Một trong những nguyên tắc của giám
sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo là
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH
và Đoàn ĐBQH không làm thay các cơ quan
tư pháp trong việc giải quyết; không chỉ đạo,
can thiệp hoặc tác động vào quá trình giải
quyết mà chỉ nêu ra các căn cứ pháp luật để
xác định, chỉ ra đúng sai trong việc áp dụng
pháp luật, giải quyết của các cơ quan nhà
nước, qua đó làm rõ được trách nhiệm, hiệu
quả công tác, góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức; đồng
thời là điều kiện để người dân có thể phản
ánh ý chí, nguyện vọng với cơ quan do mình
bầu ra, phản ánh về tính đúng đắn tuân thủ
pháp luật trong hoạt động của các cơ quan
nhà nước. Hoạt động giám sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo cần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả theo hướng xây dựng tiêu chí cụ thể về
phân loại đơn, thư, tránh xử lý trùng lặp, tập
trung vào các vụ việc mà qua đơn thư và các
tài liệu kèm theo phát hiện những sai sót, vi
phạm pháp luật; có cơ chế để làm rõ trách
nhiệm của người bị khiếu nại, tố cáo. Theo
đó, phải tăng cường năng lực và trách nhiệm
của cán bộ làm công tác này.
- Hoạt động giám sát đối với việc giải
quyết vụ việc cụ thể trên thực tế cũng còn có
những quan điểm khác nhau. Sự khác nhau
về quan điểm cũng phản ánh đây là vấn đề
mới trong hoạt động của Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH
vì nó liên quan tới lý luận về các nguyên tắc
cơ bản của việc phân công thực hiện quyền
lực nhà nước.
Có quan điểm cho rằng, việc Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và
Đoàn ĐBQH giám sát việc giải quyết các
vụ việc cụ thể là làm thay chức năng của
các cơ quan hành pháp và tư pháp và cho
rằng, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
là những cơ quan có chức năng quyết định,
hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô nên việc
đi vào giám sát các vụ việc cụ thể là không
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, cũng như
cơ cấu tổ chức của các cơ quan này, hơn nữa
việc giám sát vụ việc có thể phải đi đến kết
luận đúng sai nên khó tránh khỏi việc xem
xét, đánh giá các nội dung, chứng cứ trong
vụ việc, trong khi đó, việc này lại thuộc chức
năng của các cơ quan hành pháp, tư pháp.
15 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 225 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nâng cao hiệu quả, hiệu lực hoạt động giám sát của quốc hội Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lý, cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn khác nhau, do vậy, khi Quốc hội
thực hiện quyền giám sát sẽ phát sinh trách
nhiệm và hậu quả pháp lý khác nhau đối với
từng đối tượng chịu sự giám sát. Đây là cơ
sở để Quốc hội xem xét, đánh giá việc tuân
thủ pháp luật cũng như chất lượng, hiệu quả
hoạt động của đối tượng chịu sự giám sát,
đồng thời là căn cứ để chính Quốc hội đánh
giá chất lượng hoạt động của mình.
- Đối với nhiều hoạt động khác trong
xã hội, giữa các chủ thể có thể ủy quyền cho
nhau, ủy quyền trong hệ thống các cơ quan
hành chính nhà nước, ủy quyền giữa các chủ
thể trong quan hệ dân sự, kinh tế; người
được ủy quyền thay mặt người ủy quyền
tiến hành các hoạt động nhân danh người
ủy quyền, nhưng đối với hoạt động giám sát
của Quốc hội thì không thể có ủy quyền vì:
+ Hoạt động giám sát của Quốc hội
là việc thực hiện quyền lực nhà nước được
Hiến pháp và pháp luật ghi nhận; được cụ
thể hóa thành những nhiệm vụ, quyền hạn
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 11(339) T6/2017
và trách nhiệm cụ thể. Do đó, Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và
ĐBQH là chủ thể trực tiếp thực hiện thẩm
quyền giám sát và chịu trách nhiệm trước
Quốc hội, nhân dân về việc thực hiện thẩm
quyền này;
+ Do tính chất quan trọng và phức tạp
của hoạt động giám sát của Quốc hội mà
việc thực hiện hoạt động đó đòi hỏi phải có
năng lực chủ thể đặc biệt mà chỉ có Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH
và ĐBQH mới có khả năng thực hiện và
được pháp luật thừa nhận;
+ Bản chất thẩm quyền giám sát của
Quốc hội là thực hiện quyền lực nhà nước
(quyền hạn) nhưng cũng là việc thực hiện
nghĩa vụ pháp lý tương ứng mà Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và
ĐBQH phải bảo đảm thực hiện và chịu trách
nhiệm trước Quốc hội và nhân dân về việc
thực hiện đó.
- Mọi hoạt động giám sát của Quốc
hội phải xuất phát từ ý chí, nguyện vọng của
nhân dân, gắn bó với nhân dân, phát huy
sự tham gia của nhân dân và chịu sự giám
sát của nhân dân; phải được tiến hành trong
phạm vi và chức năng của Quốc hội; phải
xuất phát từ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Quốc hội do Hiến pháp
và pháp luật quy định và nhằm thực hiện
các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, vị trí
và vai trò đó, theo đó, mọi hoạt động giám
sát của Quốc hội phải được tiến hành trong
khuôn khổ các nguyên tắc hoạt động của
Quốc hội; phải đặt việc thực hiện các quy
định về thẩm quyền giám sát trong phạm vi
hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH, tuyệt đối
không có sự lấn sân sang các lĩnh vực hoạt
động khác của Nhà nước, nhất là lĩnh vực
hành pháp và lĩnh vực tư pháp;
- Phải đặt việc thực hiện các quy định
về thẩm quyền giám sát của Quốc hội trong
tổng thể các quy định về sự phân công, phối
hợp thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của Quốc hội và các thiết chế của Quốc
hội, tuyệt đối trách sự trùng lặp, chồng chéo
hoặc bỏ sót nhiệm vụ;
- Thẩm quyền giám sát của Quốc hội
theo bản chất của cơ quan đại diện phải
được thực hiện một cách công khai, minh
bạch, dân chủ, khách quan và phải đặt dưới
sự giám sát của nhân dân.
3. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám sát
của Quốc hội trên các phương diện hoạt
động
Ngoài quy định tại Điều 11 Luật Hoạt
động giám sát của Quốc hội và Hội đồng
nhân dân (HĐND) quy định tập trung về các
hình thức thực hiện quyền giám sát, thì hầu
hết quy định của Luật đều có liên quan hoạt
động giám sát của Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội, Đoàn ĐBQH và ĐBQH, bao
gồm các hoạt động chủ yếu sau đây:
+ Xem xét báo cáo công tác của Chủ
tịch nước, UBTVQH, Chính phủ, TANDTC,
VKSNDTC, Kiểm toán Nhà nước, cơ quan
khác do Quốc hội thành lập tại kỳ họp Quốc
hội và việc UBTVQH xem xét các báo cáo
này giữa hai kỳ họp.
+ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội,
Đoàn ĐBQH, ĐBQH giám sát tính hợp hiến,
hợp pháp đối với các VBQPPL của các cơ
quan nhà nước hữu quan (Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, các
cơ quan của Chính phủ và HĐND cấp tỉnh).
