phượng một Đức
Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự. 2/
Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ. 3/ Giữ ngày
rằng, thờ cúng tổ tiên là một trong những
hình thức thể hiện lòng hiếu thảo cao nhất
đối với ông bà, cha mẹ đã qua đời, hơn tất
cả hình thức cúng bái nào khác. Họ tin
rằng tổ tiên đang ở 1 trong 3 nơi: Thiên
đàng, Luyện ngục và Hỏa ngục. Tuy vậy,
họ vẫn có niềm tin linh hồn tổ tiên sẽ luôn
dõi theo và nghe lời cầu khẩn của mình để
cầu bầu lên Chúa.
2. Một số hoạt động liên quan đến thờ
cúng tổ tiên ở cấp dòng họ
Nhà thờ họ
Theo Phan Kế Bính, “Bao nhiêu con
cháu dòng dõi trong một họ lập chung một
nhà thờ Thủy tổ, gọi là mỗ tộc (Trần tộc,
Nguyễn tộc) Từ đường. Nhà thờ họ ấy chỉ
thờ riêng một Thủy tổ và khi tế tự thì lấy
các tổ tông biệt chi, biệt phái mà phối
hưởng” (Phan Kế Bính, 2004). Theo cách
hiểu này, ở giáo xứ Kẻ Sặt hiện không còn
nhà thờ họ (từ đường) nào như vậy. Bởi
cho dù hiện nay, nhiều dòng họ, nhiều chi
đã xây dựng một nơi để thờ cúng tổ tiên,
nhưng cũng chỉ thờ đến đời tổ, khảo (tỷ)
(ông bà, cha mẹ). Việc thờ cúng này có
thể gọi là Gia từ (thờ ông bà, cha mẹ)
hoặc Bản chi từ đường (thờ tổ tông trong
các chi phái họ tộc). Những bậc tổ tiên ở
trên họ (cao, tằng) rất hiếm gia tộc còn
lưu giữ được ngày mất để tổ chức giỗ.
Hiện nay, các gia đình Công giáo Kẻ
Sặt có xu hướng dựng nhà thờ tổ bắt đầu
từ việc dựng nhà thờ cho gia đình mình.
Họ thờ những người gần nhất với mình
như ông bà hoặc mới chỉ từ bố mẹ và dự
định sẽ dần dần phát triển thành một nhà
thờ tổ sau này. Một số ngôi nhà được xây
dựng với mục đích làm từ đường, theo
Chúa Nhật. 4/ Thảo kính cha mẹ. 5/ Chớ giết
người. 6/ Chớ làm sự dâm dục. 7/ Chớ lấy của
người. 8/ Chớ làm chứng dối. 9/ Chớ muốn vợ
chồng người. 10/ Chớ tham của người.
38 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 8.2016
phong cách kiến trúc từ đường của người
Việt truyền thống. Không gian trong nhà
bố trí chặt chẽ, tạo ra tính tôn nghiêm của
một ngôi nhà thờ. Chính giữa ngôi nhà là
ban thờ Chúa. Bàn thờ gia tiên được đặt ở
bên trái theo hướng từ nhà nhìn ra ngoài.
Trên cùng của ban thờ thường có biểu
tượng của Công giáo như Thánh giá, Chúa
chịu nạn và hàng chữ “Kính nhớ tổ tiên”.
Ban thờ thường đặt một bát hương, lọ hoa,
đôi chân nến, đĩa đựng hoa quả Một số
dòng họ còn có khung ảnh in các ngày giỗ
của những người thuộc họ tộc đã khuất.
Giống như các nhà thờ truyền thống
của người Việt, khu vực ban thờ của Công
giáo Kẻ Sặt đều treo hoành phi câu đối,
cuốn thư, cửa võng. Đa số đều viết bằng
chữ Hán với nội dung đề cao tính giáo dục
trong gia đình, thể hiện mong ước của gia
chủ đồng thời không có ý mâu thuẫn với
giáo lý Công giáo. Nhiều người đã rất kỳ
công nhờ thầy hoặc tự mình tra cứu về nội
dung, ý nghĩa, niêm luật, vị trí đặt của các
bức hoành phi, câu đối, cuốn thư sao cho
đúng, phù hợp với tôn giáo và kỳ vọng
của gia chủ.
