Chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị cơ
bản, có tính khả thi cao trong việc làm rõ tội
phạm ẩn:
Thứ nhất, sửa đổi BLHS hoặc các văn
bản hướng dẫn. Cần quy định rõ các hành vi
khách quan cụ thể trong BLHS. Đối với các
hành vi khách quan này cần được mô tả đầy
đủ, cụ thể, tránh tồn tại nhiều cách hiểu khác
nhau hoặc vì một số mục đích khác mà
những người có thẩm quyền áp dụng tùy tiện
nên không phản ánh đúng hành vi phạm tội
đã xảy ra trên thực tế. Ví dụ “Tội tàng trữ vận
chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt ma tuý”
quy định tại Điều 194 BLHS, đây là dạng tội
ghép. Thực tế rất khó tách bạch hành vi trong
quy định này. Để tách bạch các hành vi trong
tội danh này, người ta phải phân tích mặt chủ
quan của tội phạm, cụ thể là yếu tố “động
cơ”, “mục đích” là yếu tố lỗi thuộc mặt chủ
quan của tội phạm mà chủ thể thực hiện hành
vi phạm tội đã thực hiện để xác định xem là
hành vi “vận chuyển”, “mua bán” hay “tàng
trữ”. Như vậy, vô hình chung các biểu hiện
về mặt khách quan đã có phần bị “ẩn”, bởi
các mục đích khác nhau mà người thực hiện
hành vi có thể khai sao cho có lợi cho mình
hoặc vì lý do nể nang, nhận hối lộ mà những
người có thẩm quyền “lách luật” để vụ lợi.
Như vậy, cần phải hạn chế tối đa những điều
luật có sử dụng dấu hiệu “động cơ”, “mục
đích” thuộc yếu tố lỗi thuộc mặt chủ quan
của tội phạm của chủ thể thực hiện hành vi
phạm tội làm căn cứ xác định tội danh đối
với hành vi của chủ thể. Theo Thông tư liên
tịch của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ
Công an - Tòa án nhân dân tối cao - Bộ Tư
pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy”
của BLHS năm 1999, thì quy định tại mục
3.6 20 rất dễ xảy ra hiện tượng sai lệch về
hành vi phạm tội ban đầu vì những lý do
khác nhau, dẫn đến việc xác định hành vi
phạm tội không đúng hoặc bỏ sót hành vi
phạm tội.
Thứ 2: Cần xây dựng luật bảo vệ nhân
chứng và thiết lập cơ quan bảo vệ nhân
chứng độc lập. Cần nâng cao ý thức tố giác
tội phạm trong nhân dân để giảm tính “ẩn”
của tội phạm. Muốn như vậy, chúng ta cần
phải pháp điển hóa các chế định đảm bảo sự
an toàn cho người tố giác tội phạm. Trong
các văn bản pháp luật hình sự Việt Nam đã
có những quy định để bảo vệ nhân chứng.
Tuy nhiên, hiệu quả của nó thì vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu, tỷ lệ tố giác tội phạm ở
Việt Nam chỉ là 29,9%21. Vì vậy, việc quy
định các biện pháp bảo vệ nhân chứng một
cách cụ thể trong các văn pháp luật hình sự
sẽ đảm bảo cho nhân chứng và người thân
của họ được an toàn, điều này sẽ khiến họ
không còn cảm giác lo sợ bị trả thù, nên họ
sẽ hợp tác với cơ quan chức năng để tố giác
tội phạm. Do vậy, chúng tôi kiến nghị nước
ta cần nhanh chóng xây dựng Luật Bảo vệ
nhân chứng cũng như thành lập cơ quan bảo
vệ nhân chứng. Làm như vậy, chúng ta sẽ
đảm bảo rằng mọi người dân đều được yên
tâm, an toàn trong việc phát hiện và tố giác
tội phạm. Qua đó, mới đảm bảo cho công
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt
kết quả.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 298 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về tội phạm ẩn trong tội phạm học và trên thực tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MÖÅT SÖË VÊËN ÀÏÌ VÏÌ
TÖÅI PHAÅM ÊÍN TRONG TÖÅI PHAÅM HOÅC VAÂ TRÏN THÛÅC TÏË
Vũ VăN aNh*
1. Khái niệm tội phạm ẩn
Thuật ngữ tội phạm ẩn “dark figure of
crime” do nhà thiên văn học người Bỉ
Adolpho Quetelet đưa ra đầu tiên năm 1830.