+ ĐBQH chất vấn Chủ tịch nước, Chủ
tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ và các
thành viên khác của Chính phủ, Chánh án
TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC, Tổng
Kiểm toán Nhà nước tại kỳ họp Quốc hội
hoặc phiên họp của UBTVQH và Quốc hội
tiến hành lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín
nhiệm đối với những người giữ chức vụ do
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
+ Tổ chức các Đoàn giám sát của
UBTVQH, HĐDT, các Ủy ban của Quốc
hội và Đoàn ĐBQH để tiến hành giám sát
chuyên đề việc thi hành và áp dụng pháp
luật của các cơ quan nhà nước ở trung ương
và địa phương trong một số lĩnh vực và đối
với các vụ việc cụ thể.
+ Giám sát việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 11(339) T6/2017
a) Giám sát qua hoạt động xem xét
báo cáo
- Những quy định của pháp luật hiện
hành về giám sát của Quốc hội qua hoạt
động xem xét báo cáo:
Điều 70 Hiến pháp: Quốc hội xét báo
cáo công tác của Chủ tịch nước, UBTVQH,
Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, Hội
đồng Bầu cử quốc gia, Kiểm toán Nhà nước
và cơ quan khác do Quốc hội thành lập.
Điều 11 Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội và HĐND: Quốc hội xem xét báo
cáo công tác của Chủ tịch nước, UBTVQH,
Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC, Kiểm
toán Nhà nước, cơ quan khác do Quốc hội
thành lập và các báo cáo khác quy định tại
Điều 13 của Luật này.
Điều 13 Luật Hoạt động giám sát của
Quốc hội và HĐND quy định các loại báo
cáo, thời điểm xem xét báo cáo, thẩm tra báo
cáo, trình tự, thủ tục xem xét báo cáo của
Quốc hội và HĐND.
Đây là các hoạt động giám sát luôn
nằm trong chương trình giám sát hàng năm
của Quốc hội, hoạt động này được quy định
trong nhiều VBQPPL như Hiến pháp, Luật
Tổ chức Quốc hội, Nội quy kỳ họp Quốc hội
và cụ thể nhất là trong Luật Hoạt động giám
sát của Quốc hội và HĐND.
- Trước hết, nói về thuật ngữ quy định
về vấn đề này cũng có sự khác nhau, theo
đó, Điều 70 của Hiến pháp quy định thuật
ngữ “xét báo cáo công tác”, nhưng đến Điều
11 Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và
HĐND lại quy định thuật ngữ “Xem xét báo
cáo công tác”. Theo Từ điển tiếng Việt thì
“xét là tìm hiểu, cân nhắc kỹ để nhận biết,
đánh giá, kết luận về cái gì đó” còn “xem xét
là tìm hiểu, quan sát kỹ để đánh giá, rút ra
những nhận xét, kết luận cần thiết”2.
Đây là hoạt động giám sát tối cao tại kỳ
họp Quốc hội. Tuy nhiên để hoạt động này
được tiến hành tại kỳ họp Quốc hội thì giữa
hai kỳ họp, HĐDT, các Ủy ban của Quốc
hội phải tiến hành thẩm tra các báo cáo,
UBTVQH xem xét và cho ý kiến về các báo
cáo trước khi trình Quốc hội (với tư cách là
cơ quan thường trực của Quốc hội giữa hai
kỳ họp có nhiệm vụ tổ chức việc chuẩn bị,
triệu tập và chủ trì kỳ họp Quốc hội) và là cơ
quan có thẩm quyền giám sát hoạt động của
Chính phủ, TANDTC, VKSNDTC Việc
trình báo cáo thẩm tra, cho ý kiến, xem xét,
thảo luận và ra nghị quyết về các báo cáo
được tiến hành theo một quy trình, thủ tục
chặt chẽ do luật định và thường được tiến
hành vào kỳ họp cuối của mỗi năm và khi
kết thúc nhiệm kỳ. Đối với kỳ họp giữa năm,
các báo cáo được gửi đến các vị ĐBQH để
xem xét, nghiên cứu.
- Việc xem xét báo cáo được thảo luận,
đánh giá trên hai giác độ:
+ Giác độ thứ nhất là tính hệ thống,
toàn diện, đầy đủ, chính xác về những nội
dung được nêu trong báo cáo, hay nói khác
đi là chất lượng của báo cáo được trình Quốc
hội đã phản ánh một cách khách quan, trung
thực tất cả các hoạt động trên các lĩnh vực
quản lý, điều hành của Chính phủ, hoạt động
xét xử của toàn ngành tòa án và hoạt động
công tố, kiểm soát hoạt động tư pháp của
ngành kiểm sát chưa?
+ Giác độ thứ hai, căn cứ vào những
quy định của Hiến pháp và pháp luật về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ,
các cơ quan của Chính phủ, của hệ thống các
cơ quan TAND và VKSND; vào nghị quyết
của Quốc hội về nhiệm vụ kinh tế - xã hội
và các nghị quyết khác liên quan tới hoạt
động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
các thành viên của Chính phủ, các cơ quan
TAND, VKSND; vào kế hoạch phát triển
kinh tế, xã hội hàng năm, cả nhiệm kỳ và
vào định hướng chiến lược khác được nêu
trong các văn kiện của Đảng và Nghị quyết
của Quốc hội để đánh giá việc thi hành Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của UBTVQH của các cơ
quan nói trên; đánh giá chất lượng, hiệu
quả hoạt động của các cơ quan này, trong
2 Viện Ngôn ngữ học, Trung tâm Từ điển học, “Từ điển tiếng Việt”, Nxb. Đà Nẵng 2002, tr. 1147.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 11(339) T6/2017
đó phân tích rõ những kết quả, thành tựu
đã đạt được, những tồn tại, hạn chế, thiếu
sót và nguyên nhân chủ quan, khách quan.
Trên cơ sở đó, làm rõ được trách nhiệm
của người đứng đầu Chính phủ, TANDTC,
VKSNDTC.
