Thứ ba, quy định cụ thể việc xác định
thiệt hại cũng như trách nhiệm BTTH
đối với các thành phần môi trường. Cần
xác định rõ “môi trường nước, môi trường
đất phục vụ cho các mục đích khác là mục
đích gì?”. Điển hình là hiện nay chưa có
cơ sở khoa học và thực tiễn để lượng giá
những thiệt hại của môi trường không
khí, trong khi những chất thải ra không
khí rất nhanh chóng bão hòa và phát tán
trên diện rộng. Chính vì vậy, cần phải
nghiên cứu đề ra những tiêu chí và cách
thức xác định thiệt hại đối với các thành
phần môi trường mang tính đặc thù này
cho phù hợp và đặt ra trách nhiệm BTTH
đối với môi trường không khí đối với chủ
thể gây thiệt hại.
Thứ tư, về việc phân định “trách
nhiệm khắc phục hậu quả môi trường” là
trách nhiệm hành chính hay trách nhiệm
dân sự. Nhóm tác giả kiến nghị áp dụng
“trách nhiệm khắc phục hậu quả môi trường”
là trách nhiệm hành chính nếu hành vi
gây ô nhiễm môi trường công cộng nói
chung, lúc này chủ thể có trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước; và
là trách nhiệm dân sự nếu gây hại đến
môi trường sống trong trường hợp chủ
thể đã được trao quyền hưởng dụng đối
với thành phần của môi trường. Hai bên
có quyền thỏa thuận mức, phương thức,
hình thức bồi thường.
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 371 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường và gợi mở hướng hoàn thiện pháp luật, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
63Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
1. Một số bất cập, hạn chế của pháp
luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
(BTTH) do làm ô nhiễm môi trường được
hiểu là một loại trách nhiệm dân sự, theo
đó, chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật
về môi trường hoặc chủ thể khác theo
quy định của pháp luật phải chịu trách
nhiệm BTTH đối với sự suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường và
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con
người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân khác, mà giữa chủ thể gây
thiệt hại và chủ thể bị thiệt hại không có
việc giao kết hợp đồng hoặc có hợp đồng
nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc
hành vi thực hiện hợp đồng.
1Trách nhiệm BTTH do làm ô nhiễm
môi trường là một dạng trách nhiệm
BTTH ngoài hợp đồng. Ngoài những
đặc điểm chung của trách nhiệm BTTH
ngoài hợp đồng, trách nhiệm BTTH do
làm ô nhiễm môi trường còn có những
đặc điểm riêng, mang tính đặc thù là: Một
là, đây là trách nhiệm chỉ phát sinh khi
chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật môi
trường, có thể dưới dạng hành động hoặc
không hành động và ngay cả khi chủ thể
vi phạm không có lỗi. Hai là, thiệt hại về
tính mạng, sức khoẻ, tài sản, quyền và lợi
ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức chỉ
* Thạc sĩ, Trưởng khoa Pháp luật dân sự và Kiểm
sát dân sự, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.
** Lớp K4C, Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI...
DO LÀM Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG
VÀ GỢI MỞ HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
đàM tHị DiỄM HạNH*- NgUyỄN tHị VÂN aNH**
Bài viết phân tích một số bất cập, hạn chế trong các quy định pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường và đề xuất một số
giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
Từ khóa: Ô nhiễm môi trường, bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại.
Ngày nhận bài: 08/6/2020; Ngày biên tập xong: 09/6/2020; Ngày duyệt đăng:
09/6/2020.
this article analyzes shortcomings and limitations in legal regulations on
liability for compensation for environmental pollution. in which, some solutions
on this issue will be pointed out to improve the law.
keywords: Environmental pollution, compensation for non-contractual
damages, liability to pay damages.
Một Số VẤN đỀ VỀ tráCH NHiỆM BỒi tHườNg tHiỆt Hại...
64 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
phát sinh sau khi có hậu quả là suy giảm
chức năng, tính hữu ích của môi trường.