Hiện nay, phần ẩn của tội phạm được đề cập
dưới các thuật ngữ “phần ẩn của tội phạm”,
“phần ẩn của tình hình tội phạm”, “tình hình
tội phạm ẩn” hoặc “tội phạm ẩn”1. Tội phạm
ẩn là một khái niệm có đời sống thực tế, bên
cạnh khái niệm tội phạm rõ, nó là hai bộ
phận hợp thành của tình hình tội phạm. Trên
cơ sở nghiên cứu hai nội dung đó, chúng ta
mới có thể có cơ sở khoa học đầy đủ để đưa
ra dự báo tình hình tội phạm, bởi lẽ “...dự báo
tình hình tội phạm không chỉ là hướng
nghiên cứu của tội phạm học mà còn là nhu
cầu cấp bách của thực tế đấu tranh phòng và
chống tội phạm”2. Còn theo V.M. Cogan “Xu
hướng ẩn là đặc tính của tình trạng tội phạm
nói chung cũng như mong muốn che giấu
việc thực hiện tội phạm là đặc trưng của từng
tội phạm riêng biệt”3. Như vậy, nghiên cứu
tình hình tội phạm không chỉ dựa vào số liệu
thống kê tội phạm rõ mà còn phải dựa vào
tội phạm ẩn, có như vậy thì công tác phòng
ngừa tội phạm mới đầy đủ và toàn diện.
15
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(311) T4/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
* ThS. TAND huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
1 Phạm Văn Tỉnh, Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay, Luận án TS, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2004
2 GS,TS. Võ Khánh Vinh, Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb.. Công an nhân dân, Hà Nội,
2000.
3 V.M. Cogan, Các đặc tính xã hội của tình trạng phạm tội. Nxb.. Matxcova, 1977. tr 48.
Bài viết nêu những vấn đề lý luận cơ bản của tội phạm ẩn trong tội phạm học, trên cơ
sở phân tích, đánh giá một số quan điểm của các nhà tội phạm học trên thế giới và trong
nước, tìm ra những nội dung tương đồng và khác biệt. Qua đó, bài viết đưa ra một số quan
điểm cụ thể, có giá trị ứng dụng thực tế để có thể làm cho phần “ẩn” của tội phạm hiện ra
một cách rõ nét, cùng với tội phạm rõ trên “phông” của tình hình tội phạm. Mục đích cuối
cùng và chủ yếu là hướng tới việc phòng ngừa tội phạm đạt kết quả tốt nhất.
Thực tế nghiên cứu đã cho thấy phần ẩn
của tội phạm chiếm tỷ lệ rất lớn, lớn hơn
nhiều so với phần hiện của tội phạm.
Theo số liệu thống kê của Bộ Công an,
từ năm 1990 đến 1999 tỷ lệ phá án ở nước ta
đạt 41,08% 4. Tỷ lệ phá án ở đây chính là sự
phản ánh thực tế: Những hành vi có dấu hiệu
phạm tội đã được kết thúc điều tra, tức là
hành vi đó đã được khởi tố vụ án, khởi tố bị
can và đã được tiến hành điều tra theo quy
định và có một trong các kết luận sau: Tạm
đình chỉ điều tra vì bị can bị bệnh tâm thần
hoặc bệnh hiểm nghèo khác; tạm đình chỉ
điều tra vì không biết rõ bị can đang ở đâu;
đình chỉ điều tra; có kết luận điều tra và đề
nghị Viện kiểm sát truy tố. Còn trường hợp
vụ án không xác định được bị can thì không
được xem là đã phá được án. Quan điểm về
tỷ lệ phá án của nước ta cũng phù hợp với
quan điểm của các nhà tội phạm học Đức:
“Một hành vi có dấu hiệu phạm tội chỉ được
xem là đã được “khám phá” (aufgeklaert),
khi cơ quan cảnh sát đã tiến hành điều tra mà
kết quả là bắt quả tang nghi can hoặc chí ít
cũng xác định rõ được tên của nghi can”5.