- Về Báo cáo công tác của Chính phủ,
TANDTC, VKSNDTC: cho đến nay, các
quy định của pháp luật hiện hành chưa quy
định cụ thể về những nội dung bắt buộc mà
báo cáo phải đề cập tới và phân tích, đánh
giá, tìm nguyên nhân và đề ra giải pháp. Đây
là một điểm rất đáng lưu ý so với việc trình
một dự án luật, pháp lệnh theo quy định của
Luật Ban hành VBQPPL, theo đó các bước
tiến hành cũng như những nội dung cơ bản
của dự án luật và tờ trình đều được pháp luật
quy định cụ thể. Trong những năm qua, việc
xem xét các báo cáo được thực hiện dưới
dạng Quốc hội thảo luận báo cáo của Chính
phủ về việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã
hội, báo cáo của ngành tòa án, kiểm sát. Do
pháp luật không quy định rõ nội dung bắt
buộc của báo cáo nên khi thảo luận, nhiều
ĐBQH cho rằng, báo cáo còn thiếu vấn đề
này, vấn đề khác, vấn đề này chưa được đặt
ra đúng mức, vấn đề kia còn thiếu nguyên
nhân, giải pháp Đây cũng chính là việc
thiếu các chuẩn mực để ĐBQH căn cứ vào
đó mà đánh giá các báo cáo. Việc thảo luận
thường tập trung vào việc nêu thực trạng
hoạt động trên các lĩnh vực, nhất là các vấn
đề còn tồn tại, hạn chế, yếu kém mà ít đi
vào phân tích, đánh giá sâu việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan theo quy định của Hiến pháp và pháp
luật, nhất là hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của các cơ quan này. Do đó, việc xác định
trách nhiệm cũng chỉ dừng lại ở những đánh
giá chung, thiếu sự rõ ràng, cụ thể, minh
bạch, làm cho hoạt động xét báo cáo chưa
phát huy được đầy đủ hiệu lực và hiệu quả
của một phương thức giám sát tối cao của
Quốc hội tại một kỳ họp với sự tham gia của
hầu hết các chủ thể thuộc cơ cấu của Quốc
hội như ĐBQH, UBTVQH, HĐDT, các Ủy
ban của Quốc hội. Việc đánh giá khi xét
báo cáo không chỉ để đánh giá mà xét đến
cùng là xem xét năng lực, trách nhiệm thực
hiện nhiệm vụ do luật định của Chính phủ,
TANDTC, VKSNDTC, trên cơ sở đó đề ra
các giải pháp khắc phục các hạn chế, yếu
kém, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã
hội cũng như bảo đảm hoạt động đúng đắn,
tuân thủ pháp luật, có hiệu lực, hiệu quả các
cơ quan này.
Lâu nay, việc xem xét báo cáo chủ
yếu dừng ở việc phản ánh tình hình, còn
việc phân tích, đánh giá để làm rõ năng lực
tổ chức thực hiện nhiệm vụ cũng như trách
nhiệm trong công tác còn là mặt hạn chế.
Một trong những nguyên nhân quan trọng
của tình trạng này là ĐBQH còn thiếu các
thông tin cần thiết và điều kiện thực tế để
xem xét đánh giá một các cặn kẽ, cụ thể. Vì
khi về họp Quốc hội, các ĐBQH mới nhận
được các báo cáo của Chính phủ, TANDTC,
VKSNDTC và báo cáo thẩm tra của HĐDT,
các Ủy ban hữu quan về các báo cáo này.
Với thời gian hạn hẹp tại kỳ họp, ĐBQH khó
có điều kiện, khả năng để đánh giá một cách
toàn diện, cụ thể, xác định rõ trách nhiệm
của các cơ quan được đề cập trong báo cáo
này. Đấy là chưa kể đến tính phản biện trong
các báo cáo thẩm tra trong một số trường
hợp cũng chưa cao, chưa chỉ ra địa chỉ cụ thể
của các chủ thể phải chịu trách nhiệm; việc
thảo luận, xem xét đánh giá thường bằng
những bản tham luận đã chuẩn bị trước của
các vị ĐBQH mà thiếu tính tranh luận, trao
đổi để đi đến làm rõ, thống nhất. Điều đáng
lưu ý là do chuẩn bị trước nên nhiều ĐBQH
cứ bê nguyên xi bản tham luận đã chuẩn bị
để đọc trước Quốc hội, mặc dù về cùng một
vấn đề trước đó đã có nhiều ĐBQH phát
biểu, gây nên sự trùng lặp và kéo dài thời
gian xem xét, thảo luận. Hoạt động xem xét
báo cáo là tiền đề cho các hoạt động giám
sát khác như chất vấn, giám sát chuyên đề
hoặc tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm. Thông
thường, hậu quả pháp lý của việc xem xét
đánh giá đối với các báo cáo của Chính phủ,
TANDTC, VKSNDTC được nêu trong các
nghị quyết chung về tình hình kinh tế - xã
hội, trong một số trường hợp, Quốc hội có
thể ra nghị quyết riêng về việc xem xét báo
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 11(339) T6/2017
cáo. Rõ ràng khi ra nghị quyết riêng về vấn
đề này thì Quốc hội có điều kiện làm rõ hơn
trách nhiệm của đối tượng chịu sự giám sát.
- Để nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu
lực, hiệu quả của hoạt động xét báo cáo thì
giữa hai kỳ họp, Quốc hội, các ĐBQH phải
được thông tin về hoạt động của Chính phủ,
các cơ quan của Chính phủ, các thành viên
của Chính phủ, của ngành tòa án, kiểm sát.
Các thông tin đó phải tạo thành hệ thống và
phản ánh toàn diện các mặt hoạt động, nhất
là việc chấp hành pháp luật và hiệu quả các
mặt công tác, góp phần bảo đảm cơ sở dữ
liệu, căn cứ cần thiết để ĐBQH nghiên cứu
thảo luận khi xét báo cáo. Phải đổi mới một
cách căn bản chế độ cung cấp và xử lý thông
tin cho ĐBQH. Vì một khi chưa rõ, thông tin
chưa đầy đủ thì các đánh giá, kết luận sẽ là
hình thức và chủ quan. Do đó, sẽ khó có điều
kiện xem xét, đánh giá một cách toàn diện,
khách quan, chính xác trách nhiệm của các
cơ quan báo cáo.
b) Giám sát qua hoạt động chất vấn
- Chất vấn là quyền và là hình thức
giám sát riêng có và quan trọng nhất của
ĐBQH. Chất vấn là yêu cầu của đại biểu
với tư cách là người đại diện có thẩm quyền
của nhân dân đối với người bị chất vấn trong
việc làm rõ trách nhiệm của người bị chất
vấn, buộc người bị chất vấn phải báo cáo,
giải trình trước cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất về những vấn đề liên quan đến trách
nhiệm của họ trong việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn và việc tuân thủ pháp luật trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
đó. Chất vấn do cá nhân ĐBQH thực hiện,
nhưng khi tiến hành tại kỳ họp Quốc hội, chất
vấn trở thành một trong những hoạt động
giám sát tối cao của Quốc hội. Các ĐBQH
khi thực hiện quyền chất vấn sẽ không còn
nhân danh cá nhân nữa mà nhân danh quyền
lực tối cao của nhân dân, thay mặt nhân
dân yêu cầu người bị chất vấn phải trả lời
về những vấn đề liên quan đến trách nhiệm
pháp lý của mình, quy trách nhiệm pháp lý
đối với người bị chất vấn. Đặc điểm quyền
chất vấn của ĐBQH là chất vấn đối với cá
nhân những người đứng đầu các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Thực hiện quyền
chất vấn giúp cho ĐBQH thay mặt nhân dân
xem xét tính đúng đắn trong hoạt động của
bộ máy nhà nước và có thêm cơ sở để thực
hiện quyền bầu, phê chuẩn, bãi nhiệm, miễn
nhiệm và bỏ phiếu tín nhiệm đối với những
người lãnh đạo, những người do Quốc hội
bầu hoặc phê chuẩn. Khi nghiên cứu hoàn
thiện về quyền chất vấn, một vấn đề cần lưu
ý là việc phân biệt rõ giữa quyền này với
quyền của ĐBQH yêu cầu trả lời về những
vấn đề mà ĐBQH cần quan tâm. Theo đó,
quyền chất vấn và quyền yêu cầu trả lời về
những vấn đề mà ĐBQH quan tâm về mặt
hình thức có thể giống nhau ở chỗ đều là
dạng đặt câu hỏi, nhưng khác nhau ở mục
đích, trình tự, thủ tục tiến hành và đặc biệt là
hậu quả pháp lý. Việc yêu cầu trả lời những
vấn đề ĐBQH quan tâm thường chỉ đặt ra
nhằm thu thập thông tin để phục vụ cho hoạt
động của ĐBQH, trong khi đó, chất vấn là
một hoạt động quyền lực nhằm làm rõ và
quy kết trách nhiệm, kết quả trả lời chất vấn
dẫn đến việc có áp dụng hay không áp dụng
các hình thức kỷ luật của Nhà nước đối với
người bị chất vấn và buộc người bị chất vấn
phải đưa ra, thực hiện cho được giải pháp
khắc phục các yếu kém. Hơn nữa, đối với
quyền chất vấn, đối tượng bị chất vấn được
xác định cụ thể và có phạm vi nhất định, còn
quyền yêu cầu trả lời về những vấn đề mà
ĐBQH quan tâm không hạn chế đối với bất
kỳ đối tượng, lĩnh vực nào.
