Tên gọi của chương II
Chương II của Dự thảo có tên gọi:
“Điều kiện đối với người đề nghị chuyển
đổi giới tính”. Với tên gọi này, nội dung
của Chương sẽ bao gồm quy định liên quan
đến điều kiện của người đề nghị chuyển
đổi giới tính như: điều kiện về giới tính
trước khi chuyển đổi giới tính, điều kiện về
nhận diện giới, điều kiện về độ tuổi, điều
kiện về tình trạng hôn nhân Tuy nhiên,
trong số các điều khoản của Chương II,
chỉ có Điều 7 và Điều 8 quy định về điều
kiện của người đề nghị chuyển đổi giới
tính; các điều khác như Điều 6 quy định
các hình thức chuyển đổi giới tính và việc
cho phép đăng ký thay đổi hộ tịch, Điều 9
và Điều 10 quy định về Hồ sơ, thủ tục đề
nghị bệnh viện điều trị nội tiết tố sinh dục
và phẫu thuật ngực hoặc bộ phận sinh dục
để chuyển đổi giới tính là không phù
hợp với tên gọi của Chương. Để bảo đảm
sự thống nhất giữa tên gọi và nội dung của
Chương II, chúng tôi đề nghị sửa đổi Dự
thảo luật theo các phương án sau:
Phương án 1: giữ nguyên tên Chương
II và chỉ giữ lại nội dung Điều 7 và Điều 8
nhưng cần quy định cụ thể hơn về các điều
kiện như đã kiến nghị ở trên. Chuyển nội
dung các Điều 6, 9, 10 sang một chương mới
với tên gọi “Các hình thức chuyển đổi giới
tính và thủ tục đề nghị can thiệp y học để
chuyển đổi giới tính”.
Phương án 2: giữ nguyên tên các
điều trong Chương II, đồng thời thay đổi
tên gọi của Chương II thành “Các hình
thức chuyển đổi giới tính, điều kiện và thủ
tục đề nghị can thiệp y học để chuyển đổi
giới tính”
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 497 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Một số ý kiến góp ý dự thảo luật chuyển đổi giới tính, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Từ sự phân tích các khái niệm, các quy định chung, tên gọi, sự
can thiệp y học, điều kiện đối với người đề nghị chuyển đổi giới
tính bài viết đóng góp một số ý kiến cụ thể nhằm góp phần
hoàn thiện Dự thảo Luật Chuyển đổi giới tính (Dự thảo ngày
28/12/2017)1.
1 Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ Đề tài nghiên cứu của Trường Đại học Luật Hà Nội, “Vấn đề chuyển đổi giới
tính trong Bộ luật Dân sự năm 2015 và kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt Nam”.
Nguyễn Văn Hợi*
Hoàng Thị Loan**
* TS. GV. Trường Đại học Luật Hà Nội
* ThS. GV. Trường Đại học Luật Hà Nội.
Abstract:
From the analysis of the concepts, general rules, names,
interventions by the medical science, conditions for gender
change proponents ... this article provides a number of specific
comments for improvements of the Bill on on Transgender
(drafted 28/12/2017).
Thông tin bài viết:
Từ khóa: chuyển đổi giới tính, góp
ý dự thảo.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 15/01/2018
Biên tập: 09/02/2018
Duyệt bài: 22/02/2018
Article Infomation:
Keywords: Transgender, comments to the
bill
Article History:
Received: 15 Jan. 2018
Edited: 09 Feb. 2018
Approved: 22 Feb. 2018
MỘT SỐ Ý KIẾN GÓP Ý DỰ THẢO LUẬT CHUYỂN ĐỔI GIỚI TÍNH
1. Chương I - Những quy định chung
1.1 Điều 2 Dự thảo luật
- Khoản 1 Điều 2 Dự thảo quy định:
“Chuyển đổi giới tính là quá trình thực hiện
can thiệp y học để chuyển đổi giới tính của
một người đã có giới tính sinh học hoàn
thiện phù hợp với nhận diện giới của họ”.