Tỷ lệ tội phạm ẩn ở các nước cũng rất
khác nhau về tình hình tội phạm nói chung
và tội phạm cụ thể nói riêng, như: ở Đức năm
1993 tỷ lệ phá án đạt 43,8%, tỷ lệ này ở tội
giết người là 82%, ở tội trộm cắp nghiêm
trọng là 11,9%6; ở Anh năm 2000 tỷ lệ tội
phạm ẩn chiếm 70% tổng số vụ phạm tội7;
theo Tymothy Mason thì số lượng tội phạm
ẩn lớn hơn từ 6 đến 8 lần tội phạm rõ8. Như
vậy, tội phạm ẩn chiếm tỷ lệ rất lớn, nó
không xuất hiện trên phông của tình hình tội
phạm, ở các công trình nghiên cứu về tội
phạm học cũng có đề cập nhưng chỉ dưới
dạng nêu hiện tượng mang tính chất chung
chung, khẩu hiệu mà chưa đi sâu tìm hiểu
bản chất của hiện tượng này.
Hiện nay, khái niệm về tội phạm ẩn
đang được hiểu theo nhiều góc độ khác nhau.
Theo Timothy Mason, “tội phạm ẩn là tội
phạm có thực nhưng không được tường thuật
với cảnh sát”9; Frank Schmalleger cho rằng,
“tội phạm ẩn là thuật ngữ được đưa ra bởi
các nhà tội phạm học và xã hội học mô tả số
lượng tội phạm không được tường thuật hoặc
không bị phát hiện và nó trả lời cho câu hỏi
về độ tin cậy của thống kê tội phạm chính
thức”10. Theo PGS.TS. Phạm Văn Tỉnh,
“phần ẩn của tình hình tội phạm là tổng thể
các hành vi phạm tội (cùng các chủ thể của
hành vi đó) đã xảy ra trên thực tế, song
không được phát hiện, không bị xử lý theo
quy định của pháp luật hình sự hoặc không
có trong thống kê hình sự”11. Còn GS.TS.
Nguyễn Xuân Yêm cho rằng, “tội phạm ẩn
là khái niệm chỉ một phần trong tổng thể các
tội phạm đã xảy ra trong một khoảng thời
gian và trên một địa bàn nhất định mà chưa
được các cơ quan bảo vệ pháp luật (Cơ quan
điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ
quan khác của Công an có chức năng tiếp
nhận tin tố giác và phát hiện tội phạm) phát
hiện về sự kiện nói chung hoặc chưa nhận
biết được sự kiện, hành vi đã phát hiện là tội
phạm”12.
Tổng hợp các quan điểm nêu trên, kết
16
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(311) T4/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Phạm Văn Tỉnh, Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay. Tlđd.
5 H-D. Schwind, Kriminologie, Kriminalistik Verlag, Heidelberg, 1995, tr. 19.
6 Phạm Văn Tỉnh, Đặc điểm tội phạm học của tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay, Tlđd.
7 Bài giảng “Extend of Crime” của GS.TS Jock Young.
8 Bài giảng “Official statistics and the dark figure” của Timothy Mason, Paris University, trên trang www.deviance 2- Official
statistics and the dark figure.htm ngày 5/6/2006.
9 Bài giảng “Official statistics and the dark figure, Tlđd” .
10 Frank Schmalleger, Criminology today, Prentice Hall in 2002, tr 61.
11 H-D. Schwind, Kriminologie, Kriminalistik Verlag, Heidelberg, 1995, tr. 42.
12 Nguyễn Xuân Yêm, Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, 2001, tr. 93.
17
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(311) T4/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
hợp với thực tiễn nghiên cứu, chúng tôi đưa
ra khái niệm về tội phạm ẩn như sau: Tội
phạm ẩn là số lượng hành vi phạm tội đã xảy
ra nhưng không được phát hiện, không được
tường thuật, không bị xử lý theo quy định của
pháp luật hình sự hoặc không có trong thống
kê hình sự.