- Chất vấn của ĐBQH là hình thức
giám sát tối cao tại kỳ họp. Điều 80 Hiến
pháp quy định: "ĐBQH có quyền chất vấn
Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng
Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ, Chánh án TANDTC,
Viện trưởng VKSNDTC, Tổng Kiểm toán
Nhà nước".
Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ
đều quy định các ĐBQH có quyền chất vấn.
Từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm
2013, đối tượng bị chất vấn ngày càng được
mở rộng. Hiến pháp 1946 chỉ dừng lại ở quy
định Nghị viện chất vấn đối với Bộ trưởng.
Hiến pháp năm 1959 quy định ĐBQH có
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 11(339) T6/2017
quyền chất vấn Hội đồng Chính phủ, các cơ
quan thuộc Hội đồng Chính phủ. Hiến pháp
năm 1980 quy định ĐBQH có quyền chất vấn
Hội đồng Bộ trưởng và các thành viên của
Hội đồng Bộ trưởng, Chánh án TANDTC,
Viện trưởng VKSNDTC. Hiến pháp năm
1992 và Hiến pháp năm 2013 mở rộng và cá
thể hóa trách nhiệm của người bị chất vấn,
theo đó, ĐBQH có quyền chất vấn Chủ tịch
nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính
phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của
Chính phủ, Chánh án TANDTC, Viện trưởng
VKSNDTC, Tổng Kiểm toán nhà nước.
- Đặc điểm quyền chất vấn của ĐBQH
theo Hiến pháp là các đại biểu không chất
vấn cơ quan nhà nước nói chung mà chất
vấn cá nhân người đứng đầu các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Đây là điều khác
biệt so với quyền chất vấn của ĐBQH đã
được quy định tại các Hiến pháp trước đây.
Về hình thức chất vấn, nếu trước đây
chất vấn chỉ là đối thoại trực tiếp thì từ Hiến
pháp năm 1992 trở đi, ĐBQH có thể chất
vấn trực tiếp hoặc gửi phiếu chất vấn qua
UBTVQH để chuyển tới người bị chất vấn.
Và chất vấn được thực hiện không chỉ tại kỳ
họp, mà ĐBQH có thể gửi chất vấn trong
thời gian giữa hai kỳ họp.
Trong mấy nhiệm kỳ gần đây, chất vấn
và trả lời chất vấn đã được tiến hành thường
xuyên. Tại mỗi kỳ họp, Quốc hội dành
khoảng ba đến bốn ngày để tiến hành chất
vấn. Các hoạt động chất vấn đã được truyền
hình trực tiếp để người dân theo dõi. Các nội
dung mà ĐBQH chất vấn thường đề cập tới
những vấn đề nóng bỏng, bức xúc liên quan
tới trách nhiệm của nhiều cơ quan thuộc
mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội
và đã được các thành viên của Chính phủ,
người đứng đầu VKSNDTC, TANDTC và
các cơ quan khác trả lời nghiêm túc. Thông
qua chất vấn, trả lời chất vấn, nhiều vấn đề
được làm sáng tỏ, nhất là trách nhiệm của
các cơ quan, người đứng đầu các cơ quan
hữu quan trong công tác của mình. Hình
thức đối thoại trực tiếp tạo không khí dân
chủ, cởi mở, nghiêm túc giữa người chất vấn
và người trả lời chất vấn đã mang lại kết quả
thiết thực, được nhân dân quan tâm theo dõi
và hoan nghênh.
- Trên thực tế, đang có sự lẫn lộn giữa
chất vấn và đặt câu hỏi để nắm thông tin.
Trong nhiều câu hỏi mà ĐBQH chất vấn cho
thấy, có không ít câu hỏi được nêu ra không
phải là chất vấn mà chỉ là để biết về các
thông tin cụ thể. Điều này vừa làm cho hoạt
động chất vấn kém hiệu quả, vừa làm cho
người bị chất vấn lúng túng. Nếu không trả
lời thì băn khoăn trước yêu cầu của ĐBQH,
nhưng trả lời thì lại không đúng với ý nghĩa,
mục đích của chất vấn, trong khi thời gian
dành cho hoạt động chất vấn là hết sức quý
báu và không thể kéo dài.
Vấn đề đáng quan tâm hiện nay đó
là hậu quả pháp lý của hoạt động chất vấn.
Lâu nay, đây là vấn đề chưa được làm rõ và
quan tâm đúng mức. Thời gian gần đây, các
ĐBQH khi chất vấn đã bắt đầu căn cứ vào lời
hứa của người bị chất vấn tại kỳ họp trước
để xác định rõ trách nhiệm và việc thực hiện
lời hứa của họ. Tuy nhiên, việc thông qua
hoạt động chất vấn để xem xét bỏ phiếu tín
nhiệm, để miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc ra
nghị quyết của Quốc hội về trả lời chất vấn
để thể hiện rõ hậu quả pháp lý của việc chất
vấn vẫn còn vướng mắc về cơ chế trong quá
trình triển khai thi hành luật trên thực tế.
Việc trả lời chất vấn trong thời gian
gần đây về cơ bản được thực hiện nghiêm
túc, mang tính xây dựng với tinh thần phê
và tự phê. Thái độ cởi mở khi đối thoại tại
phiên họp chất vấn thể hiện tinh thần hợp
tác, dân chủ, vừa để làm rõ trách nhiệm của
người đại diện của nhân dân, vừa đề cao
trách nhiệm của những người đứng đầu các
cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, thực tế cũng
cho thấy, việc trả lời chất vấn của một số
người còn không đi thẳng vào vấn đề, nhất là
phần trách nhiệm của mình, mà còn vòng vo;
nhiều khi còn liệt kê thành tích của ngành,
né tránh trách nhiệm hoặc thanh minh, đổ
lỗi cho điều kiện khách quan hoặc cơ quan
khác. Trong các trường hợp như vậy, Quốc
hội cũng chưa có cơ chế để xử lý. Đây là tồn
tại cần sớm được khắc phục.