Thờ cúng tổ họ
Việc cúng tổ được thực hiện hay
không còn tùy thuộc vào từng gia đình,
dòng họ. Vào ngày giỗ của người giữ bậc
cao nhất trong họ, có dòng họ không tổ
chức giỗ mà mỗi nhà tự đọc kinh hoặc xin
lễ nhà thờ; có dòng họ tổ chức giỗ rất thân
mật, buổi lễ giỗ quy tụ đông con cháu,
kinh phí chủ yếu là do bậc trưởng chi trả,
con cháu đóng góp tùy tâm. “Khi tổ chức
giỗ ông, nhà anh xin lễ cầu nguyện ở nhà
thờ và sang nhà bà làm giỗ cho ông. Về
kinh tế, các con các cháu vẫn đưa cho bà,
đến ngày giỗ của ông, bà bỏ ra một phần
chi phí. Còn chú thím ở cùng bà bỏ ra là
chính nhưng trên danh nghĩa vẫn là của
bà. Ngày giỗ, mình mang hoa quả vào lễ
cụ chứ không phải đóng góp. Nếu có, bố
anh sẽ đóng góp” (PVS anh P.V.S, 40
tuổi, khu Trung).
Nghi thức cúng giỗ tại gia đình được
tổ chức có sự kết hợp giữa đạo và đời.
Trước khi tổ chức giỗ, các gia đình trong
dòng họ đi tảo mộ (lau chùi, sửa sang lại
mộ), cắm hoa, thắp hương mời tổ tiên về
dự lễ. Các gia đình hoặc dòng họ tiến
hành xin lễ cho người quá cố tại nhà thờ,
cầu nguyện cho người quá cố sớm được
lên Thiên đàng. Vào lễ giỗ, mọi người tập
trung cầu nguyện trước bàn thờ tổ tiên tại
gia đình ông trưởng tộc. Đồ lễ trên bàn
thờ gồm những thứ thanh khiết, đó là: lọ
hoa tươi, đĩa hoa quả, không dâng thức ăn
mặn lên bàn thờ tổ tiên. Cầu nguyện xong,
mọi người tham dự bữa ăn giỗ cộng cảm.
Theo lệ của Kẻ Sặt, gần đến Tết,
những người thuộc chi dưới đến thắp
hương tại nhà trưởng tộc, gọi là có “cơi
trầu nguyện kinh”. Trước đây, khi đến
phải mang trầu cau, nhưng hiện nay do
nhu cầu sử dụng trầu cau không còn phổ
biến nên thay bằng hoa quả hoặc bánh
kẹo, hoặc một số người chỉ đến thắp
hương, coi như là đến trình diện tổ tiên.
Vào ngày giỗ, lễ mồ, cả họ tập trung ra
mộ tổ thắp hương.
Tìm mộ tổ
Người Việt rất tôn trọng tổ tiên và
quan niệm “sự tử như sự sinh” nên việc
chăm sóc mộ phần cũng rất được coi
trọng. Đây là một trong những hình thức
thờ phụng người đã mất. Việc tu chỉnh,
sửa sang, chăm sóc mộ phần được thực
hiện một cách tự giác như một nếp văn
hóa mang đậm ý nghĩa đạo lý nguồn cội.
Họ tin rằng, nếu người chết được chôn
vào khu đất tốt sẽ truyền được phúc đức
cho con cháu đời sau. Khi mộ phần được
chăm sóc, hương khói, cúng giỗ chu đáo,
Một số vấn đề về§ 39
linh hồn người quá cố sẽ nhận được sự
thành tâm của người dâng cúng và phù hộ
cho con cháu. Nếu không may mồ mả bị
thất lạc, thì con cháu sẽ cố gắng tìm cách
quy tập để chăm sóc theo đúng tinh thần
đạo hiếu.
Trước năm 1951, giáo xứ Kẻ Sặt chưa
có nghĩa địa riêng để chôn cất người quá
cố nên các gia đình thường chôn tại ruộng
thuộc địa vực nhà mình theo họ tộc, gọi là
ruộng táng mả. Từ khi nghĩa địa được
thành lập, người quá cố được chôn cất
theo quy hoạch ở đây. Tuy nhiên, trước
kia một số dòng họ còn nghèo không có
ruộng táng mả nên mộ phần được chôn rải
rác ở các nơi. Hiện nay, những dòng họ
này đã lớn mạnh, có xu hướng lập khu
lăng mộ riêng, quy tập những mộ phần
thuộc họ tộc mình. Nhu cầu tìm lại các mộ
phần trước đây, nhất là các mộ tổ ngày
càng lớn. Các khu lăng mộ được xây dựng
nhằm thuận tiện cho việc chăm sóc, cầu
nguyện. Ngoài nguyên nhân chính này,
còn một dòng chảy ngầm nữa, đó là việc
một số gia đình bị coi là động mồ mả.
