Còn theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự Pháp, quyền kháng cáo được
quy định rất rộng về chủ thể, không chỉ
giới hạn trong phạm vi đương sự mà còn
phát sinh quyền kháng cáo của người thứ
ba, khi này, người kế thừa quyền, nghĩa
vụ tố tụng dân sự phát sinh sau khi có
bản án sơ thẩm vẫn có thể sử dụng điều
khoản này để thực hiện quyền kháng cáo
“Bất cứ người nào có lợi ích liên quan
đều được kháng án, nếu họ không phải là
đương sự hoặc không phải là người đại
diện trong bản án bị kháng án”, thậm chí
cả đối với bản án có giá trị chung thẩm
“ Người thứ ba được kháng án đối với
bản án chung thẩm, kể cả khi họ đã được
tống đạt bản án”.(4)
Trong hai cách thức giải quyết rất
hay và rõ ràng như trên, trong phạm vi
quan hệ tố tụng dân sự của Việt Nam
hiện nay, tác giả cho rằng cách giải quyết
ở Bộ luật tố tụng dân sự của Liên bang
Nga phù hợp hơn, có nghĩa là tác giả ủng
hộ và kiến nghị có quy định hướng dẫn
theo hướng khôi phục lại thời hạn kháng
cáo cho người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố
tụng dân sự, thời điểm này được bắt đầu
tính từ khi tư cách người kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng dân sự của họ được ghi
nhận tại Tòa án bằng các chứng cứ chứng
minh theo yêu cầu của Tòa án. Bởi nó hạn
chế được những kháng cáo, khiếu nại
vô ích từ chủ thể không liên quan có thể
phát sinh trên thực tế nhưng vẫn đảm bảo
được quyền kháng cáo của người kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự. Đồng
thời, quy định hướng dẫn cũng cần nói
rõ về trường hợp sau khi bản án sơ thẩm
được tuyên chưa có hiệu lực mà phát
sinh kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân
sự thực hiện quyền kháng cáo thay cho
đương sự thì Tòa án phúc thẩm vẫn phải
có trách nhiệm tiếp nhận đơn kháng cáo
từ người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng
dân sự, kể cả khi họ không có tên trong
bản án sơ thẩm đang bị kháng cáo
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 21/01/2022 | Lượt xem: 242 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số vướng mắc, bất cập về thủ tục tố tụng được áp dụng trong trường hợp kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự trong bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
43Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
Trong bài viết này, tác giả phân tích trình tự, thủ tục đưa người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự
vào trong vụ án dân sự diễn ra như thế
nào, từ đó nêu lên những điểm bất cập và
khó khăn xuất hiện trong quá trình giải
quyết vụ việc dân sự có xuất hiện người
kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự.
Tác giả xin không phân tích trình tự, thủ
tục đưa người kế thừa quyền, nghĩa vụ
dân sự vào việc dân sự. Bởi việc dân sự
thường đơn giản và xảy ra trong thời gian
ngắn, ít có khả năng xuất hiện người kế
thừa quyền, nghĩa vụ dân sự. Mặt khác,
việc dân sự vốn dĩ không có sự tranh chấp
nên việc ra quyết định theo yêu cầu chính
đáng của người yêu cầu có thể tiến hành
hoặc không tiến hành phiên họp khi xuất
* Khoa Kinh tế, Luật, Trường Đại học Trà Vinh
MỘT SỐ VƯỚNG MẮC, BẤT CẬP VỀ THỦ TỤC TỐ TỤNG
ĐƯỢC ÁP DỤNG TRONG TRƯỜNG HỢP KẾ THỪA QUYỀN, NGHĨA VỤ
TỐ TỤNG DÂN SỰ TRONG BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015
NGUYỄN THỊ ANH THƯ*
Sự xuất hiện người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự có thể diễn ra ở
các giai đoạn khác nhau của quá trình tố tụng. Ở mỗi giai đoạn, cơ quan tiến
hành tố tụng cần áp dụng các thủ tục pháp lý khác nhau, từ đó dẫn đến những
tác động khác nhau đến vụ án dân sự đang cần được giải quyết. Ở bài viết
này, tác giả xin nêu ra các thủ tục pháp lý tại Tòa án được đưa ra khi xuất
hiện người kế thừa tố tụng theo quy định Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS)
năm 2015 của Việt Nam, cũng như hậu quả pháp lý và bất cập của các thủ tục
này đối với vụ án dân sự đang giải quyết. Đồng thời bài viết có tham khảo
và so sánh cách giải quyết trong trường hợp tương ứng của pháp luật tố tụng
dân sự một số nước như Nga, Pháp.
Từ khóa: Kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự, thủ tục tố tụng.
The appearance of a person who inherits civil procedural rights and
obligations may take place at different stages of the legal proceedings. At
each stage, the agencies conducting the proceedings need to apply different
legal procedures which lead to different effects on the civil cases. The author
would prefer to present the applicable legal proceedings on the Court
when there’s a person inheriting the civil procedural rights and obligations
in accordance with the Civil Code of 2015. In addition, we will find out
some legal consequences and shortcomings of the proceedings toward the
civil cases being settled. At the same time, the article has reference and
comparison in the corresponding cases of civil procedure laws from some
countries such as Russia and France.
Keywords: Inherits civil procedural rights and obligations, legal
proceedings.
ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015...
44 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
hiện việc đương sự là cá nhân chết, đương
sự là cơ quan, tổ chức chấm dứt tồn tại tùy
thuộc vào quyết định của Tòa án, căn cứ
vào tính chất của từng loại yêu cầu có còn
cần thiết tiến hành nữa không sao cho phù
hợp quy định tại Điều 367 Bộ luật dân sự
năm 2015. Đồng thời có lẽ cũng vì lý do
này mà BLTTDS năm 2015 đã không cần
dự liệu các thủ tục tố tụng cụ thể trong
trường hợp đưa người kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng dân sự vào đối với việc
dân sự. Tác giả cũng cho rằng việc không
quy định này là hoàn toàn phù hợp với
tính chất của việc dân sự.
Quá trình giải quyết vụ án dân sự là
một chuỗi các trình tự, thủ tục được áp
dụng tại Tòa án được luật quy định. Tuy
nhiên, các trình tự, thủ tục được luật quy
định có thể sẽ diễn ra tuần tự hoặc không
diễn ra một số thủ tục theo từng trường
hợp cụ thể. Như vậy quá trình giải quyết
vụ án dân sự kéo dài từ thời điểm Tòa án
thụ lý giải quyết đến thời điểm kết thúc
giải quyết vụ án dân sự bằng một bản án,
quyết định cụ thể có hiệu lực của Tòa án.
Trong suốt quá trình này, có thể xảy ra
sự kiện đương sự là cá nhân chết, đương
sự là tổ chức chấm dứt tồn tại ở bất kỳ
thời điểm nào mà đôi khi các sự kiện này
không phụ thuộc vào ý chí của các chủ thể
trong quan hệ tố tụng dân sự.
Trong bất kỳ giai đoạn nào của quá
trình giải quyết vụ án dân sự mà đương
sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết,
đương sự là cơ quan, tổ chức đã hợp nhất,
sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có
cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng dân sự theo luật định thì
Tòa án ra các loại quyết định mang tính
chất tạm dừng giải quyết vụ án dân sự.
Loại quyết định (quyết định tạm đình
chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết định
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, quyết
định tạm hoãn phiên tòa, quyết định tạm
ngừng phiên tòa) mà Tòa án đưa ra sẽ tùy
thuộc vào giai đoạn tố tụng có xuất hiện
đương sự là cá nhân đang tham gia tố
tụng chết, đương sự là cơ quan, tổ chức
đã hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể
và cần có các cơ quan, tổ chức, cá nhân
kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự.
Khi xuất hiện và bổ sung đầy đủ người kế
thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự theo
quy định tại Điều 74 BLTTDS năm 2015,
Tòa án ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ
án dân sự.(1)
Trường hợp thứ nhất, nếu đương sự
là cá nhân đang tham gia tố tụng chết, cơ
quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập, chia,
tách, giải thể mà chưa có cơ quan, tổ chức,
cá nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng
dân sự ở giai đoạn chuẩn bị xét xử vụ án
dân sự, Tòa án ra quyết định tạm đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự.(2) Trường hợp này
thì thời hạn chuẩn bị xét xử được tính lại
kể từ ngày quyết định tiếp tục giải quyết
vụ án của Tòa án có hiệu lực pháp luật.
Cụ thể, thời hạn chuẩn bị xét xử các vụ án
dân sự và vụ án hôn nhân và gia đình là
bốn tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án; thời
hạn chuẩn bị xét xử các vụ án kinh doanh,
thương mại và vụ án lao động là hai tháng
kể từ ngày thụ lý vụ án. Loại quyết định
nào được áp dụng tiếp theo tùy thuộc
1 Điều 216 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, (Luật số
92/2015/QH13) ngày 25 tháng 11 năm 2015.
2 Điểm a, khoản 1, Điều 214 Bộ luật tố tụng dân sự
2015, (Luật số 92/2015/QH13) ngày 25 tháng 11 năm
2015.
NGUYỄN THỊ ANH THƯ
45Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
vào việc có hay không có người kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự. Nếu có
người kế thừa và được bổ sung theo đúng
yêu cầu thì Tòa án ra quyết định tiếp tục
giải quyết vụ án. Nếu không có người kế
thừa thì Tòa án ra quyết định đình chỉ vụ
án.(1)
Tuy nhiên, có thể dễ dàng nhận thấy
quy định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự đã bỏ sót trường hợp cơ quan, tổ chức
chuyển đổi hình thức tổ chức. Tác giả cho
rằng, cần bổ sung thêm trường hợp chuyển
đổi hình thức tổ chức của cơ quan, tổ chức
mà trước hết có thể bổ sung trong các văn
bản hướng dẫn thi hành Bộ luật tố tụng
dân sự, sao cho đảm bảo tính thống nhất,
đồng bộ quy định giữa Điều 74 và Điều 214
BLTTDS năm 2015.