- Chất vấn các thành viên Chính
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 11(339) T6/2017
phủ, Viện trưởng VKSNDTC, Chánh án
TANDTC và các chủ thể khác là phương
thức thực hiện quyền giám sát tối cao của
Quốc hội do ĐBQH tiến hành, thể hiện
nguyên tắc dân chủ thật sự trong hoạt động
của Quốc hội, đồng thời bảo đảm cho Quốc
hội thực hiện đúng chức năng, vai trò là
cơ quan đại biểu cao nhất, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất. Qua các kỳ họp của
Quốc hội khóa IX, khóa X, XI, XII và XIII,
hoạt động chất vấn của ĐBQH không ngừng
được đổi mới cả về phương pháp, nội dung
chất vấn, được dư luận nhân dân đánh giá
cao, bước đầu có hiệu quả nhất định. Tuy
nhiên, hoạt động chất vấn vẫn còn không ít
bất cập, hạn chế. Để nâng cao hiệu lực, hiệu
quả của hoạt động chất vấn tại kỳ họp - với
tính chất là một phương thức giám sát tối
cao của Quốc hội tại kỳ họp - cần hoàn thiện
phương thức chất vấn và trả lời chất vấn
theo hướng sau:
+ Một là, chất vấn thể hiện bản lĩnh,
trách nhiệm và năng lực tổng hợp của ĐBQH.
Năng lực chất vấn của ĐBQH phụ thuộc lớn
vào các thông tin mà ĐBQH thu nhận được.
Do đó, ĐBQH phải được cung cấp thông
tin một cách đầy đủ, toàn diện và kịp thời
về những vấn đề mà đại biểu quan tâm chất
vấn. Tuy nhiên, cần có những thông tin đã
được xử lý thông qua chính ĐBQH, bằng
chuyên gia phân tích, tư vấn, bằng thảo luận,
tranh luận tại kỳ họp Chất vấn của ĐBQH
phải thật "đắt", làm rõ được trách nhiệm của
đối tượng bị chất vấn, tạo cơ sở để Quốc hội
buộc đối tượng bị chất vấn nhận thức ra và
sửa chữa, khắc phục những yếu kém. Đây
là khâu còn yếu, cần phải được hoàn thiện
trong thời gian tới.
+ Hai là, sau khi nghe báo cáo công
tác của Chính phủ, VKSNDTC, TANDTC
và các báo cáo khác (nếu có), các ĐBQH
gửi chất vấn đến Chủ tịch Quốc hội. Đoàn
Thư ký kỳ họp có trách nhiệm tổng hợp các
chất vấn. UBTVQH dự kiến và trình Quốc
hội quyết định những chất vấn phải trả lời
tại Hội trường, những chất vấn cần được trả
lời bằng văn bản, những chất vấn cần được
chuẩn bị để trả lời tại kỳ họp khác của Quốc
hội hoặc trả lời tại phiên họp của UBTVQH.
+ Ba là, sau khi nghe trả lời chất vấn,
Quốc hội cần có kết luận hoặc ra nghị quyết
làm rõ trách nhiệm của đối tượng bị chất
vấn và giao nhiệm vụ cụ thể cho Chính phủ,
các thành viên của Chính phủ, Viện trưởng
VKSNDTC, Chánh án TANDTC... trong
việc khắc phục những yếu kém, hạn chế mà
ĐBQH đã chất vấn. Đây là cơ sở pháp lý để
biến hoạt động chất vấn của ĐBQH thành
giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp và
có giá trị pháp lý buộc chủ thể bị chất vấn
phải thực hiện, đồng thời để tiếp tục giám
sát, đánh giá tại các kỳ họp tiếp theo. Nếu
trong một thời hạn hợp lý (qua 2 - 3 kỳ họp)
mà người bị chất vấn không đề ra và thực
hiện được những biện pháp khắc phục hữu
hiệu thì cần xem xét và có thể tiến hành bỏ
phiếu tín nhiệm đối với những người này.
Đương nhiên, khi thực hiện cũng cần đánh
giá đúng các khó khăn khách quan và khuyết
điểm chủ quan của người bị chất vấn.
Việc ra nghị quyết của Quốc hội về
việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của
người bị chất vấn phải được xem như một
hoạt động bình thường, thể hiện tính cương
quyết, công khai, minh bạch trong hoạt động
giám sát của ĐBQH.
+ Bốn là, không nên bố trí chất vấn
và trả lời chất vấn vào thời gian cuối của kỳ
họp, vì dễ có tâm lý buông xuôi, cho qua.
Nên bố trí vào khoảng thời gian từ giữa kỳ
họp đến khoảng 2/3 thời gian của kỳ họp.
Căn cứ vào nội dung chất vấn và trả lời chất
vấn, UBTVQH quyết định những vấn đề cần
báo cáo, giải trình hoặc những biện pháp mà
người trả lời chất vấn phải khắc phục và báo
cáo Quốc hội. Đương nhiên, tùy vấn đề và
mức độ trách nhiệm mà xác định thời hạn
báo cáo để đánh giá hoặc có thể tiến hành bỏ
phiếu tín nhiệm, nhưng cần báo cáo về biện
pháp khắc phục đã làm tại kỳ họp tiếp theo
của Quốc hội. Như vậy, người bị chất vấn sẽ
thực sự nêu cao trách nhiệm, có những biện
pháp hữu hiệu giải quyết những vấn đề bức
xúc mà ĐBQH đã chất vấn.
+ Năm là, nâng cao trách nhiệm,
chất lượng chất vấn của ĐBQH. Chất vấn
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 11(339) T6/2017
cần hướng vào các vấn đề bức xúc của đời
sống xã hội mà cử tri đòi hỏi để làm rõ trách
nhiệm, khuyết điểm của người bị chất vấn
và yêu cầu họ phải thực hiện các biện pháp
khắc phục. Tránh tình trạng nêu chất vấn
không rõ hoặc chỉ để biết thông tin, không
liên quan tới thẩm quyền, trách nhiệm của
người bị chất vấn.
+ Sáu là, đối với những vấn đề bức
xúc mà cử tri nêu ra, ĐBQH phải nghiên cứu
trước, yêu cầu cơ quan, tổ chức hữu quan
cung cấp thông tin hoặc tự mình thu thập,
xử lý thông tin về những vấn đề liên quan
đến chất vấn. Chất lượng và hiệu quả của
hoạt động chất vấn phụ thuộc vào việc chất
vấn đúng bản chất sự việc, buộc đối tượng bị
chất vấn phải "tâm phục, khẩu phục". Điều
này cũng sẽ làm cho cử tri cả nước có điều
kiện để đánh giá hoạt động của các cơ quan
nhà nước và thêm tin tưởng vào Quốc hội.
+ Bảy là, người trả lời chất vấn phải
nghiên cứu kỹ yêu cầu chất vấn, chuẩn bị đầy
đủ dữ liệu, trả lời tập trung, chính xác, súc
tích vấn đề đã nêu. Không báo cáo vòng vo,
liệt kê thành tích ngành, né tránh trách nhiệm
hoặc thanh minh, đổ lỗi cho ngành khác, cho
điều kiện khách quan. Sau khi trả lời chất vấn
phải đề ra và thực hiện cho được các biện
pháp khắc phục hạn chế, khuyết điểm.
c) Giám sát chuyên đề
- Giám sát chuyên đề của Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội được tiến hành
trên hai phương diện: giám sát VBQPPL và
giám sát hoạt động. Hàng năm, theo Chương
trình giám sát, Quốc hội ra nghị quyết về
việc giám sát chuyên đề trong một số lĩnh
vực; UBTVQH, HĐDT, các Ủy ban của
Quốc hội quyết định việc giám sát chuyên đề
trong một số lĩnh vực và đối với một số vụ
việc cụ thể. Phương thức để giám sát chuyên
đề quan trọng nhất là tổ chức các Đoàn giám
sát để tiến hành giám sát trực tiếp việc thi
hành pháp luật của các cơ quan, tổ chức, đơn
vị ở trung ương và địa phương.