Với mục đích đi tìm mộ tổ “để những
ngày lễ, ngày nọ, ngày kia thắp hương cho
các cụ, đưa các cụ lên nơi mát mẻ - nơi
quy tập tại khu nghĩa địa để cha làm lễ,
không sợ động”, một chi thuộc họ Chu ở
đây đã tiến hành tìm mộ tổ nhiều lần. Sau
khi tìm được mộ, dòng họ tiến hành tổ
chức nghi lễ bốc mộ như một đám tang:
thông báo cho ủy ban xã, tổ chức thánh lễ
trên nhà thờ rồi đưa ra nghĩa địa như
người mới mất. “Vì trước đây các cụ đã bị
thiệt thòi rồi, nay làm cho cụ thì cũng phải
làm tương đối nghi thức” (PVS ông
trưởng chi họ Chu).
Gia phả dòng họ
Gia phả ghi lại lịch sử của dòng họ, là
cơ sở để các dòng họ, chi họ tìm về gốc
rễ, chắp nối cội nguồn, đồng thời có vai
trò quan trọng trong việc củng cố gia tộc,
gia đình và giáo dục đạo đức cho con
cháu. Thông qua gia phả, mọi người trong
họ có thể biết được mối quan hệ trên dưới,
gần xa để ứng xử cho đúng thứ bậc, đồng
thời tránh đặt trùng tên với tổ tiên và tránh
quan hệ hôn nhân cận huyết. Gia phả cũng
giúp tạo nề nếp gia phong, giữ gìn đạo
hiếu và truyền thống tốt đẹp của tổ tiên.
Tại giáo xứ Kẻ Sặt, theo kết quả khảo
sát, hiện không họ tộc nào còn gia phả.
“Truyền thống ghi gia phả của các họ tộc
ở Sặt này ít. Các cụ ngày xưa một là văn
hóa kém, gần như mù chữ, vài người biết
chữ Nho thì mất sớm. Mà trước đây các
cụ cũng không ham chuyện này” (PVS
ông P.V.T). Tuy nhiên, trong những năm
gần đây, nhiều dòng họ ở Kẻ Sặt đang xúc
tiến việc lập gia phả, bắt đầu bằng việc lập
sơ đồ gia phả (cây gia phả) của chi tộc
mình. Sơ đồ gia phả rất quan trọng và cần
thiết, giúp các thành viên trong họ tộc
nhìn nhận tổng quát thứ bậc quan hệ trong
chi tộc. Chủ trương này rất đúng đắn và
được toàn thể họ tộc nhất trí, hưởng ứng
nhưng đến hàng chục năm, sơ đồ gia phả
vẫn chưa xong. Bởi lẽ việc lập mới lại
hoàn toàn chi tộc mình khi không còn
những thông tin trước đây là rất khó.
Đồng thời, gia phả là công trình tập thể
trong khi con cháu tản mát mỗi người một
nơi, người Nam, kẻ Bắc và thậm chí ở cả
nước ngoài. Do đó, sơ đồ gia phả của một
số chi họ mới chỉ ghi được những tên còn
nhớ, còn danh vị của các thứ bậc hầu như
không có; năm sinh, năm mất cũng người
có người không.
Những gia tộc đã xác lập được chính
xác các mối quan hệ, thứ bậc của dòng họ
có thể lập bảng ghi họ tên (tên khai sinh
và tên thánh nếu có) và ngày sinh, ngày
mất. Họ in ra lồng vào khung và treo cạnh
40 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 8.2016
bàn thờ tổ tiên để tiện cho việc xin lễ cho
các bậc tổ tiên trong họ và nhận họ hàng.
Cây phả hệ được treo ở bàn thờ gia tiên
thường là ở những gia đình bậc trưởng
một chi, nhánh trong tộc họ. Trong các
bảng gia phả này, phía trên cùng thường
có ghi dòng chữ “Cầu cho các linh hồn”,
hoặc có hình thánh giá, thiên thần; phía
dưới ghi danh sách họ tên người quá cố.