Quy định này có thể dẫn đến các cách
hiểu khác nhau về chuyển đổi giới tính: (i)
Cách hiểu thứ nhất, việc chuyển đổi giới tính
được áp dụng với “người đã có giới tính sinh
học hoàn thiện phù hợp với nhận diện giới
của họ”; (ii) Cách hiểu thứ hai, việc chuyển
đổi giới tính được thực hiện đối với “người đã
có giới tính sinh học hoàn thiện” nhằm phù
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
29Số 6(358) T3/2018
hợp với “nhận diện giới của họ”. Chúng tôi
cho rằng, trước khi thực hiện việc chuyển đổi
giới tính, nhận diện giới của người chuyển
đổi giới tính phải trái ngược với giới tính sinh
học của họ (kết cấu cơ thể và bộ phận sinh
dục của nam nhưng lại cho rằng mình là nữ
và ngược lại). Do đó, việc chuyển đổi giới
tính là để nhằm thay đổi giới tính sinh học đã
hoàn thiện ở giới tính này sang giới tính khác
phù hợp với nhận diện giới của người chuyển
đổi giới tính. Vì vậy, cách hiểu thứ hai là phù
hợp. Tuy nhiên, để bảo đảm thống nhất cách
hiểu về chuyển đổi giới tính, nội dung của
khoản 1 Điều 2 Dự thảo luật cần phải được
sửa đổi thành “Chuyển đổi giới tính là quá
trình thực hiện can thiệp y học để chuyển đổi
giới tính của một người đã có giới tính sinh
học hoàn thiện sang giới tính khác phù hợp
với nhận diện giới của họ”.
- Khoản 5 Điều 2 Dự thảo luật quy
định: “Can thiệp y học để chuyển đổi giới
tính là một hoặc toàn bộ quá trình từ điều
trị nội tiết tố sinh dục đến phẫu thuật ngực,
phẫu thuật bộ phận sinh dục để thay đổi giới
tính khác với giới tính sinh học hoàn thiện”.
Theo quy định này, người chuyển đổi
giới tính chỉ cần thực hiện một hoạt động can
thiệp y học là có thể được coi là chuyển đổi
giới tính, nghĩa là việc phẫu thuật bộ phận sinh
dục là không bắt buộc đối với người chuyển đổi
giới tính. Điều này cũng được thể hiện cụ thể
trong quy định tại Điều 6 Dự thảo. Về vấn đề
này, thực tế hiện nay đang tồn tại hai quan điểm
khác nhau về thuật ngữ chuyển đổi giới tính.
1 Nguyễn Minh Tuấn (2017), Chuyển đổi giới tính cho người bị đau khổ về giới, bài viết trong Kỷ yếu Hội thảo “Góp ý
Dự thảo Luật Chuyển đổi giới tính”, Hội Luật gia Việt Nam và Bộ Y tế phối hợp tổ chức ngày 29/12/2017.
2 Lê Diệu Linh (2016), Luật hóa quyền chuyển đổi giới tính, Publishing/
News/BinhLuan/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/content/tintuc/lists/News&ItemID=30735 (truy cập ngày
10/01/2018).
3 https://vietadsgroup.vn/hoi-dap-la-gi-/chuyen-doi-gioi-tinh-la-gi-tim-hieu-ve-chuyen-doi-gioi-tinh-la-gi-c62d11217.
aspx (truy cập ngày 10/01/2018).
Quan điểm thứ nhất cho rằng,
“chuyển đổi giới tính là phẫu thuật chuyển
đổi bộ phận sinh dục ngoài, trong và điều
trị hormon sinh dục thay thế”1. Theo quan
điểm này, việc chuyển đổi giới tính chỉ được
thừa nhận đối với những người thực hiện
việc phẫu thuật thay đổi bộ phận sinh dục
trong và ngoài, tức là sự can thiệp y học để
chuyển đổi giới tính phải được thực hiện
một cách toàn diện chứ không chỉ dừng lại
ở việc phẫu thuật một trong các bộ phận
cơ thể. Cùng quan điểm này, có tác giả cho
rằng, “chuyển đổi giới tính (hay còn gọi
phẫu thuật chuyển giới) là khái niệm dùng
để chỉ những thủ tục y khoa để thay đổi giới
tính của một người, trong đó bao gồm những
công đoạn như phẫu thuật bộ phận sinh dục,
tiêm hoóc-môn, phẫu thuật chỉnh hình”2.