Ba là, thiệt hại tác động đến nhiều chủ thể
và khó xác định.1
Khi nghiên cứu về trách nhiệm BTTH
do làm ô nhiễm môi trường, cần làm rõ
các nội dung sau:
Thứ nhất, chủ thể trong quan hệ Bảo
vệ môi trương (BTTH) do làm ô nhiễm
môi trường bao gồm: chủ thể chịu trách
nhiệm bồi thường và chủ thể có quyền
yêu cầu bồi thường.
Về chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường:
Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2014
xác định 02 loại thiệt hại do hành vi vi
phạm pháp luật về môi trường gây ra là:
Thiệt hại đối với suy giảm chức năng, tính
hữu ích của môi trường và thiệt hại đối
với sức khỏe, tính mạng của con người,
tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân do hậu quả của việc suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường gây ra.2
Theo đó, thiệt hại về sức khỏe, tính
mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân chính là thiệt hại
gián tiếp xuất phát từ thiệt hại do suy giảm
chức năng, tính hữu ích của môi trường.
Pháp luật hiện hành quy định chủ thể làm
ô nhiễm môi trường gây thiệt hại phải chịu
trách nhiệm bồi thường. Điều này có nghĩa
là cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp
luật môi trường gây ra các loại thiệt hại
nêu trên thì phải bồi thường đối với những
tổn thất do mình gây ra. Tuy nhiên, trong
1 Bùi Đức Hiển (2019). Pháp luật về trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường.
Hội thảo pháp luật về bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng - Thực trạng và giải pháp, Trường Đại học Luật
Hà Nội, 25/9/2019, trang 133.
2 Điều 163 Luật bảo vệ môi trường năm 2014
những trường hợp đặc biệt, chủ thể chịu
trách nhiệm bồi thường có thể không phải
là chủ thể gây thiệt hại. Ví dụ: Người chưa
đủ mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha,
mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ
thiệt hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ
để bồi thường mà con chưa thành niên gây
thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó
để bồi thường phần còn thiếu.33
Về chủ thể có quyền yêu cầu bồi thường:
Tùy thuộc vào loại thiệt hại mà có thể xác
định như sau:
Đối với thiệt hại do suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường, Nghị
định 03/2015/NĐ-CP quy định về xác
định thiệt hại đối với môi trường xác định
rõ quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
thuộc cơ quan nhà nước mà cụ thể là Ủy
ban nhân dân (UBND) các cấp và Bộ Tài
nguyên và Môi trường (Bộ TN&MT).43
Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định
về quyền hưởng dụng của chủ thể. Trong
đó, quyền hưởng dụng là quyền của chủ
thể được khai thác công dụng và được
hưởng hoa lợi, lợi tức đối với tài sản thuộc
quyền sở hữu của chủ thể khác trong một
thời hạn nhất định.55 Tuy nhiên, vấn đề
đặt ra là nếu chủ thể được Nhà nước trao
quyền hưởng dụng đối với thành phần
môi trường thì khi thành phần môi trường
đó bị ô nhiễm, ai sẽ là người có quyền yêu
cầu BTTH, cơ quan nhà nước hay chủ thể
có quyền hưởng dụng? Hiện nay, pháp
luật chưa có quy định về vấn đề này, do
đó có thể hiểu pháp luật không thừa nhận
người hưởng dụng được yêu cầu BTTH về
3 Khoản 2 Điều 586 Bộ luật dân sự năm 2015
4 Xem Điều 3 Nghị định 03/2015/NĐ-CP ngày
06/01/2015 của Chính phủ quy định về xác định
thiệt hại đối với môi trường
5 Điều 257 Bộ luật dân sự năm 2015
ĐÀM THỊ DIỄM HẠNH - NGUYỄN THỊ VÂN ANH
65Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
môi trường mà quyền này chỉ thuộc về cơ
quan nhà nước có thẩm quyền.16
Đối với thiệt hại về tính mạng, sức
khỏe của con người, tài sản và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của
việc suy giảm chức năng, tính hữu ích của
môi trường gây ra, chủ thể bị thiệt hại là
các cá nhân, tổ chức có quyền tự yêu cầu
bồi thường, hoặc thông qua người giám hộ,
người đại diện hợp pháp để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại.