Hiện nay, Kẻ Sặt xảy ra tình trạng khá
phổ biến đó là nhiều người cùng họ nhưng
lại không có quan hệ huyết thống với
nhau. Ví dụ, họ Chu có 4, 5 họ, họ Vũ
cũng có 3, 4 họ, Do không có gia phả
gốc nên việc truy xuất các dòng họ này
trước đây có quan hệ huyết thống với
nhau hay không là điều bất khả thi. Có
những dòng họ chỉ lưu lại tên thánh để
con cháu biết cầu nguyện nên không biết
tên đời hoặc chỉ lưu được tên thường gọi
mà không có tên thật. Trong khi đó, theo
lệ Kẻ Sặt, khi người phụ nữ lấy chồng
phải cải họ theo chồng. Khi có con, cả cha
và mẹ được gọi theo tên con cả. Do vậy,
công cuộc tìm về nguồn cội của người Kẻ
Sặt còn gặp rất nhiều khó khăn.
Sở dĩ có tình trạng này là vì thứ nhất,
người Công giáo trước đây vốn không
được phép thờ cúng tổ tiên nên sự quan
tâm đến gia phả dòng họ chưa nhiều, hoặc
không tiếp nối hoạt động ghi chép, hoặc
ghi chép không đầy đủ. Thứ hai, một số
dòng họ có ghi chép lại phần nào nhưng
trải qua nhiều thời cuộc, biến cố của lịch
sử, gia phả đã bị thất lạc. Thứ ba, với mục
đích để con cháu nắm được ngày giỗ để
đọc kinh cầu nguyện, các ghi chép hoặc
nhớ lại của những người cao tuổi chủ yếu
là tên thánh hoặc tên thường gọi mà không
rõ họ tên khai sinh.
Kết nối dòng họ
Hiện nay, hoạt động thăm viếng kết
nối những người cùng dòng họ tại nhiều
địa phương đã diễn ra. Nhân dịp giáo xứ
Kẻ Sặt ở Hố Nai (Đồng Nai) tổ chức kỷ
niệm 60 năm thành lập, nhiều gia đình,
dòng họ ở Kẻ Sặt tại Hải Dương đã vào để
tham dự lễ kỷ niệm, và đồng thời nhận họ
hàng. Khi giáo xứ Kẻ Sặt miền Bắc tổ
chức khánh thành khu tượng đài Đức Mẹ,
cũng rất đông người ở giáo xứ Kẻ Sặt
miền Nam ra tham dự. Thực tế, không chỉ
vào những dịp lễ lớn của giáo xứ tín hữu
của hai giáo xứ này mới gặp nhau, mà ở
từng dòng họ, gia đình vẫn có những mối
liên hệ thường xuyên với nhau qua các
phương tiện liên lạc hiện đại hoặc khi gia
đình có việc lớn như tang ma, cưới xin, họ
lại cử đại diện đến tham dự. Sợi dây liên
kết chặt chẽ nhất của mối quan hệ này
chính là quan hệ dòng tộc. Việc viết lại
gia phả của dòng họ cũng được tìm hiểu ở
cả 2 miền. Thậm chí, có dòng họ bắt đầu
viết gia phả từ lời đề nghị của người xa xứ
để họ hàng có thể nhận lại nhau. Có người
dự định vào Nam để kết nối, tìm hiểu thêm
về họ tộc mình trước khi viết gia phả.
Sự kết nối dòng họ không chỉ gói gọn
trong cộng đồng Công giáo mà còn vươn
đến cộng đồng ngoài Công giáo. Ví dụ, họ
Nguyễn ở Kẻ Sặt qua lại tìm hiểu với họ
Nguyễn ở Bắc Ninh để xác định mối liên
hệ. Mối quan hệ này có được xác định
cùng cụ tổ hay không không quan trọng
bằng ý thức về cội nguồn của những
người này. Hay như ông V.V.Đ đã tìm
đến nhà thờ tổ họ Vũ ở Mộ Trạch để tìm
hiểu mối liên hệ. Đến nay, mối quan hệ
này trở nên thân thiết cho dù họ cũng chưa
xác định được hai dòng họ Vũ này có
cùng xuất phát từ một ông tổ hay không.