Trường hợp thứ hai, nếu đương sự
là cá nhân đang tham gia tố tụng chết,
đương sự là cơ quan, tổ chức đã hợp nhất,
sáp nhập, chia, tách, giải thể mà chưa có
cơ quan, tổ chức, cá nhân kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng dân sự trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm thì có thể xếp vào trường
hợp đương sự vắng mặt, Tòa án phải hoãn
phiên tòa.(2) Sỡ dĩ, tác giả cho rằng lúc
này Tòa án không thể ra quyết định tạm
đình chỉ giải quyết vụ án là bởi vì chính
cơ cấu của Bộ luật tố tụng dân sự hiện
hành đã xếp quy định tạm đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự vào Chương XIII về
thủ tục hòa giải và chuẩn bị xét xử, trong
1 Luật Dương Gia, Đương sự chết trong giai đoạn
xét xử sơ thẩm thì giải quyết thế nào, https://
luatduonggia.vn/duong-su-chet-trong-giai-doan-
xet-xu-so-tham-dan-su-thi-giai-quyet-the-nao/, truy
cập ngày 13/7/2017.
2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, (Luật số
92/2015/QH13) ngày 25 tháng 11 năm 2015.
khi đó Chương XIV quy định về phiên tòa
sơ thẩm, nói cách khác, theo cách sắp xếp
điều luật hiện tại, làm cho người áp dụng
pháp luật được quyền hiểu rằng quy định
tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự chỉ
dành cho giai đoạn chuẩn bị xét xử, bởi nó
không nằm ở phần các quy định chung.
Điều đáng nói là, nếu đương sự là cá
nhân đang tham gia tố tụng chết, đương sự
là cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập,
chia, tách, giải thể mà chưa có cơ quan, tổ
chức, cá nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ tố
tụng dân sự và Tòa án có hay biết về sự
kiện thì Tòa án ra quyết định hoãn phiên
tòa để có thể sử dụng Điều 74 Bộ luật tố
tụng dân sự hiện hành, cho phép người
kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng tham
gia phiên xét xử được tiếp tục tổ chức
sau đó. Nhưng nếu đương sự là cá nhân
đang tham gia tố tụng chết, đương sự là
cơ quan, tổ chức đã hợp nhất, sáp nhập,
chia, tách, giải thể mà chưa có cơ quan, tổ
chức, cá nhân kế thừa quyền, nghĩa vụ tố
tụng dân sự xảy ra sau lần vắng mặt lần
thứ nhất, nhưng ngay trước lần xét xử sau
mà Tòa án không hay biết thì Tòa án có thể
coi đương sự đã từ bỏ việc khởi kiện để ra
quyết định đình chỉ giải quyết vụ án dân
sự hoặc phần yêu cầu độc lập của đương
sự (nếu đương sự là nguyên đơn, người có
quyền, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc
lập) hoặc thực hiện xét xử vắng mặt theo
luật định (nếu đương sự là bị đơn), việc
đình chỉ giải quyết vụ án dân sự hoặc tiếp
tục xét xử này không sai theo luật nhưng
lại làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự trong sự kiện xảy ra
không mong muốn. Vấn đề này được giải
quyết bằng thủ tục kháng cáo, kháng nghị
ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015...
46 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
bản án sơ thẩm khi chưa có hiệu lực, nếu
bản án đã phát sinh hiệu lực sẽ được giải
quyết bằng thủ tục giám đốc thẩm khi có
khiếu nại dẫn đến kháng nghị về căn cứ
đương sự chết, đương sự phải chấm dứt
hoạt động mà chưa xác định được người
kế thừa quyền, nghĩa vụ nên không thể
tham gia tố tụng nhưng Tòa án vẫn tiến
hành xét xử.
Điểm mới của Bộ luật tố tụng dân sự
năm 2015 giải quyết được cả trường hợp
Tòa án đã hoãn phiên tòa lần thứ hai, việc
xét xử được tiếp tục tiến hành thì ngay
trước thời điểm này đương sự là cá nhân
chết, đương sự là cơ quan, tổ chức phải
chấm dứt hoạt động. Lúc này Tòa án
không thể hoãn phiên tòa thêm nữa, thì ở
Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 ghi nhận
thêm một thủ tục mới là tạm ngừng phiên
tòa, sau thời gian tạm ngừng mà căn
cứ tạm ngừng chưa khắc phục được thì
Tòa án có thể ra quyết định tạm đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự để tiếp tục khắc
phục.(1) Có thể xem đây là một cách linh
hoạt của Tòa án trên thực tế để đưa người
kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự
vào tham gia tố tụng trong trường hợp
khá đặc biệt này dù việc đương sự là cá
nhân chết không là căn cứ xuất hiện trực
tiếp trong quy định về tạm ngừng phiên
tòa, nhưng thực tiễn áp dụng vẫn có thể
xếp vào trường hợp “do sự kiện bất khả
kháng, trở ngại khách quan khác”. Tuy
nhiên theo quan điểm của tác giả, cần có
quy định hướng dẫn bổ sung cụ thể về
trường hợp bất khả kháng liên quan đến
1 Khoản 2 Điều 259 Bộ luật tố tụng dân sự năm
2015, (Luật số 92/2015/QH13) ngày 25 tháng 11
năm 2015.
sức khỏe, khả năng của người tham gia
tố tụng dân sự dẫn đến tạm ngừng phiên
tòa, trong đó dự liệu bao gồm cả trường
hợp đương sự đang tham gia tố tụng dân
sự tại phiên tòa chết dẫn đến tạm ngừng
phiên tòa trong một văn bản quy phạm
pháp luật để nâng tính hợp pháp của hoạt
động áp dụng pháp luật này.