Như vậy, cụm từ “những thủ tục y khoa để
thay đổi giới tính của một người” có thể
được hiểu rằng, tác giả không loại trừ bất cứ
sự can thiệp y học nào trong quá trình phẫu
thuật chuyển đổi giới tính.
Quan điểm thứ hai cho rằng, “chuyển
đổi giới tính là chỉ những thủ tục y khoa
dùng để thay đổi giới tính của một người
trong đó có thể bao gồm phẫu thuật chuyển
đổi giới tính hay không”3. Theo quan điểm
này, chuyển đổi giới tính không nhất thiết
phải trải qua quá trình phẫu thuật y học,
tức là việc phẫu thuật bộ phận sinh dục là
không đặt ra. Không trực tiếp đưa ra khái
niệm chuyển đổi giới tính, tác giả Phạm
Quỳnh Phương cho rằng, “người chuyển đổi
giới tính là những người có bản dạng giới
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
30 Số 6(358) T3/2018
khác với giới tính sinh học bẩm sinh. Thông
thường những người chuyển giới sẽ thay đổi
hay muốn thay đổi cơ thể của mình bằng
cách dùng liệu pháp hooc-mon, đi phẫu
thuật, hay dùng các phương pháp khác để có
thể có một cơ thể giống nhất với giới tính mà
họ muốn. Quá trình chuyển đổi thông qua
các can thiệp về y học như vậy thường được
gọi là quá trình chuyển đổi giới tính”4. Theo
tác giả, chỉ cần thực hiện một trong các biện
pháp như tiêm hooc-mon, phẫu thuật hoặc
các phương pháp khác khiến cho cơ thể có
giới tính giống với giới tính mà họ muốn là
đã được coi là quá trình chuyển đổi giới tính.
Tức là quá trình này có thể thông qua việc
phẫu thuật hoặc các phương pháp khác.
Chúng tôi cho rằng, để khẳng định việc
chuyển đổi giới tính có bắt buộc thông qua
các phẫu thuật chuyển đổi bộ phận sinh dục
trong và ngoài hay không, cần phải xác định
bản chất của các thuật ngữ “giới và chuyển
giới, giới tính và chuyển đổi giới tính”.
Khái niệm “giới” muốn nói đến vai trò
của giới nam và giới nữ về mặt xã hội, hành
vi, các hoạt động và các đặc tính của mỗi
một giới (sinh học, tâm lý, xã hội)5. “Giới
chỉ sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam và
nữ, phản ánh đặc điểm quan hệ xã hội giữa
nam giới và phụ nữ, liên quan đến địa vị xã
hội của nam giới và phụ nữ”6. Như vậy, các
quan điểm đưa ra đều nhận định giới là nói
đến vai trò, địa vị xã hội của nam giới và
phụ nữ. Ví dụ giới nam thường để tóc ngắn
và giọng nói ồm - trầm, giới nữ thường để
4 Phạm Quỳnh Phương (2014), Người đồng tính, song tính và chuyển giới ở Việt Nam - Tổng luận các nghiên cứu, Nxb.
Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 28.
5 Nguyễn Minh Tuấn (2017), Chuyển đổi giới tính cho người bị đau khổ về giới, tlđd.
6 Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Tập bài giảng Luật Bình đẳng giới, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr.8.
7 Nguyễn Minh Tuấn (2017), Chuyển đổi giới tính cho người bị đau khổ về giới, tlđd.
8 Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Tập bài giảng Luật Bình đẳng giới, tlđd.