2. Nguyên nhân dẫn tới việc ẩn của tội
phạm
2.1 Nguyên nhân khách quan
Đây là một nguyên nhân nằm hoàn toàn
ngoài ý muốn của cơ quan có thẩm quyền
khởi tố vụ án hình sự cũng như bản thân
người bị hại. Họ không có bất kỳ một thông
tin nào về hành vi phạm tội, mặc dù hành vi
phạm tội đã xảy ra trên thực tế. Có các
trường hợp sau:
Tội phạm thực tế đã xảy ra nhưng ngay
cả người bị hại cũng không biết. Do vậy, việc
phạm tội đương nhiên không được tường
thuật hoặc không bị phát hiện. Ví dụ 1: Một
gia đình của một người giàu có, tiền họ để
trong tủ, người giúp việc biết và đã rút của
họ 20.000.000 đ, nhưng vì số tiền đã mất quá
ít so với số tiền họ có nên họ đã không hề
phát hiện ra số tiền đã bị mất. Trong trường
hợp này, không có bất cứ nhân chứng nào
biết, bản thân người mất tiền cũng không biết
mình đã bị lấy cắp. Vụ án đã hoàn toàn
không được tường thuật hoặc không bị phát
hiện xử lý. Ví dụ 2: Khi một người bị tai nạn
giao thông trên một con đường vắng, có một
người phát hiện. Nhưng khi thấy nạn nhận
đã bất tỉnh, nạn nhân lại có nhiều tiền, anh ta
đã nảy sinh lòng tham, lấy hết tiền rồi bỏ đi.
Nạn nhân không được cứu kịp thời nên đến
khi có người thứ hai phát hiện ra thì nạn nhân
đã chết. Vì không có người chứng kiến, nên
hành vi phạm tội hoàn toàn không được
tường thuật hoặc không bị phát hiện xử lý.
Tội phạm thực tế đã xảy ra, người bị hại
biết nhưng họ không còn cơ hội để tố giác tội
phạm, vụ án cũng không có bất cứ một nhân
chứng nào cũng như tình tiết quan trọng nào
đề Cơ quan điều tra điều tra vụ án. Ví dụ: Một
thanh niên vào Tây Nguyên làm kinh tế mới,
có mang theo vốn liếng làm ăn. Trên đường
đi tìm việc, anh ta đã bị giết và bị giấu xác
trong rừng. Không có bất kỳ ai chứng kiến vụ
việc, việc mất tích của anh ta cũng không có
bất kỳ một manh mối nào để điều tra, người
bị hại thì không còn cơ hội để tố giác tội
phạm. Trong trường hợp này, chỉ có thể xem
xét để giải quyết tuyên bố anh ta mất tích
hoặc đã chết để giải quyết các vấn đề dân sự.
Hành vi phạm tội hoàn toàn không được
tường thuật hoặc không bị phát hiện xử lý.
2.2 Nguyên nhân chủ quan
Theo quy định của pháp luật hình sự,
việc phát hiện tội phạm có thể được thực
hiện thông qua các hình thức sau đây: Tố
giác và tin báo về tội phạm, như tố giác của
công dân; tin báo của cơ quan Nhà nước
hoặc các tổ chức xã hội; tin báo trên các
phương tiện thông tin đại chúng; Trực tiếp
phát hiện tội phạm của các cơ quan chức
năng; Người phạm tội tự thú.
Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác
nhau mà các nguồn thông tin về tội phạm nói
trên đã không được thực hiện. Nguyên nhân
chủ quan dẫn đến việc ẩn của tội phạm có
nhiều nhưng có thể chia ra thành 4 nhóm sau:
a. Nguyên nhân từ phía nạn nhân của tội
phạm: Tội phạm thực tế đã xảy ra nhưng vì
những lý do khác nhau như: Không tố giác
(tỷ lệ không tố giác tội phạm trên thế giới
trung bình là 49,9%, trong đó một số nước
có tỷ lệ tố giác tội phạm cao là Scottlen
62,3%, Pháp 60,8%, Newzealand 59,7%13. Ở
Việt Nam tỷ lệ này là 29%14); Sợ dư luận (tội
phạm về tình dục); Sợ trả thù (chủ thể của tội
13 Viện Nghiên cứu pháp lý - Bộ Tư pháp, Tư pháp hình sự so sánh, Hà Nội, 1999. tr. 41.
14 Trần Hữu Tráng, “Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam”, Tạp chí Luật học (Số 3/2000), tr. 53.
phạm hoạt động có tính chất xã hội đen); Có
sự thỏa thuận giữa người bị hại và gia đình
họ với tội phạm.