- Việc tổ chức Đoàn giám sát được quy
định khá cụ thể tại Luật Hoạt động giám sát
của Quốc hội và HĐND; Quy chế hoạt động
của UBTVQH; Quy chế hoạt động HĐDT,
các Ủy ban của Quốc hội. Các văn bản pháp
luật trên đây đã quy định khá cụ thể về trình
tự tổ chức cũng như nhiệm vụ, quyền hạn
của Đoàn giám sát. Tuy nhiên, một số vấn đề
về hoạt động giám sát này, theo chúng tôi,
cần phải được làm rõ để tiếp tục nâng cao
hiệu lực và hiệu quả, đó là:
+ Thứ nhất, Đoàn giám sát tuy là một
tổ chức được thành lập theo quy định của
pháp luật, có nhiệm vụ quyền hạn cụ thể,
song không phải là chủ thể giám sát độc lập
mà phụ thuộc vào nghị quyết thành lập, sự
chỉ đạo và kết luận của cơ quan tổ chức ra nó.
+ Thứ hai, tất cả các hoạt động của
Đoàn giám sát phải bảo đảm các nguyên tắc
làm việc của Quốc hội và đặc biệt là không
được làm thay hoặc can thiệp vào việc thực
hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
các cơ quan, tổ chức hữu quan, người có
thẩm quyền. Đồng thời không làm cản trở
hoạt động bình thường của các cơ quan, tổ
chức, cá nhân chịu sự giám sát.
+ Thứ ba, mục đích hoạt động của
Đoàn giám sát là làm rõ trách nhiệm cụ thể
của từng đối tượng chịu sự giám sát trong
việc thi hành Hiến pháp và pháp luật. Chính
vì vậy, nó khác về bản chất so với các Đoàn
khảo sát để thu thập thông tin tình hình phục
vụ cho hoạt động của Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội, vì hoạt động của Đoàn giám
sát bao giờ cũng phát sinh hậu quả và trách
nhiệm pháp lý của các bên tiến hành giám
sát và chịu sự giám sát.
+ Thứ tư, hậu quả pháp lý về hoạt động
của Đoàn giám sát được xem xét, quyết định
bởi cơ quan đã ra nghị quyết thành lập Đoàn
giám sát (UBTVQH, HĐDT, các Ủy ban của
Quốc hội).
Trong thời gian gần đây, việc tổ chức
các Đoàn giám sát để phục vụ cho việc giám
sát chuyên đề của Quốc hội, UBTVQH,
HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội đã bước
đầu đi vào nề nếp, theo đúng quy định của
pháp luật. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn có
sự lẫn lộn trong việc tổ chức và tiến hành
hoạt động của Đoàn giám sát và Đoàn khảo
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 11(339) T6/2017
sát thực tế. Do đó, trình tự tiến hành, thẩm
quyền cũng như hậu quả pháp lý thường
không rõ ràng và có sự nhầm lẫn. Đây là tồn
tại, hạn chế đã nhiều năm, cần phải rút kinh
nghiệm trong thời gian tới. Điểm đáng lưu
ý là kết quả giám sát chuyên đề của HĐDT,
các Ủy ban của Quốc hội qua phương thức
tổ chức các Đoàn giám sát để tiến hành giám
sát việc thi hành pháp luật trong các lĩnh vực
của đời sống kinh tế - xã hội ít được Quốc
hội, UBTVQH bố trí thời gian để xem xét,
thảo luận, quyết định. Do đó, hiện tại hiệu
quả, hiệu lực giám sát của hoạt động này
cũng còn hạn chế, chất lượng chưa cao.
Việc UBTVQH, HĐDT, các Ủy ban
của Quốc hội tổ chức các Đoàn giám sát để
tiến hành giám sát đối với một số vụ việc
cụ thể, nhất là việc triển khai các dự án từ
nguồn vốn ngân sách nhà nước, việc giải
quyết đối với một số vụ việc cũng đang gây
tranh cãi và không thống nhất về nhận thức
giữa các cơ quan hữu quan và ngay đối với
cả các cơ quan của Quốc hội.
Có ý kiến cho rằng, giám sát của Quốc
hội phải tập trung vào giải quyết những vấn
đề có tính phổ biến, vĩ mô, những vấn đề
mà đông đảo cử tri và nhân dân cả nước
quan tâm. Do đó, giám sát đối với vụ việc
cụ thể cũng phải phục vụ cho mục đích này
và chỉ giới hạn ở việc xem xét tính hợp pháp
của vấn đề đã được giải quyết, vì nếu các
cơ quan của Quốc hội đưa ra phán xét, kết
luận tính chất đúng, sai của sự việc đã được
giải quyết thì vô hình trung, đã can thiệp
vào hoạt động thi hành pháp luật của các cơ
quan hành pháp và tư pháp và vì vậy, sẽ dễ
dẫn tới trùng lắp về chức năng, nhiệm vụ.
Ý kiến khác cho rằng, nếu không giám
sát đối với việc giải quyết các vụ việc cụ thể
thì làm sao có đủ các minh chứng, chứng cứ
cần thiết cho việc giám sát chuyên đề trên
các lĩnh vực và sẽ là quan liêu khi Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội lại không xem xét
đến các khiếu nại, tố cáo của công dân. Mà
các khiếu nại, tố cáo này hầu hết lại là các
vụ việc cụ thể.
Chúng tôi cho rằng, với chức năng
giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động
của Nhà nước, Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội hoàn toàn có đủ thẩm quyền giám
sát đối với việc giải quyết các vụ việc cụ
thể. Tuy nhiên, mục đích của việc giám sát,
phạm vi và nhất là hậu quả pháp lý của việc
giám sát đối với các vụ việc cụ thể cần phải
được nghiên cứu làm rõ để quy định cụ thể
ngay trong hoạt động giám sát của Quốc
hội, phù hợp với tính chất tổ chức và hoạt
động của Quốc hội nước ta. Theo chúng tôi,
việc giám sát đối với các vụ việc cụ thể ở
các bộ, ngành, địa phương, cơ sở cũng phải
hướng vào việc giải quyết những vấn đề có
tính phổ biến, vĩ mô, vào việc hoàn thiện
các chính sách, pháp luật và nhất là để làm
rõ trách nhiệm của những người đứng đầu
các cơ quan hành pháp và tư pháp ở trung
ương, những người do Quốc hội bầu hoặc
phê chuẩn.
- Hoạt động của Đoàn giám sát không
được lấn sân sang hoạt động của các cơ quan
hành pháp và tư pháp. Trong các nhiệm kỳ
Quốc hội khóa X và khóa XI, Ủy ban Pháp
luật của Quốc hội đã ra nghị quyết thành lập
Đoàn giám sát để tiến hành giám sát cụ thể
đối với việc giải quyết một số vụ việc cụ thể.