Mong muốn lập gia phả, tìm về tổ tiên của
ông V.V.Đ còn bắt nguồn từ một kỷ niệm
như là một lời nhắc nhở bản thân về việc
cần phải tìm hiểu về họ hàng để có những
ứng xử đúng mực.
* * *
Một số vấn đề về§ 41
Thờ cúng tổ tiên là truyền thống văn
hóa nằm sâu trong tâm thức người Việt
nói chung và người Công giáo ở Kẻ Sặt
nói riêng. Do vậy, khi Công giáo có
những quy định cấm thờ cúng tổ tiên thì
giáo dân Kẻ Sặt với truyền thống “uống
nước nhớ nguồn” của dân tộc vẫn luôn coi
trọng tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Một số
gia đình đã thực hành một cách bí mật cho
đến khi chính thức được Giáo hội chấp
thuận, họ đã thể hiện truyền thống này
một cách mạnh mẽ từ nghi thức tới phục
dựng những gì liên quan như: lễ nghi, gia
phả, từ đường, dòng họ, Trên phương
diện nghi lễ, người Công giáo Kẻ Sặt từng
bước thực hiện các nghi thức thờ cúng tổ
tiên theo tinh thần Công giáo mà vẫn giữ
được ý nghĩa thể hiện lòng hiếu thảo với
tổ tiên theo phong tục truyền thống và
việc lập bát hương một cách vội vàng,
giấu diếm trước kia thể hiện khát vọng
muốn giữ lại lễ thức có nhiều ý nghĩa này.
Thờ cúng dòng họ mặc dù xuất phát
từ quan niệm “thần thánh hóa tổ tiên”,
nhưng đồng thời cũng đề cao “luân lý thế
tục” và khẳng định giá trị tâm linh tôn
giáo hướng về cội nguồn tổ tông của các
thành viên trong dòng tộc. Đạo lý “uống
nước nhớ nguồn” vừa thể hiện sự bày tỏ
lòng biết ơn đối với các bậc sinh thành,
vừa thể hiện trách nhiệm liên tục, lâu dài
của con cháu đối với tổ tiên. Trách nhiệm
không chỉ được biểu hiện trong hành vi
sống (có trách nhiệm, giữ gìn danh dự...)
mà còn ở hành vi cúng tế, đọc kinh cầu
nguyện thông công. Dòng họ cùng với
nhà thờ họ, gia phả, lệ tục... đã tạo ra một
cấu trúc dòng họ chặt chẽ, góp phần
không nhỏ vào việc điều chỉnh các hành vi
xã hội của con người theo hướng coi
trọng quá khứ, truyền thống và nhân cách
làm người.
Như vậy, thờ cúng tổ tiên của người
Việt nói chung và người Việt Công giáo
nói riêng trong quá trình hình thành, tồn
tại và phát triển đã góp phần tạo lập nhiều
giá trị quý báu. Nó khơi dậy đạo lý làm
người, ngăn chặn suy thoái đạo đức, lối
sống, gìn giữ thang giá trị, đạo đức truyền
thống, bản sắc văn hóa dân tộc, hướng về
cái thiện,... Đó là những giá trị hết sức quý
báu mà chúng ta cần giữ gìn, phát huy
nhằm xây dựng cuộc sống phồn vinh.
Hình thức thể hiện các giá trị này có thể
biến đổi cùng với thời gian nhưng vai trò
của nó là bất biến. Các giá trị của ngày
hôm qua là cội nguồn mạch sống cho các
giá trị của ngày hôm nay. Thông qua hình
thức tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, con
người cảm thấy gắn bó với nhau hơn, tình
yêu quê hương đất nước được khơi dậy,
lòng tri ân, nhớ ơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ
đã có công nuôi lớn, dưỡng dục mình.