Tuy nhiên, thực tế việc chủ thể bị thiệt
hại khi thực hiện quyền yêu cầu bồi thường
của mình còn gặp rất nhiều khó khăn. Bởi lẽ,
môi trường bị ô nhiễm có thể gây ra thiệt hại
đến rất nhiều chủ thể ở những địa phương
khác nhau, nhưng không phải lúc nào các
chủ thể bị thiệt hại cũng sẽ đưa ra đơn khởi
kiện cùng thời điểm. Do đó, Tòa án sẽ mất
rất nhiều thời gian để xem xét toàn bộ các
đơn khởi kiện, trong khi nội dung đơn khởi
kiện khó thống nhất với nhau, gây khó
khăn khi xác định nội dung vụ án. Các vụ
án môi trường đòi hỏi chi phí lớn, mang
tính chuyên môn cao nên cá nhân ít có động
lực để khởi kiện, không chủ động trong việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Thứ hai, về phương thức xác định
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường. Có
hai phương thức xác định thiệt hại tương
ứng với hai loại thiệt hại như sau:
Phương thức xác định thiệt hại do suy
giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường:
Thiệt hại do suy giảm chức năng, tính
hữu ích của môi trường cần được xác định
thông qua các yếu tố sau:
6 Xem thêm: Lê Hồng Hạnh (2019). Những vấn đề
pháp lý trong việc xác định trách nhiệm bồi thường
thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường trong sản xuất,
kinh doanh ở Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp nhà nước, Bộ Tư pháp, trang 103-104
Xác định thành phần môi trường bị
thiệt hại thông qua số lượng thành phần
môi trường bị suy giảm, loại hình hệ sinh
thái, giống loài bị thiệt hại và mức độ thiệt
hại của từng thành phần môi trường như
thế nào.27 Thành phần môi trường bao
gồm: đất, nước, không khí, âm thanh, ánh
sáng, sinh vật và các hình thái vật chất
khác.38 Pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ
ấn định trách nhiệm bồi thường trong các
trường hợp sau: Một là, môi trường nước
phục vụ mục đích bảo tồn, sinh hoạt,
giải trí, sản xuất và mục đích khác bị ô
nhiễm, bị ô nhiễm ở mức nghiêm trọng,
bị ô nhiễm ở mức đặc biệt nghiêm trọng.
Hai là, môi trường đất phục vụ cho các
mục đích bảo tồn, sản xuất và mục đích
khác bị ô nhiễm, bị ô nhiễm ở mức nghiêm
trọng, bị ô nhiễm ở mức đặc biệt nghiêm
trọng. Ba là, hệ sinh thái tự nhiên thuộc
và không thuộc khu bảo tồn thiên nhiên
bị suy thoái. Bốn là, loài được ưu tiên bảo
vệ theo quy định của pháp luật bị chết, bị
thương.49 Quy định này chưa rõ ràng và
chưa bao quát được tất cả các thành phần
môi trường bị thiệt hại.
Xác định mức độ suy giảm chức
năng, tính hữu ích của môi trường căn
cứ vào hàm lượng các chất gây ô nhiễm
môi trường so với quy chuẩn kỹ thuật
môi trường. Ngoài ra, có thể căn cứ vào số
lượng của thành phần môi trường bị khai
thác quá mức so với trữ lượng tự nhiên
của nó; dựa vào mức độ khan hiếm của
thành phần môi trường trên thực tế hoặc
mức độ ưu tiên của Nhà nước trong việc
quản lý, bảo vệ và phát triển mỗi thành
phần môi trường. Tương ứng với ba cấp
7 Khoản 3 Điều 165 Luật bảo vệ môi trường năm 2014
8 Khoản 2 Điều 3 Luật bảo vệ môi trường năm 2014
9 Khoản 1 Điều 1 Nghị định số 03/2015/NĐ-CP.
Một Số VẤN đỀ VỀ tráCH NHiỆM BỒi tHườNg tHiỆt Hại...
66 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
độ ô nhiễm theo Khoản 2 Điều 105 Luật
BVMT năm 2014, sự suy giảm chức năng,
tính hữu ích của môi trường cũng được
chia thành ba mức độ: “có suy giảm - suy
giảm nghiêm trọng - suy giảm đặc biệt
nghiêm trọng”.110
Xác định phạm vi, giới hạn môi
trường bị suy giảm chức năng, tính hữu
ích theo quy định tại Khoản 2 Điều 165
Luật BVMT năm 2014 làm cơ sở để tính
toán chính xác thiệt hại và áp dụng các
biện pháp khắc phục hợp lý.