b. Nguyên nhân từ phía người phạm tội:
Đe dọa người bị hại, người làm chứng khiến
họ không tố giác tội phạm; Thỏa thuận với
người bị hại, người làm chứng để họ không
tố giác tội phạm; Dùng thủ đoạn tinh vi để
che giấu hành vi phạm tội, không tự thú hành
vi phạm tội. Hối lộ cơ quan có thẩm quyền
để thoát tội.
c. Nguyên nhân từ phía người làm
chứng: Người biết về sự việc phạm tội nhưng
không dám tố cáo vì sợ bị trả thù hoặc do
quen thân thiết với người phạm tội nên họ
không tố giác, cũng có thể do họ thỏa thuận
với người phạm tội để nhận một lợi ích vật
chất nào đó nên họ cũng không tố giác tội
phạm.
d. Nguyên nhân từ các cơ quan tiến hành
tố tụng: Có hành vi nhận hối lộ để không xử
lý hình sự đối với người phạm tội hoặc do nể
nang, bao che không xử lý tội phạm...
e. Nguyên nhân do công tác thống kê:
Do một số lý do khác nhau như kỹ thuật xây
dựng các cấu thành tội phạm trong Bộ luật
Hình sự (BLHS) như trường hợp tội ghép, ví
dụ Điều 194 - Tội tàng trữ, mua bán, vận
chuyễn trái phép chất ma túy, rất nhiều
trường hợp một người thực hiện đầy đủ cả
ba hành vi khách quan được mô tả tại Điều
194, nhưng họ cũng chỉ được coi là phạm
một tội danh được quy định tại Điều 194
BLHS. Trong khi đó, các hướng dẫn lập
bảng thống kê của các cơ quan tiến hành tố
tụng cũng hướng dẫn với một tội danh quy
định tại Điều 194, chứ không đề cập đến các
hành vi cụ thể khác, việc đó dẫn đến hiện
tượng một số hành vi phạm tội thực tế, thậm
chí đã được xét xử và bản án có hiệu lực
pháp luật nhưng cũng không được thể hiện
thông qua tình hình tội phạm.
3. Phân loại tội phạm ẩn
Việc phân loại tội phạm ẩn có một ý
nghĩa to lớn trong việc xác định nguyên nhân
ẩn của tội phạm một cách khoa học, hệ
thống. Việc này sẽ giúp cho bức tranh về tình
hình tội phạm được đầy đủ và toàn diện hơn.
Nghiên cứu tội phạm ẩn mục đích chính và
chủ yếu là làm cho nó hiện nên một cách rõ
nét, thông qua đó sẽ giúp cho công tác dự
báo có hiệu quả và chính xác nhất. Một khi
công tác dự báo đầy đủ, khách quan và toàn
diện thì công tác phòng ngừa tội phạm mới
đạt hiệu quả tốt nhất. Tuy nhiên, hiện nay
còn có nhiều quan điểm khác nhau về việc
phân loại tội phạm ẩn.
a. Tội phạm ẩn gồm hai loại:
- Tội phạm ẩn khách quan: Là tất cả các
tội phạm đã xảy ra trong thực tế, song các cơ
quan có thẩm quyền khởi tố vụ án hình sự
không có thông tin về chúng.
- Tội phạm ẩn chủ quan: Là trường hợp
tội phạm đã xảy ra trên thực tế, các cơ quan
điều tra đã nhận được thông tin về vụ việc
nhưng do các nguyên nhân khác nhau mà
hành vi phạm tội không được xem xét xử lý.
b. Tội phạm ẩn gồm ba loại:
Ngoài Tội phạm ẩn khách quan và Tội
phạm ẩn chủ quan như trên, còn có Tội phạm
ẩn thống kê: Là loại tội phạm ẩn tồn tại trong
phạm vi công tác thống kê tội phạm nhưng
không phải nằm ở chủ thể tiến hành công
việc thống kê, không phải ở phương tiện kỹ
thuật, công nghệ áp dụng cho công tác thống
kê lạc hậu hay hiện đại, mà nằm ở các quy
định có tính chất pháp lý đối với công tác
thống kê tội phạm.