Ở tất cả các trường hợp, khi đã xác
định người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố
tụng dân sự, vụ án được tiếp tục giải
quyết theo luật định. Điều đáng chú ý
là trường hợp đương sự là cá nhân chết,
đương sự là cơ quan, tổ chức phải chấm
dứt hoạt động vào thời điểm bản án dân
sự sơ thẩm đã được tuyên nhưng chưa
phát sinh hiệu lực, đang trong thời hạn
kháng cáo, kháng nghị. Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 cũng như Bộ luật tố
tụng dân sự trước đó không có quy định
đề cập một cách trực tiếp về quyền kháng
cáo của người kế thừa quyền, nghĩa vụ
tố tụng dân sự và cơ quan nào chịu trách
nhiệm đưa người kế thừa vào tham gia
tố tụng trong khi Tòa án cấp sơ thẩm đã
thực hiện xong trách nhiệm của mình
mà không thể dự liệu được trường hợp
phát sinh sau khi bản án sơ thẩm được
tuyên, Tòa án cấp phúc thẩm dựa trên cơ
sở quyền, lợi ích liên quan trực tiếp từ
bản án sơ thẩm để tiếp nhận kháng cáo.
Nếu vận dụng các Điều luật 70 và Điều
74 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 để
suy lý và cho rằng người kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng dân sự là kế thừa tất cả
các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương
sự để chấp nhận họ có quyền này thì thời
điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo sẽ
được tính như thế nào? Người kế thừa
NGUYỄN THỊ ANH THƯ
47Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự tiếp tục
thực hiện quyền này trong thời hạn còn
lại hay bắt đầu tính lại thời hạn kháng
cáo mới? Hiện nay, các quy định pháp
luật tố tụng dân sự chưa có sự hướng
dẫn cụ thể nào về trường hợp này. Nếu
đương sự là cá nhân chết, đương sự là
tổ chức phải chấm dứt tồn tại vào thời
điểm sắp hết hạn kháng cáo, và nhất là
đối với đương sự là cá nhân chết thì đang
lúc “tang gia bối rối” này, liệu rằng người
kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự
có thể thực hiện được quyền kháng cáo
đối với bản án, quyết định sơ thẩm của
Tòa án?
Về vấn đề này, Luật sư Tôn Thất
Quỳnh Bằng cho rằng trên cơ sở chuyển
giao quyền và nghĩa vụ về tài sản từ
đương sự sang cho các thừa kế khi họ
chết thì quyền kháng cáo của các người
kế quyền sẽ dễ dàng được chấp nhận,
đối với đương sự có mặt tại phiên xét xử
nhưng lại chết trong thời hạn kháng cáo,
phải chăng chỉ cần căn cứ vào quy định
thời điểm phát sinh quyền, nghĩa vụ
của người thừa kế ở Bộ luật dân sự để
xác định quyền kháng cáo của người kế
quyền chẳng qua chỉ là tiếp nối quyền
của đương sự tham gia tố tụng. Điều này
dẫn đến thời hạn kháng cáo của người
kế quyền phải được tính trong khuôn
khổ của thời hạn kháng cáo của đương
sự theo quy định của Điều 245 Bộ luật
tố tụng dân sự? Nhưng trong trường
hợp đương sự vắng mặt tại phiên xét
xử và bản án cần được tống đạt thì việc
tống đạt bản án hay quyết định cho một
người đã chết sẽ trở thành vô nghĩa; liệu
sự tống đạt này có phát sinh hiệu lực
pháp luật đối với người kế quyền để có
thể áp dụng quy định của Điều 245 Bộ
luật tố tụng dân sự? Bộ luật tố tụng dân
sự đã không dự liệu trường hợp này.(1)
Mặc dù bài viết đánh giá các quy định
về quyền kháng cáo theo Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2001 sửa đổi, bổ sung năm
2011 nhưng bởi các quy định về quyền,
thời hạn kháng cáo không có sự thay đổi
theo hướng bổ sung chủ thể yêu cầu nên
vẫn còn nguyên giá trị tham khảo, đánh
giá các quy định ở Bộ luật tố tụng dân
sự hiện hành.
Về thời hạn kháng cáo của người kế
thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự, tác
giả đồng tình với quan điểm của Luật sư
Tôn Thất Quỳnh Bằng, theo đó, nên có
sự tồn tại của một quy định về thời hạn
kháng cáo này tương tự như cách tính lại
thời hạn bắt đầu thụ lý vụ án dân sự kể từ
thời điểm xuất hiện người kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng dân sự.
Ngoài ra, cần phân tích rõ quy định tại
điểm a khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2015 về đình chỉ giải quyết vụ
án dân sự trong trường hợp nguyên đơn
hoặc bị đơn là cá nhân đã chết mà quyền,
nghĩa vụ của họ không được kế thừa. Theo
quy định của Điều luật này, khái niệm
“quyền, nghĩa vụ của họ không được kế
thừa” cần được hiểu như thế nào? Thứ
hai, việc không thể kế thừa chỉ có thể xuất
hiện do quyền, nghĩa vụ về nội dung hoặc
về luật tố tụng quy định rõ quyền, nghĩa
vụ đó gắn với cá nhân, không thể chuyển
1 Tôn Thất Quỳnh Bằng, Quyền kháng cáo của
người kế thừa quyền và nghĩa vụ dân sự, https://
luatsuquynhbang.wordpress.com/2011/12/10, truy
cập ngày 30/12/2017.
ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015...
48 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
giao. Trong khi đó, quan hệ thừa kế sẽ luôn
xuất hiện người nhận di sản. Trong trường
hợp di sản không có người thừa kế theo di
chúc và theo pháp luật thì Nhà nước chính
là chủ thể tiếp nhận khối di sản đó sau khi
đã thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người
chết để lại. Nói cách khác, kể cả khi người
thừa kế di sản là Nhà nước vẫn phải để
quan hệ tố tụng dân sự diễn ra để có thể
xác định chủ thể có quyền, có nghĩa vụ liên
quan đến di sản cần được Nhà nước thực
hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
nếu có, trước khi Nhà nước nhận về khối
di sản ấy. Đến đây, lại có một vấn đề pháp
lý phát sinh là trong trường hợp Nhà nước
là người nhận di sản thừa kế do không có
người nhận thừa kế thì ai sẽ là người đại
diện cho Nhà nước tham gia tố tụng để
thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết
để lại? Như vậy, có thể thấy rằng, quy định
của Bộ luật dân sự và Bộ luật tố tụng dân sự
hiện hành hoàn toàn không dự liệu trước
trường hợp người kế thừa quyền, nghĩa vụ
tố tụng dân sự là Nhà nước.
Dù đương sự là cá nhân đang tham gia
tố tụng dân sự chết, đương sự là tổ chức
đang tham gia tố tụng dân sự phải chấm
dứt tồn tại ở thời điểm nào của hoạt động
tố tụng dân sự và Tòa án đã đưa ra các
loại quyết định tương ứng nào theo từng
giai đoạn, từng trường hợp nêu trên, thì
khi muốn khởi động lại hoặc tiếp tục quá
trình tố tụng cũng cần có các văn bản ghi
nhận thông tin pháp lý về người kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự nhất định.
Tuy nhiên văn bản này chưa được luật quy
định một cách cụ thể về hình thức, trình tự
và thời hạn thực hiện. Cụ thể là, sau khi có
căn cứ cho thấy phát sinh người kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự do đương
sự là cá nhân chết, đương sự là tổ chức
phải chấm dứt tồn tại, Thẩm phán được
giao giải quyết vụ án dân sự sẽ ra thông
báo đến những người thừa kế của đương
sự là cá nhân, người có quyền, lợi ích liên
quan đến đương sự là tổ chức chấm dứt
tồn tại để họ tự khai và cam kết không bỏ
sót người thừa kế hoặc bổ sung giấy tờ
chứng minh về việc tiếp nối quyền, nghĩa
vụ từ tổ chức chấm dứt tồn tại và tư cách
đại diện cho người kế thừa quyền, nghĩa
vụ tố tụng dân sự. Đối với đương sự đang
tham gia tố tụng là cá nhân chết, thì Tòa án
thường cho những người thừa kế tự khai
và cam kết khai đúng, đầy đủ người thừa
kế và có sự chứng thực của Ủy ban nhân
dân cấp xã tại nơi cư trú cuối cùng của
đương sự là cá nhân trước khi chết. Tòa án
có thể đi xác minh lại nếu thấy cần thiết.
Tuy nhiên, vấn đề phát sinh là không có
một quy định nào về thẩm quyền chứng
thực về danh sách người thừa kế, người
kế thừa tố tụng do Ủy ban nhân dân tiến
hành hoặc phối hợp cung cấp thông tin
cho Tòa án nên việc chứng thực này trên
thực tế phụ thuộc vào sự “tận tâm” của
Ủy ban nhân dân. Bên cạnh đó, văn bản
này được thực hiện trên thực tế tại Tòa án
dưới dạng thông báo bổ sung thông tin
đến những người có quyền, lợi ích liên
quan từ Thẩm phán được phân công, tuy
nhiên, không có mẫu chung về loại thông
báo này. Mặc khác, thời hạn thực hiện việc
bổ sung theo yêu cầu của thông báo chưa
được quy định hoặc hướng dẫn cụ thể
riêng biệt. Tòa án dựa trên quy định về
quyền nhận thông báo hợp lệ của đương
sự để thực hiện quyền, nghĩa vụ để đưa ra
thông báo này đến đương sự và cả người
NGUYỄN THỊ ANH THƯ
49Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự từ
đương sự. Thực tế các Thẩm phán tại Tòa
án vận dụng linh hoạt quy định về sửa
đổi, bổ sung đơn khởi kiện để ra hạn định
về thời gian cho những người có trách
nhiệm bổ sung.(1) Thời hạn này theo thông
báo có thể linh hoạt là 10 ngày, 15 ngày, 30
ngày hoặc tối đa là 45 ngày, tùy thuộc vào
từng vụ việc mà thẩm phán được phân
công đánh giá và ấn định thời hạn. Qua
quá trình nghiên cứu và tham khảo tác giả
nhận thấy có sự khác biệt giữa các Tòa án,
các Thẩm phán khác nhau khi thực hiện.