9 Theo quy định tại Phụ lục số 04 ban hành kèm theo Thông tư số 17/2012/TT-BYT ngày 24/10/2012 của Bộ trưởng Bộ
Y tế về quy định cấp và sử dụng giấy chứng sinh. Phụ lục này hướng dẫn cách ghi giấy chứng sinh, trong đó một trong
tóc dài và giọng nói trong - cao. Theo đó, chỉ
cần dựa vào những biểu hiện bên ngoài về
mặt xã hội có thể xác định được một người
thuộc giới nam hay giới nữ.
Với những phân tích trên đây, muốn
thay đổi (chuyển đổi) giới từ nam sang nữ
hoặc từ nữ sang nam chỉ cần thay đổi những
đặc điểm nhận dạng như vị trí, vai trò của
cá nhân trong xã hội (thay đổi những đặc
điểm bên ngoài). Ví dụ: nữ muốn chuyển
giới thành nam thì chỉ cần cắt tóc ngắn, mặc
đồ nam, thay đổi giọng nói và làm những
việc mà nam giới thường làm; một người
nam muốn chuyển giới thành nữ thì chỉ cần
để tóc dài, mặc đồ nữ, thay đổi giọng nói và
làm những việc mà nữ giới thường làm. Để
đạt được điều này, người chuyển giới có thể
cần hoặc không cần thực hiện những phẫu
thuật y học mà có thể chỉ cần điều trị nội tiết
tố sinh dục là đủ.
Khái niệm “giới tính” muốn nói đến
những biểu lộ sinh học đặc trưng của một
người (như nhiễm sắc thể, tuyến sinh dục,
các bộ phận sinh dục trong và ngoài) là nam
hay nữ7. Giới tính thể hiện những đặc điểm
sinh học của nam và nữ, có tính chất bẩm
sinh, tự nhiên, sinh thành, biến đổi tuân theo
quy luật sinh học, gắn liền với cá nhân từ khi
sinh ra đến khi chết đi8. Như vậy, để xác định
giới tính của một người có thể phải dựa vào
nhiều đặc điểm như nhiễm sắc thể, bộ phận
sinh dục. Thời điểm xác định giới tính của
một người là thời điểm cấp giấy chứng sinh9.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Thông tư
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
31Số 6(358) T3/2018
số 17/2012/TT-BYT ngày 24/10/2012 của Bộ
trưởng Bộ Y tế về quy định cấp và sử dụng
giấy chứng sinh, thẩm quyền cấp giấy chứng
sinh thuộc về: Bệnh viện đa khoa có khoa sản;
Bệnh viện chuyên khoa phụ sản, Bệnh viện
sản - nhi; Nhà hộ sinh; Trạm y tế cấp xã; Các
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh hợp pháp khác
được phép cung cấp dịch vụ đỡ đẻ. Thực tế
cho thấy, khi trẻ mới được sinh ra, chúng ta
thường chỉ dựa vào bộ phận sinh dục để xác
định giới tính của trẻ (trừ khi trẻ được sinh ra
mà có khuyết tật bẩm sinh về giới tính thì cần
thông qua thủ tục xác định lại giới tính theo
quy định của pháp luật). Theo quy định tại
khoản 1 Điều 2 Nghị định số 88/2008/NĐ-CP
ngày 05/8/2008 của Chính phủ về xác định
lại giới tính: “Khuyết tật bẩm sinh về giới
tính là những bất thường ở bộ phận sinh dục
của một người ngay từ khi mới sinh ra, biểu
hiện ở một trong các dạng như nữ lưỡng giới
giả nam, nam lưỡng giới giả nữ hoặc lưỡng
giới thật”. Như vậy, nếu trẻ được sinh ra mà
không có bất thường ở bộ phận sinh dục thì
mặc nhiên được hiểu là không có khuyết tật
bẩm sinh về giới tính và có thể xác định chính
xác giới tính của trẻ là nam hay nữ.