Tuy nhiên, trong quá trình khôi phục
các hoạt động về dòng họ cần phòng tránh
và đấu tranh với những biểu hiện lệch lạc
trong việc phục cổ như: gia trưởng, bảo
thủ trong xử lý mối quan hệ giữa các thế
hệ trong dòng họ. Tục thờ cúng tổ tiên
cùng với những quy định về gia lễ và quy
định về ứng xử đã phần nào điều khiển con
người, tạo ra một kiểu quản lý xã hội
riêng. Việc thổi phồng quá mức vai trò của
dòng họ vô hình trung đề cao những mặt
trái của nó trong đời sống xã hội hiện đại,
như xây dựng nhà thờ họ, tổ chức lễ nghi
cúng tế dòng họ theo lối khoa trương,
rườm rà, tốn kém nhiều công sức, tiền của
hoặc lợi dụng tình cảm họ hàng thân thuộc
để kéo bè kéo cánh theo kiểu “một người
làm quan cả họ được nhờ”,... Đồng thời,
ngăn ngừa việc chia bè phái làm chia rẽ
tình cảm trong họ hàng, quá đặt nặng hình
thức vai vế, đòi hỏi họ hàng những việc
quá đáng nhất là yêu cầu đóng góp trong
việc xây dựng lại từ đường, mồ mả,
Phục hồi việc họ một cách đúng đắn sẽ
42 Th“ng tin Khoa học xž hội, số 8.2016
phát huy được thuần phong mỹ tục, các
dòng họ vững mạnh. Nó sẽ giúp giữ vững
luân lý, đạo đức, giáo dục con cháu, nêu
gương cho con cháu theo đúng tinh thần
“tốt đời đẹp đạo”
Tài liệu tham khảo
1. Phan Kế Bính (2004), Việt Nam phong
tục, Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh,
Tp. Hồ Chí Minh.
2. Nguyễn Hồng Dương (2001), Nghi lễ
và lối sống Công giáo trong văn hóa
Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội,
Hà Nội.
3. Lê Đức Hạnh (2011), “Vấn đề thờ
cúng tổ tiên của người Việt Công giáo
ở giáo họ Nỗ Lực, tỉnh Phú Thọ”, Tạp
chí Dân tộc học, số 1.
4. Hội đồng Giám mục Việt Nam (1974),
Quyết nghị về tôn kính tổ tiên.
5. Kinh thánh trọn bộ Cựu ước và Tân
ước (1998), Nxb. Thành phố Hồ Chí
Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
6. Võ Tá Khánh (2013), Về với cội
nguồn, Nxb. Phương Đông, Cà Mau.
(tiếp theo trang 62)
LÂM HOÀNG LONG (2016), Tâm lý
người và quá trình hình thành nhân
cách (Sách chuyên khảo), Nxb. Chính trị
quốc gia, 528 tr.
Trong quá trình hình thành nhân cách,
vấn đề con người và giáo dục con người
không chỉ mang tính lý thuyết mà còn
mang tính thực tiễn. Vì vậy, việc xây
dựng một nền tâm lý học Việt Nam từ
thực tiễn, điều kiện và con người trên con
đường hội nhập là một yêu cầu cấp thiết
của hiện thực. Trên cơ sở học thuyết
Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
cuốn sách đi sâu nghiên cứu cốt lõi của vấn
đề và nhận rõ những thay đổi, biến chuyển
trong tâm lý con người cũng như quá trình
hình thành nhân cách dưới tác động của
hoàn cảnh hay môi trường xung quanh. Nội
dung sách mang lại cho bạn đọc sự hiểu
biết về tâm lý con người trong hoạt động
thực tiễn, từ đó nhận diện được tâm lý con
người để giải quyết, hạn chế tối đa những
điều không mong muốn xảy ra trong đời
sống hàng ngày mà mỗi người cũng như
xã hội phải đối mặt. Sách gồm 3 chương.
Chương 1 đề cập đến những nội dung
cơ bản để tiếp cận tâm lý người từ những
vấn đề chung khái quát mang tính lý
thuyết như những luận điểm về con người,
môi trường xã hội, tư duy, nhu cầu, lao
động, đạo đức,
Chương 2 phân tích tâm lý người và
quá trình hình thành nhân cách với các nội
dung mang tính thực tiễn về quy luật phát
triển của mỗi con người và hoàn cảnh của
con người như: những thay đổi mang tính
thời đại ở Việt Nam và quá trình hình
thành tâm lý con người Việt Nam, con
người và những chủ thể tâm lý, những đặc
điểm cơ bản của hành vi người, phẩm
chất, nhân cách và quá trình hình thành
nhân cách, tâm lý giới, tâm lý lứa tuổi.
Chương 3 nêu rõ vai trò của giáo dục
và định hướng giáo dục đối với từng cá
nhân con người và cộng đồng xã hội trong
tình hình cụ thể của nước ta.
TA.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26184_87950_1_pb_235.pdf