Xác định chi phí thiệt hại. Theo quy
định tại Khoản 4 Điều 165 Luật BVMT năm
2014, tùy từng trường hợp mà có thể áp
dụng các biện pháp sau: Một là, tính toán
chi phí thiệt hại trước mắt và lâu dài do sự
suy giảm chức năng, tính hữu ích của các
thành phần môi trường. Hai là, tính toán
chi phí phục vụ cho hoạt động xử lý, cải tạo,
phục hồi môi trường. Khi xác định trách
nhiệm BTTH, cần phân định rõ “trách nhiệm
phục hồi môi trường bị ô nhiễm” trong trường
hợp cụ thể là trách nhiệm hành chính (quy
định tại Điều 4 Nghị định 155/2016/NĐ-CP
ngày 18/11/2016 của Chính phủ về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ
môi trường) hay trách nhiệm dân sự (quy
định tại Khoản 4 Điều 165 Luật BVMT năm
2014). Trường hợp chủ thể có hành vi vi
phạm pháp luật về môi trường vừa phải
chịu trách nhiệm hành chính, sau đó lại
phải chịu trách nhiệm BTTH thì có được
miễn chi phí để khôi phục lại môi trường
hay không. Hay trường hợp các bên có
thỏa thuận chi phí khôi phục môi trường
khác với chi phí do cơ quan có thẩm quyền
xử phạt vi phạm hành chính thì xử lý như
thế nào? Ba là, chi phí giảm thiểu hoặc triệt
tiêu nguồn gây thiệt hại. Bốn là, thăm dò ý
10 Khoản 1 Điều 165 Luật BVMT năm 2014
kiến các đối tượng liên quan như chủ thể
gây thiệt hại, bị thiệt hại và những chủ thể
khác có liên quan.
Phương thức xác định thiệt hại về tính
mạng, sức khỏe của con người, tài sản và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân:
Việc xác định loại thiệt hại này được
thực hiện theo quy định của pháp luật
dân sự, cụ thể tại các Điều 589, Điều 591
và Điều 592 Bộ luật dân sự năm 2015.
Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con
người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân chỉ có thể chứng minh khi
đã chứng minh được thiệt hại trực tiếp về
môi trường. Tuy nhiên, trách nhiệm yêu
cầu BTTH cũng như thu thập, thẩm định
dữ liệu, chứng cứ để xác định thiệt hại đối
với môi trường thuộc về cơ quan nhà nước
có thẩm quyền như UBND, Bộ TN&MT.
Trường hợp các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền không xác định có thiệt hại về môi
trường thì không có cơ sở để chứng minh
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản do
ô nhiễm môi trường gây ra.211
Thứ ba, thẩm quyền, trình tự, thủ tục
giải quyết BTTH.
Một là, đối với thiệt hại về môi trường
tự nhiên thì cơ quan có trách nhiệm yêu
cầu bồi thường thiệt hại đối với môi
trường bao gồm: UBND cấp xã, UBND cấp
huyện, UBND cấp tỉnh hoặc Bộ TN&MT.
Các cơ quan có trách nhiệm dựa vào dữ
liệu, chứng cứ và kết quả tính toán thiệt hại
sẽ quyết định giải quyết bồi thường theo
một trong ba hình thức sau: thỏa thuận
với người gây thiệt hại; yêu cầu trọng tài
giải quyết; khởi kiện tại Tòa án. Tuy nhiên,
với hình thức yêu cầu trọng tài giải quyết,
pháp luật chưa quy định cụ thể là trọng tài
11 Bùi Đức Hiển (2019), tlđd.
ĐÀM THỊ DIỄM HẠNH - NGUYỄN THỊ VÂN ANH
67Số 03 - 2020 Khoa học Kiểm sát
nào sẽ giải quyết, là trọng tài thương mại
hay cần có một trọng tài chuyên trách để
giải quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại do
làm ô nhiễm môi trường.