Về cơ bản thì hai quan điểm đều thống
nhất hai thuộc tính của tội phạm ẩn là tội
phạm ẩn khách quan và tội phạm ẩn chủ
quan. Hiện nay, “tội phạm ẩn khách quan”
18
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(311) T4/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15 Trần Hữu Tráng, Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam, Tlđd.; Phạm Văn Tỉnh, Đặc điểm tội phạm học của
tình hình tội phạm ở nước ta hiện nay, Tlđd.
và “tội phạm ẩn chủ quan” còn có tác giả gọi
là “tội phạm ẩn tự nhiên” và “tội phạm ẩn
nhân tạo”15. Riêng loại “tội phạm ẩn thống
kê” còn có nhiều ý kiến khác nhau. Có tác
giả cho rằng, tội phạm ẩn thống kê thực chất
vẫn là tội phạm rõ vì khi đưa ra xét xử rồi thì
đương nhiên vẫn là tội phạm rõ, còn việc
thống kê chính thức của tòa án là do nhiều
nguyên nhân khác nhau16; có tác giả cho
rằng, việc nghiên cứu “tội phạm ẩn thống kê”
có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá
tình hình tội phạm nói chung, nhưng nếu đưa
nó vào phạm trù “tội phạm ẩn” là không phù
hợp với những tiêu chí đánh giá về tình hình
tội phạm ẩn, như “thời gian ẩn”, “lý do ẩn”
và “độ ẩn”17; có tác giả cho rằng, quan điểm
“tội phạm ẩn thống kê” là tội phạm ẩn là
phiến diện, với lập luận: số lượng tội phạm
này chỉ “ẩn” đối với các số liệu tổng hợp về
tình hình tội phạm mà thôi, còn thực tế số
lượng tội phạm này đã bị phát hiện, đã bị xử
lý bằng các chế tài hình sự18.
Theo chúng tôi, “tội phạm ẩn thống kê”
là loại tội phạm ẩn có đời sống thực tế, việc
nghiên cứu nó có ý nghĩa quan trọng trong
công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.
Ở đây, việc “ẩn thống kê” không được hiểu
là những sai sót thống kê, do sự cẩu thả của
cán bộ thực hiện hoặc do công nghệ áp dụng
thống kê lạc hậu, mà nó nằm ngay trong
thuộc tính pháp lý, như kỹ thuật xây dựng
các cấu thành tội phạm ở BLHS (trường hợp
tội phạm ghép đã được đề cập ở trên), hoặc
do hướng dẫn lập biểu bảng thống kê của các
cơ quan tiến hành tố tụng.
Chúng tôi xin trích một phần mẫu 1A do
Tòa án nhân dân tối cao ban hành để Tòa án
nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện sử dụng trong
việc lập báo cáo thống kê.(Xem biểu trang
sau)
Qua mẫu bảng thống kê này, chúng ta
thấy các cột tội phạm, điều luật áp dụng, vụ
và cột bị cáo. Cột tội phạm có rất nhiều tội
ghép nhưng cột Điều luật chỉ ghi Điều luật
cụ thể áp dụng, như Điều 194, điều luật này
có ba hành vi mô tả hành vi khách quan, cho
nên nếu một bị cáo thực hiện đồng thời cả ba
hành vi trên thực tế thì nhìn qua bảng số liệu
thống kê này chúng ta sẽ không thể thấy
được điều đó. Việc này đã làm “ẩn” đi đáng
kể số hành vi phạm tội đã thực hiện, điều đó
kéo theo việc đánh giá tình hình tội phạm sẽ
không được đầy đủ, chính xác và khoa học,
từ đó dẫn đến công tác dự báo tội phạm và
công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm sẽ
không đáp ứng được yêu cầu. Tương tự như
vậy, cột vụ và cột bị cáo cũng thế. Thực tế
cho chúng ta thấy, có rất nhiều trường hợp
mà trong một vụ án lại có nhiều hành vi
phạm tội khác nhau (giết người, cướp tài sản,
hiếp dâm) nhưng nếu chúng ta nhìn vào bảng
1A thì chúng ta sẽ không thấy được điều này.
Qua phân tích số liệu thực tế luôn có một kết
quả như sau:
∑ Số hành vi phạm tội > ∑ Số bị cáo >
∑ Số vụ án.