Những phân tích trên đây cho thấy,
muốn chuyển đổi giới tính của một cá nhân
đã hoàn thiện về giới tính thì nhất định phải
thay đổi bộ phận sinh dục. Việc thay đổi
bộ phận sinh dục chỉ có thể thực hiện được
thông qua các phẫu thuật thay đổi bộ phận
sinh dục của người muốn chuyển đổi giới
tính. Từ nhận định này, chúng tôi cho rằng,
quan điểm thứ nhất về thuật ngữ chuyển đổi
giới tính như đề cập trên đây là phù hợp.
Khoản 5 Điều 2 Dự thảo luật đã sử dụng
những đặc điểm của “quá trình chuyển giới”
để gắn vào đặc điểm của “quá trình chuyển
những nội dung phải ghi trong giấy chứng sinh đó là giới tính của trẻ.
đổi giới tính”, dẫn đến việc cho rằng, việc
can thiệp y học để chuyển đổi giới tính là
“một hoặc toàn bộ quá trình” từ điều trị nội
tiết tố đến phẫu thuật ngực, phẫu thuật bộ
phận sinh dục để thay đổi giới tính. Vì vậy,
chúng tôi kiến nghị sửa đổi khoản 5 Điều 2
của Dự thảo luật theo hướng như sau: “Can
thiệp y học để chuyển đổi giới tính là toàn
bộ quá trình từ điều trị nội tiết tố sinh dục
đến phẫu thuật ngực, phẫu thuật bộ phận
sinh dục để thay đổi giới tính khác với giới
tính sinh học hoàn thiện”.
1.2 Điều 3 Dự thảo luật
Khoản 2 Điều 3 Dự thảo luật quy định:
“Thực hiện can thiệp y học để chuyển đổi giới
tính trên cơ sở tự nguyện của người đề nghị
chuyển đổi giới tính”. Quy định này có thể dẫn
đến cách hiểu rằng, người đề nghị chuyển đổi
giới tính có thể đề nghị can thiệp y học hoặc
không. Cơ quan nhận được đề nghị chuyển
đổi giới tính không được bắt buộc người đề
nghị chuyển đổi giới tính phải thực hiện bất
cứ một hoạt động can thiệp y học nào nếu họ
không mong muốn. Tuy nhiên, theo quy định
của khoản 1 Điều 2 Dự thảo luật, “chuyển
đổi giới tính là quá trình thực hiện can thiệp y
học” và theo quy định của khoản 5 Điều 2 Dự
thảo luật, mặc dù “can thiệp y học để chuyển
đổi giới tính” có thể là “một hoặc toàn bộ quá
trình” nhưng nhất thiết người đề nghị chuyển
đổi giới tính phải thực hiện ít nhất một quá
trình can thiệp y học. Do đó, nội dung quy
định của khoản 2 Điều 3 mâu thuẫn với nội
dung khoản 2 và khoản 5 Điều 2 của Dự thảo
luật. Vì vậy, để bảo đảm sự thống nhất giữa
các điều khoản của Dự thảo luật, cần sửa đổi
khoản 2 Điều 3 như sau: “Việc can thiệp y
học để chuyển đổi giới tính phải phù hợp với
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
32 Số 6(358) T3/2018
quy định của luật này, luật khác có liên quan
và chỉ được thực hiện với cá nhân có đề nghị
chuyển đổi giới tính”.
1.3 Điều 4 Dự thảo luật
(i) Khoản 2 Điều 4 Dự thảo luật quy
định: “Người chuyển đổi giới tính được tôn
trọng, bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín,
bí mật cá nhân và các quyền riêng tư khác”.
Chúng tôi cho rằng, nội dung này trùng lặp
với quy định của Điều 34 và Điều 38 Bộ
luật Dân sự (BLDS) năm 2015. Bên cạnh
đó, theo quy định của BLDS năm 2015, các
quyền này được quy định cho mọi cá nhân
được hưởng chứ không quy định riêng cho
bất cứ nhóm cá nhân nào. Do đó, dù cá nhân
đó là nam giới hay nữ giới, người đã chuyển
giới hay chưa chuyển giới thì cũng đều được
hưởng các quyền này và được hưởng như
nhau10. Vì vậy, nếu giữ lại nội dung khoản 2
Điều 4 của Dự thảo luật sẽ đồng nghĩa với
việc Luật Chuyển đổi giới tính phân biệt
giữa quyền của người chuyển đổi giới tính
với quyền của các cá nhân khác trong xã hội.