Về trách nhiệm thu thập và thẩm định
dữ liệu, chứng cứ để xác định thiệt hại
đối với môi trường do UBND cấp huyện,
UBND cấp tỉnh hoặc Bộ TN&MT có trách
nhiệm thực hiện. Tuy nhiên, cho đến hiện
nay, Bộ TN&MT vẫn chưa đưa ra văn bản
hướng dẫn các thủ tục nêu trên. Điều này
gây ra khó khăn, làm cho yêu cầu bồi
thường thiệt hại không được thực hiện
thống nhất và hiệu quả.112
Hai là, đối với thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe, tài sản và lợi ích hợp pháp khác
do làm ô nhiễm môi trường được thực
hiện theo quy định của pháp luật dân sự
với một trong hai hình thức giải quyết là
thỏa thuận hoặc khởi kiện tại Tòa án. Đối
với hình thức khởi kiện tại Tòa án để yêu
cầu giải quyết, còn một số bất cập như
sau: Để có căn cứ bồi thường thiệt hại về
tính mạng, sức khỏe, tài sản và lợi ích hợp
pháp khác do làm ô nhiễm môi trường,
trước hết cần chứng minh có thiệt hại trực
tiếp do ô nhiễm môi trường. Mặt khác,
theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự,
khi khởi kiện tại Tòa án, bên bị thiệt hại
phải cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu khởi kiện của mình.
Đây là điều rất khó khăn đối với bên bị
thiệt hại khi năng lực và đặc biệt là khả
năng tài chính của họ không đủ.
2. gợi mở hoàn thiện pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm
ô nhiễm môi trường ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, về chủ thể có quyền yêu
cầu BTTH đối với tính mạng, sức khỏe, tài
12 Điều 3 Nghị định số 03/2015/NĐ-CP.
sản và lợi ích hợp pháp khác. Hiện nay,
có một số quan điểm cho rằng nên trao
quyền yêu cầu BTTH này cho cộng đồng
dân cư – những người có quyền, lợi ích
hợp pháp bị xâm hại. Nhóm tác giả không
đồng tình với quan điểm này, bởi lẽ sẽ bất
cập trong việc xác định đâu là cộng đồng,
ai là người sẽ đại diện cho cộng đồng,
nhất là trong trường hợp khu vực dân cư
bị ảnh hưởng là giáp ranh của nhiều địa
phương khác nhau. Việc quy định cho tổ
chức có quyền khởi kiện yêu cầu BTTH
về tính mạng, sức khỏe, tài sản, quyền và
lợi ích hợp pháp khác vẫn còn mang tính
chung chung. Chính vì vậy, chúng tôi kiến
nghị cần quy định rõ các tổ chức có vai trò
trong bảo vệ môi trường có thể kể đến như
Hội nông dân, Hội bảo tồn sinh vật biển,
Hội khoa học kỹ thuật bảo vệ thực vật,
Hội bảo vệ thiên nhiên và môi trường Việt
Nam,... có quyền yêu cầu BTTH về tính
mạng, sức khỏe, tài sản, quyền và lợi ích
hợp pháp do ô nhiễm môi trường thuộc
lĩnh vực mình phụ trách. Điều này nhằm
tập hợp toàn bộ ý chí, nguyện vọng, các
chứng cứ, lập luận để Tòa án giải quyết
triệt để, kịp thời, nhanh chóng quyền lợi
của toàn bộ chủ thể gây thiệt hại, đồng
thời giảm áp lực cho Toà án trong việc giải
quyết các vụ án.
Thứ hai, về quyền yêu cầu BTTH của
chủ thể có quyền hưởng dụng đối với
thiệt hại do suy giảm chức năng, tính
hữu ích của môi trường. Cần bổ sung
quy định về chủ thể có quyền yêu cầu
BTTH về môi trường tự nhiên không chỉ
là cơ quan nhà nước mà còn bao gồm
cả chủ thể có quyền hưởng dụng. Đồng
thời, cần có hướng dẫn cụ thể phân định
quyền của hai chủ thể này. Việc quy định
như vậy sẽ tăng sự chủ động của chủ thể
có quyền hưởng dụng cũng như đảm bảo
Một Số VẤN đỀ VỀ tráCH NHiỆM BỒi tHườNg tHiỆt Hại...