Vì vậy, việc đưa “tội phạm ẩn thống kê”
là tội phạm ẩn là phù hợp.
4. Phương pháp xác định tội phạm ẩn
Hiện nay, các nhà tội phạm học trên thế
giới đưa ra hai phương pháp để xác định tội
phạm ẩn sau.
Phương pháp điều tra về tội phạm tự
tường thuật (offender self - report surveys)
Ở các nước Anh, Mỹ, Australia, điều tra
tội phạm tự tường thuật được tiến hành hàng
năm. Đây là phương pháp cần bảo đảm an
toàn, đồng thời phải cam kết bảo vệ bí mật
danh tính của người tham gia tự tường thuật
về tội phạm mà họ đã thực hiện, họ không
19
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(311) T4/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Dương Tuyết Miên, Bàn về tội phạm rõ, tội phạm ẩn trong tội phạm học; Tạp chí Luật học (3/2010), tr. 30.
17 Nguyễn Xuân Yêm, Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, Tlđd, tr. 94.
18 Trần Hữu Tráng, Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam, Tlđd;
20
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(311) T4/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19 Mẫu 1A, Tòa án nhân dân tối cao.
phải lo lắng về những điều mà mình đã khai
ra với cơ quan điều tra cũng như sợ hãi về
việc họ sẽ bị bắt giữ và bị xử lý về hình sự
do đã thực hiện tội phạm. Đối tượng các nhà
điều tra hướng tới thường là những người trẻ
tuổi, bởi họ là nhóm có nguy cơ phạm tội
cao. Kết quả của phương pháp này cho thấy,
tội phạm xảy ra trên thực tế cao hơn rất nhiều
số tội phạm có trong thống kê chính thức.
Phương pháp này có một số hạn chế là
phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn đối với giới
trẻ, còn một số lượng lớn các đối tương khác
chưa được đánh giá nghiên cứu.
Phương pháp điều tra về nạn nhân của
tội phạm (the victimization survey)
Đối với phương pháp này, nhà điều tra
phải cam kết giữ bí mật danh tính cho nạn
nhân, để đảm bảo chắc chắn rằng họ sẽ được
an toàn. Đây là các đối tượng đặc biệt, họ bị
tổn thất về sức khỏe, tinh thần và vật chất do
hành vi phạm tội gây ra. Khác với phương
pháp điều tra về tội phạm tự tường thuật,
điều tra về nạn nhân của tội phạm cũng có
cách thức điều tra khác biệt, ví dụ như bảng
biểu điều tra, câu hỏi điều tra cũng phải có
tính chất khác biệt. Ở các nước Anh, Mỹ,
Australia, điều tra về nạn nhân được tiến
hành hàng năm và nó đã giúp cho các nhà tội
phạm học có đánh giá chính xác hơn về tội
phạm ẩn. Qua đó bức tranh về tình hình tội
phạm sẽ đầy đủ hơn và giúp cho công tác
phòng ngừa tội phạm đạt được kết quả tốt
hơn.
5. một số kiến nghị nhằm làm rõ tính “ẩn”
của tội phạm ẩn
Chúng tôi xin đưa ra một số kiến nghị cơ
bản, có tính khả thi cao trong việc làm rõ tội
phạm ẩn:
Thứ nhất, sửa đổi BLHS hoặc các văn
bản hướng dẫn. Cần quy định rõ các hành vi
khách quan cụ thể trong BLHS. Đối với các
hành vi khách quan này cần được mô tả đầy
đủ, cụ thể, tránh tồn tại nhiều cách hiểu khác
nhau hoặc vì một số mục đích khác mà
những người có thẩm quyền áp dụng tùy tiện
nên không phản ánh đúng hành vi phạm tội
đã xảy ra trên thực tế. Ví dụ “Tội tàng trữ vận
chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt ma tuý”
quy định tại Điều 194 BLHS, đây là dạng tội
ghép. Thực tế rất khó tách bạch hành vi trong
quy định này. Để tách bạch các hành vi trong
tội danh này, người ta phải phân tích mặt chủ
quan của tội phạm, cụ thể là yếu tố “động
cơ”, “mục đích” là yếu tố lỗi thuộc mặt chủ
quan của tội phạm mà chủ thể thực hiện hành
vi phạm tội đã thực hiện để xác định xem là
hành vi “vận chuyển”, “mua bán” hay “tàng
trữ”. Như vậy, vô hình chung các biểu hiện
về mặt khách quan đã có phần bị “ẩn”, bởi
các mục đích khác nhau mà người thực hiện
hành vi có thể khai sao cho có lợi cho mình
hoặc vì lý do nể nang, nhận hối lộ mà những
người có thẩm quyền “lách luật” để vụ lợi.