Điều này mâu thuẫn với nội dung nguyên
tắc đã được đề cập tại khoản 3 Điều 3 của
Dự thảo luật “không kỳ thị, phân biệt đối
xử đối với người chuyển đổi giới tính và gia
đình họ”.
Từ những phân tích trên, chúng tôi
kiến nghị loại bỏ nội dung khoản 2 Điều 4
của Dự thảo.
(ii) Khoản 4 Điều 4 Dự thảo luật quy
định: “không bị bắt buộc phải triệt sản khi
phẫu thuật bộ phận sinh dục, trừ trường
hợp tự nguyện”. Theo quy định này, khi
phẫu thuật chuyển đổi giới tính, mặc dù bộ
phận sinh dục có thể thay đổi (dương vật
10 Điều 16 BLDS năm 2015 quy định: “Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự
và nghĩa vụ dân sự (khoản 1). Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật như nhau (khoản 2)”
thành âm đạo và ngược lại) nhưng người
chuyển đổi giới tính có thể giữ lại tinh hoàn
hoặc buồng trứng. Nếu thừa nhận nội dung
này, người chuyển đổi giới tính có thể trở
thành người có “giới tính chưa được định
hình chính xác”. Tức là bộ phận sinh dục
bên ngoài và bộ phận sinh dục bên trong có
thể không phù hợp với một người có giới
tính hoàn thiện. Nội dung này là hệ quả tất
yếu của quan điểm về can thiệp y học để
chuyển đổi giới tính quy định tại khoản 5
Điều 2 của Dự thảo. Vì vậy, chúng tôi kiến
nghị loại bỏ nội dung khoản 4 Điều 4 Dự
thảo luật.
2. Chương II - Điều kiện đối với người đề
nghị chuyển đổi giới tính
2.1 Các hình thức chuyển đổi giới
tính và việc cho phép đăng ký thay đổi hộ
tịch (Điều 6 Dự thảo luật)
(i) Nội dung điểm a khoản 1 Điều 6
của Dự thảo ghi nhận hình thức chuyển đổi
giới tính thông qua điều trị nội tiết tố. Tuy
nhiên, quy định này còn một số điểm bất cập
như: chưa xác định thời gian cụ thể của hình
thức điều trị nội tiết tố này là bao lâu; việc
sử dụng cụm từ “nội tiết tố” là chưa thống
nhất với toàn bộ Dự thảo luật. Do đó, chúng
tôi kiến nghị sửa đổi nội dung này như sau:
“Người có giới tính sinh học hoàn thiện,
được nhận diện có giới tính khác với giới
tính hiện có và đã điều trị nội tiết tố sinh dục
đủ thời gian quy định tại luật này”.
(ii) Quy định của điểm b, điểm c và
điểm d khoản 1 Điều 6 của Dự thảo luật là
không cần thiết. Bởi lẽ, nội dung của điểm b
và c khoản 1 đã bao hàm cả điểm a khoản 1.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
33Số 6(358) T3/2018
Hơn nữa, như trên đã phân tích, để bảo đảm sự
thống nhất của Dự thảo luật, chỉ nên ghi nhận
một hình thức chuyển đổi giới tính đó là người
đã thực hiện việc can thiệp y học một cách
toàn diện từ điều trị nội tiết tố sinh dục đễn
phẫu thuật ngực, phẫu thuật bộ phận sinh dục.
Vì vậy, cần ghép nội dung điểm a, b, c và d lại
và ghi nhận một hình thức chuyển đổi giới tính
với nội dung như sau: “Người có giới tính sinh
học hoàn thiện, được nhận diện có giới tính
khác với giới tính hiện có, đã điều trị nội tiết tố
sinh dục đủ thời gian quy định tại luật này và
đã thực hiện việc phẫu thuật ngực và bộ phận
sinh dục”.