Tuy nhiên, những kết luận của Ủy ban Pháp
luật về việc giám sát đối với các vụ việc cụ
thể cũng gây tranh luận trong UBTVQH và
các cơ quan hữu quan và điều đáng lưu ý là,
trong trường hợp cơ quan chịu sự giám sát
không đồng ý với kết luận giám sát đó thì
pháp luật cũng chưa quy định phương cách
để đi đến cùng đối với việc giám sát này.
Đấy chưa kể đến việc, có ý kiến cho rằng,
ra kết luận đúng sai đối với một bản án đã
có hiệu lực pháp luật là trùm lên trên thẩm
quyền của các cơ quan tư pháp đã được Hiến
pháp và pháp luật quy định. Chúng tôi cho
rằng, trong trường hợp này, các cơ quan của
Quốc hội xem xét trách nhiệm của các cơ
quan chịu sự giám sát trong việc chấp hành
pháp luật khi giải quyết các vụ việc, nếu thấy
có vi phạm thì ra kết luận, yêu cầu các cơ
quan tư pháp có thẩm quyền khắc phục, sửa
chữa. Trong trường hợp không thỏa đáng thì
có thể trình Quốc hội xem xét việc bỏ phiếu
tín nhiệm đối với người đứng đầu cơ quan tư
pháp ở trung ương.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 11(339) T6/2017
Việc giám sát chuyên đề trong các lĩnh
vực và đối với một số vụ việc cụ thể là vấn đề
mới và khó. Chúng ta chưa có kinh nghiệm
về hoạt động giám sát này nên phải vừa làm,
vừa rút kinh nghiệm. Và để tạo điều kiện
thuận lợi cho việc áp dụng pháp luật, cần
tổng kết, nghiên cứu để quy định cụ thể hơn,
góp phần tăng cường hiệu lực và hiệu quả
của phương thức giám sát chuyên đề.
Hoạt động giám sát chuyên đề đối với
các VBQPPL của Chính phủ, TANDTC,
VKSNDTC và các bộ, ngành trong những
năm qua còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân
của tình trạng này là chúng ta còn thiếu các
quy định cụ thể về cơ chế thực hiện. Mặc dù,
giám sát văn bản được quy định trong nhiều
văn bản pháp luật như Luật Tổ chức Quốc
hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc
hội và HĐND, các Quy chế hoạt động của
UBTVQH, HĐDT, các Uỷ ban của Quốc
hội nhưng chủ yếu là quy định về thẩm
quyền giám sát và hậu quả pháp lý của việc
giám sát văn bản, còn về trình tự, quy trình
tiến hành ra sao lại chưa được quy định cụ
thể, nhất là về mối quan hệ giữa các phương
thức giám sát khác với việc giám sát văn bản
cũng chưa được nghiên cứu, làm rõ. Kinh
nghiệm giám sát VBQPPL trong những
nhiệm kỳ vừa qua cho thấy, nếu chỉ ngồi đọc
các VBQPPL để đối chiếu với các quy định
của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội, pháp lệnh, nghị quyết của UBTVQH
xem có gì trái và không phù hợp hay không,
thì sẽ rất khó khăn trong việc phát hiện. Phải
trên cơ sở các hoạt động giám sát khác như
chất vấn, giám sát đối với các vụ việc cụ thể,
tổ chức Đoàn giám sát để tiến hành giám
sát việc thực thi pháp luật của các cơ quan,
tổ chức hữu quan trong một số lĩnh vực và
nhất là, qua hoạt động giám sát việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thì mới
có điều kiện để xem xét một cách thực tế,
khách quan các quy phạm pháp luật không
còn phù hợp, thiếu tính khả thi hoặc không
thống nhất với các nguyên tắc, quy định
trong các đạo luật, pháp lệnh. Do đó, cần
nghiên cứu để quy định cụ thể ngay trong
luật các cơ chế tiến hành giám sát VBQPPL,
theo đó, việc giám sát VBQPPL cần đặc biệt
quan tâm tới mối quan hệ với các phương
thức giám sát khác - như đã nêu trên - thì
mới phát huy được hiệu lực và hiệu quả của
hoạt động này.
d) Giám sát qua hoạt động bỏ phiếu
tín nhiệm
Để tăng cường vai trò và hiệu lực
giám sát của Quốc hội, Hiến pháp đã quy
định nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội
trong việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với những
người do Quốc hội bầu, phê chuẩn. Điều 13
Luật Tổ chức Quốc hội, Điều 19 Luật Hoạt
động giám sát của Quốc hội và HĐND, Quy
chế hoạt động của UBTVQH, Nội quy kỳ
họp Quốc hội đều có những quy định liên
quan tới việc bỏ phiếu tín nhiệm. Đây là
quyền được thực hiện chủ động từ phía các
ĐBQH, UBTVQH, HĐDT, các Ủy ban của
Quốc hội. Tuy nhiên, chỉ có UBTVQH là cơ
quan có thẩm quyền tự mình trình việc bỏ
phiếu tín nhiệm với Quốc hội, còn các chủ
thể khác thực hiện quyền của mình thông
qua việc kiến nghị UBTVQH trình Quốc hội
bỏ phiếu tín nhiệm. Điều đáng lưu ý là, đối
với các ĐBQH khi kiến nghị phải hội đủ ít
nhất 20% tổng số ĐBQH thì UBTVQH mới
xem xét việc trình Quốc hội việc bỏ phiếu
tín nhiệm. Cho đến nay, cách thức trình, cơ
chế hội đủ kiến nghị của 20% ĐBQH như
thế nào thì pháp luật lại chưa quy định rõ, kể
cả các nghị quyết của Quốc hội, UBTVQH
về vấn đề này. Có ý kiến cho rằng, trong
nhiệm kỳ Quốc hội, ở bất cứ giai đoạn nào
cứ hội đủ kiến nghị của 20% ĐBQH thì
UBTVQH mặc nhiên phải trình UBTVQH
việc bỏ phiếu tín nhiệm. Ý kiến khác lại cho
rằng, việc hội đủ 20% chỉ được tính trong
một kỳ họp của Quốc hội và không phải cứ
hội đủ kiến nghị của 20% ĐBQH thì mặc
nhiên UBTVQH phải trình Quốc hội việc bỏ
phiếu tín nhiệm, mà còn phụ thuộc vào việc
xem xét của UBTVQH về vấn đề này. Đây
là vấn đề mà qua thực tế áp dụng pháp luật
đã gặp những vướng mắc nhất định. Tại một
số kỳ họp gần đây của Quốc hội, khi ĐBQH
sử dụng quyền kiến nghị bỏ phiếu tín nhiệm
thì lại gặp khó khăn về cơ chế thực hiện, gây
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 11(339) T6/2017
bức xúc không những đối với ĐBQH mà còn
với cả dư luận, cử tri. Do đó, ý kiến chung
cho rằng, cần khẩn trương nghiên cứu hoàn
thiện các quy định về bỏ phiếu tín nhiệm,
tạo điều kiện để ĐBQH thực hiện tốt quyền
năng này.