Đối với thông báo yêu cầu bổ sung
người tham gia tố tụng trong trường hợp
phát sinh kế thừa quyền, nghĩa vụ tố
tụng dân sự thì để đáp ứng yêu cầu của
thông báo, những người kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng dân sự phải chứng
minh được mình là người có tư cách kế
thừa theo quy định. Đối với trường hợp
đương sự là cá nhân đang tham gia tố
tụng chết, những người thừa kế phải bổ
sung cho Tòa án danh sách những người
thừa kế của đương sự một cách đầy
đủ, chính xác bằng một tờ khai hộ tịch.
Thực tế tố tụng cho thấy, tờ khai hộ tịch
này có thể do Tòa án cho những người
thừa kế tự khai và cam kết đúng sự thật,
không gian dối hoặc Tòa án yêu cầu
những người thừa kế xuất trình tờ khai
hộ tịch về quan hệ thừa kế với đương sự
có xác nhận của Ủy ban nhân dân hoặc
tờ khai kèm theo biên bản xác minh hộ
tịch của phòng công chứng, văn phòng
công chứng về quan hệ thừa kế.
1 Khoản 12 Điều 70 và Điều 193 Bộ luật tố tụng dân
sự năm 2015 (Luật số 92/2015/QH13) ngày 25 tháng
11 năm 2015
Trường hợp Tòa án cho những người
thừa kế tự khai, cam kết và Tòa án thực
hiện xác minh khi cần thiết, có nghi ngờ về
tính chính xác của tờ khai, rất ít Tòa án sử
dụng cách này. Bởi điều này làm gia tăng
công việc của Tòa án khi phải xác minh lại
tờ khai của đương sự, mặc khác rất dễ phát
sinh tranh chấp và đổ lỗi cho Tòa án sau
này, do thực chất Tòa án không thể nắm
được tình trạng hộ tịch gia đình của đương
sự là cá nhân đang tham gia tố tụng chết.
Trường hợp do Ủy ban nhân dân cấp
xã hoặc phòng công chứng, văn phòng
công chứng xác nhận tờ khai hộ tịch, vấn
đề phát sinh trong trường hợp này chính
là giấy xác nhận tình trạng hộ tịch, xác
nhận những người thừa kế của đương
sự là cá nhân chết khi đang tham gia tố
tụng chỉ có thể xác nhận về người thừa kế
theo pháp luật, ủy ban nhân dân cấp xã
nơi cư trú cuối cùng của đương sự là cá
nhân chết hoặc phòng công chứng, văn
phòng công chứng không thể biết có tồn
tại hay không người thừa kế theo di chúc
của đương sự. Mặc khác, đối với Ủy ban
nhân dân thì trường hợp đương sự là cá
nhân và những người thừa kế của đương
sự không cùng cư trú tại một địa phương
thì ủy ban nhân dân cấp xã thường từ chối
thực hiện giấy xác nhận tờ khai này, bởi
họ cho rằng mình không có căn cứ chính
xác để xác nhận và cũng không có một
quy định nào buộc họ phải xác nhận với
vai trò như một nghĩa vụ của ủy ban nhân
dân. Có hai trường hợp xảy ra trên thực
tế, một là Ủy ban nhân dân cho những
người thừa kế của đương sự là cá nhân
đã chết tự khai và cam kết không bỏ sót
người thừa kế, tự chịu trách nhiệm trước
ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015...
50 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
pháp luật nếu họ khai thiếu, khai gian dối,
sau đó Ủy ban nhân dân cấp xã xác nhận
về cam kết đó. Hai là, Ủy ban nhân dân
cấp xã từ chối xác nhận tờ khai hộ tịch
trong trường hợp này.
Khi các đương sự chủ động đến các
phòng công chứng, văn phòng công chứng
để thực hiện việc kê khai, lúc này các phòng
công chứng, văn phòng công chứng sẽ thực
hiện niêm yết công khai trong thời hạn nhất
định tại địa phương, mà thông thường thời
hạn này là 30 ngày kể từ ngày niêm yết công
khai tại nơi cư trú, sau thời hạn trên nếu
không có tranh chấp về nội dung niêm yết,
công chứng viên sẽ thực hiện công chứng tờ
khai hộ tịch kèm biên bản xác minh hộ tịch
có danh sách người thừa kế như danh sách
của thông báo được niêm yết.
Có thể thấy chưa có một quy định
hướng dẫn nào về thẩm quyền xác nhận
tờ khai hộ tịch của đương sự là cá nhân đã
chết nên dẫn đến sự chồng chéo về thẩm
quyền thực hiện xác nhận như trên, dẫn
đến việc các cơ quan, tổ chức trên hoàn
toàn có quyền từ chối thực hiện việc xác
nhận. Theo quan điểm của tác giả, sự
linh hoạt của ủy ban nhân dân cấp xã,
các phòng công chứng, văn phòng công
chứng và cả Tòa án trong việc xác minh
tư cách người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố
tụng dân sự như đã nêu trên là cần thiết
và phù hợp với thực tế để vụ án dân sự
được tiếp tục giải quyết, đảm bảo quyền,
lợi ích hợp pháp cho chính các bên tham
gia tố tụng và đảm bảo thực hiện hoạt
động tố tụng được chính xác, nhanh
chóng tại Tòa án. Các Tòa án đều xác nhận
rằng có trường hợp Ủy ban nhân dân từ
chối xác nhận và Tòa án không thể làm gì
hơn, và có thể xảy ra trường hợp đương
sự khai báo không đúng sự thật, gian dối,
tuy nhiên khi phát sinh tranh chấp sau
này thì người có quyền, lợi ích hợp pháp
bị xâm hại hoàn toàn có thể khởi kiện bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ trong
một vụ án dân sự khác.