2.2 Điều kiện đối với người đề nghị
điều trị nội tiết tố sinh dục để chuyển đổi
giới tính (Điều 7 Dự thảo luật)
Thứ nhất, khoản 3 Điều 7 Dự thảo
luật ghi nhận người đề nghị điều trị nội tiết
tố sinh dục để chuyển đổi giới tính phải đủ
18 tuổi trở lên. Tuy nhiên, nội dung khoản
3 và toàn bộ nội dung Điều 7 Dự thảo luật
không đề cập đến năng lực hành vi dân sự
của người đề nghị điều trị nội tiết tố sinh
dục để chuyển đổi giới tính. Trong khi đó,
theo quy định của BLDS, người đủ 18 tuổi
trở lên có thể là người có năng lực hành vi
dân sự đầy đủ, người mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự hoặc là người có khó khăn trong
nhận thức và làm chủ hành vi. Nếu chỉ quy
định độ tuổi mà không quy định về khả
năng nhận thức và làm chủ hành vi của
người đề nghị sẽ khiến cho quy định trở
nên thiếu chặt chẽ. Do đó, chúng tôi cho
rằng, cần đưa ra điều kiện nhằm xác định
cụ thể mức độ năng lực hành vi dân sự của
người đề nghị điều trị nội tiết tố để chuyển
đổi giới tính, ghi nhận thêm điều kiện về
nhận thức và làm chủ hành vi của người đề
nghị điều trị nội tiết tố đó là phải có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ.
Thứ hai, khoản 3 Điều 7 Dự thảo luật
ghi nhận người đề nghị điều trị nội tiết tố
phải là người độc thân. Theo quy định của
pháp luật hiện hành, người độc thân là người
chưa từng kết hôn hoặc đã kết hôn nhưng đã
ly hôn theo bản án hoặc quyết định có hiệu
lực của Tòa án. Tuy nhiên, người độc thân
vẫn có thể đã có con và trên giấy khai sinh
của người con đó vẫn có thể ghi nhận đầy
đủ cả cha đẻ và mẹ đẻ. Khi đó, việc chuyển
đổi giới tính có thể dẫn đến hậu quả là người
con đó đang có đầy đủ cha mẹ đẻ (một cha
đẻ và một mẹ đẻ) sẽ trở thành người có hai
cha đẻ mà không có mẹ đẻ hoặc có hai mẹ
đẻ mà không có cha đẻ. Điều này rõ ràng là
không phù hợp với nhận thức bình thường
của chính đứa trẻ, gia đình và toàn xã hội,
mặc dù điều này hoàn toàn có thể giải quyết
bằng những quy định cụ thể về vấn đề thay
đổi hộ tịch của người chuyển giới và những
người có liên quan. Tuy nhiên, nếu việc ghi
nhận này trở thành hiện thực sẽ biến một
vấn đề đang bình thường (một cha đẻ, một
mẹ đẻ) trở thành bất bình thường (hai cha đẻ
hoặc hai mẹ đẻ). Do đó, chúng tôi kiến nghị
bổ sung điều kiện không đang có con đối với
người đề nghị điều trị nội tiết tố sinh dục để
chuyển đổi giới tính.
2.3 Điều kiện đối với người đề nghị
phẫu thuật để chuyển đổi giới tính (Điều 8
của Dự thảo luật)
Việc phẫu thuật để chuyển đổi giới tính
sẽ khiến cho hình dạng bên ngoài của người
đề nghị chuyển đổi giới tính thay đổi một
phần hoặc hoàn toàn so với trước đó. Điều
này có thể ảnh hưởng đến việc thực thi các
quy phạm pháp luật có liên quan. Ví dụ như
người thực hiện phẫu thuật chuyển đổi giới
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
34 Số 6(358) T3/2018
tính đã phạm tội nhưng chưa bị phát hiện và
khởi tố, nếu việc phẫu thuật chuyển đổi giới
tính đã được thực hiện mà hành vi phạm tội
mới bị phát hiện thì việc điều tra sẽ gặp khó
khăn, đặc biệt là người phẫu thuật chuyển đổi
giới tính đã thay đổi hộ tịch. Để phòng ngừa
tình huống trên đây, chúng tôi kiến nghị bổ
sung thêm điều kiện về lý lịch tư pháp của
người đề nghị phẫu thuật để chuyển đổi giới
tính. Theo đó, người đề nghị phẫu thuật để
chuyển đổi giới tính cần phải xin xác nhận lý
lịch tư pháp của cơ quan có thẩm quyền.