Như vậy, cần phải hạn chế tối đa những điều
luật có sử dụng dấu hiệu “động cơ”, “mục
đích” thuộc yếu tố lỗi thuộc mặt chủ quan
của tội phạm của chủ thể thực hiện hành vi
phạm tội làm căn cứ xác định tội danh đối
với hành vi của chủ thể. Theo Thông tư liên
tịch của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ
Công an - Tòa án nhân dân tối cao - Bộ Tư
pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại
Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy”
của BLHS năm 1999, thì quy định tại mục
3.6 20 rất dễ xảy ra hiện tượng sai lệch về
hành vi phạm tội ban đầu vì những lý do
khác nhau, dẫn đến việc xác định hành vi
phạm tội không đúng hoặc bỏ sót hành vi
phạm tội.
Thứ 2: Cần xây dựng luật bảo vệ nhân
chứng và thiết lập cơ quan bảo vệ nhân
21
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁPSöë 07(311) T4/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Thông tư số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007.
chứng độc lập. Cần nâng cao ý thức tố giác
tội phạm trong nhân dân để giảm tính “ẩn”
của tội phạm. Muốn như vậy, chúng ta cần
phải pháp điển hóa các chế định đảm bảo sự
an toàn cho người tố giác tội phạm. Trong
các văn bản pháp luật hình sự Việt Nam đã
có những quy định để bảo vệ nhân chứng.
Tuy nhiên, hiệu quả của nó thì vẫn chưa đáp
ứng được yêu cầu, tỷ lệ tố giác tội phạm ở
Việt Nam chỉ là 29,9%21. Vì vậy, việc quy
định các biện pháp bảo vệ nhân chứng một
cách cụ thể trong các văn pháp luật hình sự
sẽ đảm bảo cho nhân chứng và người thân
của họ được an toàn, điều này sẽ khiến họ
không còn cảm giác lo sợ bị trả thù, nên họ
sẽ hợp tác với cơ quan chức năng để tố giác
tội phạm. Do vậy, chúng tôi kiến nghị nước
ta cần nhanh chóng xây dựng Luật Bảo vệ
nhân chứng cũng như thành lập cơ quan bảo
vệ nhân chứng. Làm như vậy, chúng ta sẽ
đảm bảo rằng mọi người dân đều được yên
tâm, an toàn trong việc phát hiện và tố giác
tội phạm. Qua đó, mới đảm bảo cho công
cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm đạt
kết quả.
Thứ ba: Khắc phục tội phạm ẩn thống
kê. Tòa án nhân dân tối cao cần phải thay đổi
mẫu quy định về thống kê toàn ngành, ví dụ
như mẫu 1A cần phải sửa đổi theo hướng
phải lấy cơ số hành vi phạm tội làm trung
tâm, có như vậy mới phản ánh đúng tình hình
tội phạm. Cụ thể ở cột “tội phạm” nên tách
các tội ghép thành các hành vi cụ thể, còn cột
“tội danh” vẫn giữ nguyên điều luật được
quy định trong BLHS, các cột về “số vụ” và
“bị cáo” có thể giữ nguyên. Chúng ta chấp
nhận một nguyên tắc thực tế ∑ Số hành vi
phạm tội > ∑ Số bị cáo > ∑ Số vụ án, làm
như vậy mới phản ảnh đúng tình hình tội
phạm. Khi đó “tội phạm ẩn thống kê” mới
được làm “rõ” có thể tới mức được loại trừ
hoàn toàn n
22
NGHIÏN CÛÁU
LÊÅP PHAÁP Söë 07(311) T4/2016
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
21 Trần Hữu Tráng, Một số vấn đề về tình hình tội phạm ẩn ở Việt Nam, Tlđd.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ve_toi_pham_an_trong_toi_pham_hoc_va_tren_thuc.pdf