68 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2020
tính kịp thời, nhanh chóng và hiệu quả
khi cả hai chủ thể cùng có quyền yêu cầu
BTTH về môi trường.
Thứ ba, quy định cụ thể việc xác định
thiệt hại cũng như trách nhiệm BTTH
đối với các thành phần môi trường. Cần
xác định rõ “môi trường nước, môi trường
đất phục vụ cho các mục đích khác là mục
đích gì?”. Điển hình là hiện nay chưa có
cơ sở khoa học và thực tiễn để lượng giá
những thiệt hại của môi trường không
khí, trong khi những chất thải ra không
khí rất nhanh chóng bão hòa và phát tán
trên diện rộng. Chính vì vậy, cần phải
nghiên cứu đề ra những tiêu chí và cách
thức xác định thiệt hại đối với các thành
phần môi trường mang tính đặc thù này
cho phù hợp và đặt ra trách nhiệm BTTH
đối với môi trường không khí đối với chủ
thể gây thiệt hại.
Thứ tư, về việc phân định “trách
nhiệm khắc phục hậu quả môi trường” là
trách nhiệm hành chính hay trách nhiệm
dân sự. Nhóm tác giả kiến nghị áp dụng
“trách nhiệm khắc phục hậu quả môi trường”
là trách nhiệm hành chính nếu hành vi
gây ô nhiễm môi trường công cộng nói
chung, lúc này chủ thể có trách nhiệm
thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước; và
là trách nhiệm dân sự nếu gây hại đến
môi trường sống trong trường hợp chủ
thể đã được trao quyền hưởng dụng đối
với thành phần của môi trường. Hai bên
có quyền thỏa thuận mức, phương thức,
hình thức bồi thường.
Thứ năm, đối với việc xác định thiệt
hại về tính mạng, sức khỏe, tài sản và lợi
ích hợp pháp khác do làm ô nhiễm môi
trường, cần được quy định rõ ràng và cụ
thể hơn về trách nhiệm cũng như đặt ra
các chế tài đối với các cơ quan nhà nước
trong việc xác định thiệt hại về suy giảm
chức năng, tính hữu ích của môi trường,
làm cơ sở cho việc xác định loại thiệt hại
thứ hai, nhằm đảm bảo quyền, lợi ích hợp
pháp của các chủ thể bị xâm hại.
Thứ sáu, hoàn thiện các quy định về
thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết
bồi thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi
trường. Cụ thể, cần bổ sung quy định
của pháp luật về trọng tài có thẩm quyền
giải quyết yêu cầu BTTH do làm ô nhiễm
môi trường; trình tự, thủ tục giải quyết
của trọng tài; giá trị pháp lý của phán
quyết trọng tài đối với vụ việc này... Bên
cạnh đó, Bộ TN&MT cần khẩn trương ra
văn bản hướng dẫn thủ tục để thực hiện
yêu cầu bồi thường thiệt hại đối với môi
trường, gồm thủ tục để yêu cầu BTTH và
thủ tục để thu thập, thẩm định dữ liệu,
chứng cứ để xác định thiệt hại./.
tài LiỆU tHaM kHẢO
1. Bộ luật dân sự năm 2015
2. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
3. Luật bảo vệ môi trường năm 2014
4. Nghị định số 03/2015/NĐ-CP ngày
06/01/2015 của Chính phủ quy định về xác định
thiệt hại đối với môi trường
5. Bùi Đức Hiển (2019). Pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do làm ô
nhiễm môi trường. Hội thảo pháp luật về bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng - Thực trạng
và giải pháp, Trường Đại học Luật Hà Nội,
25/9/2019, trang 133.
6. Lê Hồng Hạnh (2019). Những vấn
đề pháp lý trong việc xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường trong
sản xuất, kinh doanh ở Việt Nam, Đề tài nghiên
cứu khoa học cấp nhà nước, Bộ Tư pháp,
trang 103-104.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_van_de_ve_trach_nhiem_boi_thuong_thiet_hai_do_lam_o_n.pdf