2.4 Tên gọi của chương II
Chương II của Dự thảo có tên gọi:
“Điều kiện đối với người đề nghị chuyển
đổi giới tính”. Với tên gọi này, nội dung
của Chương sẽ bao gồm quy định liên quan
đến điều kiện của người đề nghị chuyển
đổi giới tính như: điều kiện về giới tính
trước khi chuyển đổi giới tính, điều kiện về
nhận diện giới, điều kiện về độ tuổi, điều
kiện về tình trạng hôn nhân Tuy nhiên,
trong số các điều khoản của Chương II,
chỉ có Điều 7 và Điều 8 quy định về điều
kiện của người đề nghị chuyển đổi giới
tính; các điều khác như Điều 6 quy định
các hình thức chuyển đổi giới tính và việc
cho phép đăng ký thay đổi hộ tịch, Điều 9
và Điều 10 quy định về Hồ sơ, thủ tục đề
nghị bệnh viện điều trị nội tiết tố sinh dục
và phẫu thuật ngực hoặc bộ phận sinh dục
để chuyển đổi giới tính là không phù
hợp với tên gọi của Chương. Để bảo đảm
sự thống nhất giữa tên gọi và nội dung của
Chương II, chúng tôi đề nghị sửa đổi Dự
thảo luật theo các phương án sau:
Phương án 1: giữ nguyên tên Chương
II và chỉ giữ lại nội dung Điều 7 và Điều 8
nhưng cần quy định cụ thể hơn về các điều
kiện như đã kiến nghị ở trên. Chuyển nội
dung các Điều 6, 9, 10 sang một chương mới
với tên gọi “Các hình thức chuyển đổi giới
tính và thủ tục đề nghị can thiệp y học để
chuyển đổi giới tính”.
Phương án 2: giữ nguyên tên các
điều trong Chương II, đồng thời thay đổi
tên gọi của Chương II thành “Các hình
thức chuyển đổi giới tính, điều kiện và thủ
tục đề nghị can thiệp y học để chuyển đổi
giới tính”
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lê Diệu Linh (2016), Luật hóa quyền chuyển đổi giới tính, website:
UserControls/Publishing/News/BinhLuan/pFormPrint.aspx?UrlListProcess=/content/tintuc/lists/
News&ItemID=30735 (truy cập ngày 10/01/2018).
2. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Tập bài giảng Luật Bình đẳng giới, Nxb Hồng Đức, Hà Nội.
3. Phạm Quỳnh Phương (2014), Người đồng tính, song tính và chuyển giới ở Việt Nam - Tổng luận các
nghiên cứu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Trương Hồng Quang (2014), Người đồng tính, song tính, chuyển giới tại Việt Nam và vấn đề đổi mới hệ
thống pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5. Nguyễn Minh Tuấn (2017), Chuyển đổi giới tính cho người bị đau khổ về giới, bài viết trong Kỷ yếu Hội
thảo “Góp ý dự thảo Luật chuyển đổi giới tính”, Hội Luật gia Việt Nam và Bộ Y tế phối hợp tổ chức
ngày 29/12/2017.
6. https://vietadsgroup.vn/hoi-dap-la-gi-/chuyen-doi-gioi-tinh-la-gi-tim-hieu-ve-chuyen-doi-gioi-tinh-la-gi-
-c62d11217.aspx (truy cập ngày 10/01/2018).
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
35Số 6(358) T3/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- mot_so_y_kien_gop_y_du_thao_luat_chuyen_doi_gioi_tinh.pdf