Nếu hết thời hạn được nêu trong
thông báo, người được thông báo không
bổ sung thông tin theo yêu cầu thì Tòa
án có cơ sở để ra quyết định đình chỉ giải
quyết vụ án dân sự theo căn cứ tại khoản
1 Điều 127 Bộ luật dân sự năm 2015 về
trường hợp đương sự là cá nhân chết,
đương sự là tổ chức chấm dứt mà không
có cá nhân, tổ chức kế thừa quyền, nghĩa
vụ tố tụng dân sự.
Trong trường hợp những người kế
thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự bổ
sung các thông tin theo yêu cầu thông
báo, kèm theo các chứng cứ chứng minh
xác thực tư cách kế thừa quyền, nghĩa vụ
tố tụng dân sự của mình (như giấy xác
nhận tình trạng hộ tịch của đương sự là
cá nhân đã chết, hồ sơ, điều lệ, quyết định
của tổ chức, cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền thể hiện rõ việc chịu trách nhiệm
hoặc được chuyển giao quyền, nghĩa vụ
từ đương sự là tổ chức đã chấm dứt tồn
tại). Lúc này, Tòa án tiếp tục tiến hành giải
quyết vụ án dân sự bằng quyết định tiếp
tục giải quyết vụ án dân sự.
Trong trường hợp đương sự là cá
nhân chết, đương sự là cơ quan, tổ chức
phải chấm dứt hoạt động vào thời điểm
bản án dân sự sơ thẩm đã được tuyên
nhưng chưa phát sinh hiệu lực, đang
trong thời hạn kháng cáo, kháng nghị thì
thời điểm bắt đầu tính thời hạn kháng cáo
NGUYỄN THỊ ANH THƯ
51Số 03 - 2018 Khoa học Kiểm sát
sẽ được tính như thế nào? Người kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự tiếp tục
thực hiện quyền này trong thời hạn còn
lại hay bắt đầu tính lại thời hạn kháng cáo
mới? Tác giả cho rằng thời hạn kháng cáo
đối với người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố
tụng dân sự cần được hướng dẫn cụ thể
bởi một văn bản quy phạm pháp luật.
Thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa
án cho thấy có những trường hợp đương
sự chết sau khi bản án sơ thẩm được
tuyên mà chưa phát sinh hiệu lực. Lúc
này, có thể theo nội dung bản án sơ thẩm
sẽ mang tính bất lợi về quyền, nghĩa vụ
của đương sự là cá nhân chết. Tuy nhiên,
những người thừa kế của đương sự là cá
nhân đã chết lại không được ghi nhận tư
cách kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân
sự tại bản án sơ thẩm. Sau khi bản án sơ
thẩm được tuyên và đang trong thời gian
chờ kháng cáo, kháng nghị, có thể nói
trọng trách của Tòa án sơ thẩm đã tạm
khép lại, Tòa án sơ thẩm không có lý do
gì để đưa những người thừa kế vào danh
sách những người kế thừa quyền, nghĩa
vụ tố tụng dân sự, bởi việc cá nhân chết
là sau khi bản án sơ thẩm được tuyên.
Còn đối với Tòa án cấp phúc thẩm, nếu
những người thừa kế này nộp đơn kháng
cáo lên Tòa án cấp phúc thẩm thì Tòa án
phúc thẩm vẫn không có lý do để nhận
đơn kháng cáo của những người này, bởi
một điều đơn giản là tên của họ không
hề có mặt trong bản án sơ thẩm đang có
yêu cầu kháng cáo, điều này đồng nghĩa
về lý thuyết rằng bản án không có liên
quan đến chính những người đang có
đơn kháng cáo, vì vậy đơn kháng cáo
này sẽ dẫn đến kết quả bị từ chối, trả lại
đơn. Nhưng thực chất, bản chất của sự
liên quan giữa bản án và bản thân những
người thừa kế này khá rõ ràng trên thực
tế, bản án bất lợi khi có hiệu lực và thi
hành án sẽ tác động lên tài sản của đương
sự là cá nhân đã chết, mà giờ đây đã trở
thành tài sản của họ - những người thừa
kế của đương sự.
Điều 74 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015
có quy định về phát sinh kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng dân sự của đương sự là cá
nhân đang tham gia tố tụng chết. Chúng ta
dễ hiểu rằng đang tham gia tố tụng có thể là
bất kỳ giai đoạn nào của quá trình tố tụng,
bao gồm cả thời gian sau khi bản án sơ thẩm
được tuyên mà chưa có hiệu lực. Tuy nhiên,
điều mà tác giả nhấn mạnh về sự thiếu sót
trong quy định hướng dẫn là trường hợp
sau khi bản án sơ thẩm được tuyên chưa
phát sinh hiệu lực, đang trong thời gian
thực hiện quyền kháng cáo, kháng nghị mà
phát sinh người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố
tụng dân sự thì cơ quan nào có trách nhiệm
ghi nhận tư cách kế thừa quyền, nghĩa vụ tố
tụng dân sự của họ, để thực hiện tốt quyền
kháng cáo, kháng nghị thay cho đương sự
đã chết, làm cơ sở cho Tòa án cấp phúc thẩm
nhận đơn kháng cáo. Đồng thời cần hướng
dẫn rõ về việc thời hạn kháng cáo sẽ tính từ
thời điểm nào để đánh giá là một kháng cáo
quá hạn từ người kế thừa quyền, nghĩa vụ
tố tụng dân sự.
Về cách thức giải quyết hoặc quy định
thì nên chăng chúng ta nên tham khảo
cách quy định ở Bộ luật tố tụng dân sự
Liên bang Nga, thì “Sau khi người không
phải là bị đơn đích thực bị thay thế, việc
chuẩn bị xét xử vụ án được bắt đầu lại từ
ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015...
52 Khoa học Kiểm sát Số 03 - 2018
đầu”(1). Hoặc “ Mọi bản án sơ thẩm của tất
cả Tòa án Liên bang Nga, trừ bản án của
Thẩm phán Hòa giải, có thể bị các bên và
những người tham gia tố tụng khác kháng
cáo theo thủ tục phúc thẩm và có thể bị
kiểm sát viên tham gia tố tụng đề nghị xét
xử lại theo thủ tục phúc thẩm.”(2) Nói cách
khác, người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố
tụng dân sự được quy định trong những
người tham gia tố tụng khác theo luật của
Liên bang Nga, lúc này có thể tham gia
kháng cáo bản án sơ thẩm của Tòa án. “Hết
thời hạn kháng cáo, nếu trong đơn kháng
cáo phúc thẩm, đề nghị phúc thẩm không
có yêu cầu khôi phục thời hạn hoặc yêu
cầu khôi phục thời hạn không được chấp
nhận”(3), bằng cách thức suy lý ngược, thì
có nghĩa là trong đơn kháng cáo hết hạn
người kháng cáo vẫn được yêu cầu khôi
phục thời hạn kháng cáo khi có cơ sở hợp
lý, mà trong trường hợp chúng ta đang cần
nhắc đến là trường hợp đương sự trong vụ
án chết hoặc chấm dứt tồn tại sau khi bản
án sơ thẩm được tuyên nhưng chưa phát
sinh hiệu lực.
Còn theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự Pháp, quyền kháng cáo được
quy định rất rộng về chủ thể, không chỉ
giới hạn trong phạm vi đương sự mà còn
phát sinh quyền kháng cáo của người thứ
ba, khi này, người kế thừa quyền, nghĩa
vụ tố tụng dân sự phát sinh sau khi có
bản án sơ thẩm vẫn có thể sử dụng điều
khoản này để thực hiện quyền kháng cáo
1 Khoản 1 Điều 41 Bộ luật tố tụng dân sự Liêng bang
Nga, Nxb Tư pháp, 2005.
2 Điều 336 Bộ luật tố tụng dân sự Liêng bang Nga,
Nxb Tư pháp, 2005.
3 Đoạn 2, Khoản 1 Điều 342 Bộ luật tố tụng dân sự
Liêng bang Nga, Nxb Tư pháp, 2005.
“Bất cứ người nào có lợi ích liên quan
đều được kháng án, nếu họ không phải là
đương sự hoặc không phải là người đại
diện trong bản án bị kháng án”, thậm chí
cả đối với bản án có giá trị chung thẩm
“ Người thứ ba được kháng án đối với
bản án chung thẩm, kể cả khi họ đã được
tống đạt bản án”.(4)
Trong hai cách thức giải quyết rất
hay và rõ ràng như trên, trong phạm vi
quan hệ tố tụng dân sự của Việt Nam
hiện nay, tác giả cho rằng cách giải quyết
ở Bộ luật tố tụng dân sự của Liên bang
Nga phù hợp hơn, có nghĩa là tác giả ủng
hộ và kiến nghị có quy định hướng dẫn
theo hướng khôi phục lại thời hạn kháng
cáo cho người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố
tụng dân sự, thời điểm này được bắt đầu
tính từ khi tư cách người kế thừa quyền,
nghĩa vụ tố tụng dân sự của họ được ghi
nhận tại Tòa án bằng các chứng cứ chứng
minh theo yêu cầu của Tòa án. Bởi nó hạn
chế được những kháng cáo, khiếu nại
vô ích từ chủ thể không liên quan có thể
phát sinh trên thực tế nhưng vẫn đảm bảo
được quyền kháng cáo của người kế thừa
quyền, nghĩa vụ tố tụng dân sự. Đồng
thời, quy định hướng dẫn cũng cần nói
rõ về trường hợp sau khi bản án sơ thẩm
được tuyên chưa có hiệu lực mà phát
sinh kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng dân
sự thực hiện quyền kháng cáo thay cho
đương sự thì Tòa án phúc thẩm vẫn phải
có trách nhiệm tiếp nhận đơn kháng cáo
từ người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng
dân sự, kể cả khi họ không có tên trong
bản án sơ thẩm đang bị kháng cáo./.
4 Điều 583 Bộ luật tố tụng dân sự của nước Cộng hòa
Pháp, Nxb Chính trị quốc gia, 1998.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_vuong_mac_bat_cap_ve_thu_tuc_to_tung_duoc_ap_dung_tro.pdf