Một trong những nguyên nhân của
tình trạng trên là về mặt quan điểm cũng
như các quy định của pháp luật hiện hành
chưa xác định một cách đầy đủ, toàn diện
và phát huy đúng mức vai trò hoạt động của
ĐBQH trong hoạt động chung của Quốc
hội. Hoạt động của ĐBQH chủ yếu với tư
cách là thành viên trong các cơ cấu của
Quốc hội theo cơ chế làm việc tập thể, quyết
định theo đa số. Rất ít có hoạt động độc lập
với tư cách cá nhân của ĐBQH. Do đó trên
thực tế, trong hoạt động của Quốc hội, bao
gồm cả hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm đối
với những người do Quốc hội bầu hoặc phê
chuẩn, “dấu ấn cá nhân” của ĐBQH còn rất
mờ nhạt. Hiếm có cá nhân ĐBQH nào được
nhắc đến trong lịch sử nghị viện Việt Nam
như là một người có ảnh hưởng quan trọng
đến một chính sách, một đạo luật hay một
quyết định của Quốc hội. Theo chúng tôi,
với vai trò là người đại diện cho cử tri, là
“tế bào hạt nhân” của Quốc hội, hoạt động
của ĐBQH phải được xác lập đúng với tính
chất là một trong những trung tâm của hoạt
động Quốc hội. Theo đó, các quan điểm của
ĐBQH về mọi vấn đề, kể cả vấn đề bỏ phiếu
tín nhiệm phải là tiền đề, là khởi nguồn quan
trọng cho các hoạt động của Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội; chẳng hạn hoạt động
chất vấn của ĐBQH là tiền đề cho giám sát
tối cao của Quốc hội tại kỳ họp và có thể
dẫn đến hoạt động bỏ phiếu tín nhiệm. Các
hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội phải được thực hiện chủ yếu bởi
các ĐBQH. Quy trình hoạt động phải bảo
đảm phát huy dân chủ, tính chủ động, độc
lập trong hoạt động của ĐBQH.
Với cách đặt vấn đề này, chúng tôi
cho rằng, cần phải phát huy hơn nữa vai trò
của ĐBQH trong việc Quốc hội bỏ phiếu
tín nhiệm đối với những người do Quốc
hội bầu hoặc phê chuẩn, theo đó, cần quy
định rõ trong suốt nhiệm kỳ Quốc hội, khi
nhận đủ kiến nghị của 20% ĐBQH thì mặc
nhiên UBTVQH phải trình Quốc hội việc bỏ
phiếu tín nhiệm và trong quá trình chất vấn,
trả lời chất vấn, trên cơ sở ý kiến chất vấn
tại kỳ họp, Quốc hội có thể trực tiếp quyết
định việc bỏ phiếu tín nhiệm mà không cần
hội đủ kiến nghị của 20% ĐBQH hoặc việc
trình của UBTVQH. Đối với kiến nghị của
HĐDT, các Ủy ban của Quốc hội về việc bỏ
phiếu tín nhiệm thì cần có phương thức để
trong trường hợp cần thiết, các cơ quan này
có thể trình Quốc hội xem xét, quyết định
việc bỏ phiếu tín nhiệm.
đ) Giám sát việc ban hành VBQPPL
của các cơ quan nhà nước
- Hoạt động giám sát VBQPPL của
Quốc hội là hoạt động vừa thường xuyên,
vừa có thể là giám sát chuyên đề được thực
hiện chủ yếu thông qua công tác giám sát
việc chấp hành pháp luật, nhất là việc áp
dụng pháp luật của các cơ quan nhà nước
khi gặp vướng mắc trong thực tế hoặc có
phản ánh, khiếu nại của tổ chức, công dân;
góp phần kịp thời tháo gỡ những khó khăn,
hạn chế về cơ chế chính sách, pháp luật,
tạo điều kiện để các cơ quan áp dụng, thực
hiện thống nhất pháp luật. Tuy nhiên, đây là
phương thức giám sát mà trên cả hai phương
diện Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
chưa làm được nhiều. Một trong những
nguyên nhân của tình trạng này là các quy
định của pháp luật về cơ chế giám sát văn
bản còn chưa rõ, chưa cụ thể, nhất là trách
nhiệm của các cơ quan nhà nước ở trung
ương trong việc ban hành văn bản; trình tự,
thủ tục, quy trình, phương thức, cách thức
tiến hành giám sát văn bản
- Một vấn đề quan trọng cần được làm
rõ trong giám sát văn bản đó là phạm vi giám
sát, theo đó, hoạt động giám sát được tiến
hành ở cả giai đoạn trước khi ban hành văn
bản và sau khi ban hành văn bản hay chỉ khi
VBQPPL đã được ban hành và có hiệu lực.
Theo quy định và trên thực tế, Quốc hội, các
cơ quan của Quốc hội có thẩm quyền giám
sát văn bản ngay cả quá trình soạn thảo,
chuẩn bị như về trình tự, thủ tục ban hành,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 11(339) T6/2017
nguyên tắc biểu quyết, phạm vi thẩm quyền
(nhất là thẩm quyền về mặt nội dung) chẳng
hạn như văn bản hướng dẫn áp dụng thống
nhất pháp luật nhưng lại có các quy phạm
mang tính chất giải thích (thuộc thẩm quyền
của UBTVQH) hoặc việc hướng dẫn vượt
quá phạm vi luật giao, về hình thức văn
bản (văn bản cụ thể hóa hoặc hướng dẫn
áp dụng) lại được ban hành dưới hình thức
công văn, không tuân thủ hình thức do Luật
Ban hành VBQPPL quy định.
- Việc phát hiện các VBQPPL không
phù hợp hoặc trái với các quy định của Hiến
pháp, luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc
hội, UBTVQH có đặc thù là phải thông qua
quá trình giám sát việc áp dụng pháp luật của
các cơ quan nhà nước. Do đó, để tăng cường
và nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
giám sát việc ban hành VBQPPL, cần phải
tăng cường giám sát việc chấp hành, áp dụng
pháp luật của các cơ quan nhà nước làm cơ sở
cho việc giám sát VBQPPL của các cơ quan
này. Đồng thời cần quy định rõ hơn phạm
vi giám sát văn bản; trách nhiệm và chế tài
xử lý đối với các cơ quan ban hành văn bản;
cơ chế giám sát và xử lý khi áp dụng pháp
luật mà ý kiến của cơ quan có thẩm quyền
không thống nhất, quá khác nhau hoặc số
đông người dân khiếu nại gay gắt.
e) Giám sát việc giải quyết khiếu nại,
tố cáo; việc giải quyết các vụ việc cụ thể
- Hoạt động giám sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo là một phương diện hoạt
động quan trọng của Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH được
quán triệt thực hiện trong các nhiệm kỳ
Quốc hội vừa qua. Đây là phương thức giám
sát được quy định trong Luật Hoạt động
giám sát của Quốc hội và HĐND. Hoạt động
giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo là
một kênh quan trọng, vừa góp phần bảo đảm
thực hiện tốt quyền con người, quyền khiếu
nại, tố cáo của công dân, vừa là phương thức
để Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội phát
hiện những hạn chế trong hoạt động thực
tiễn để quyết định tiến hành giám sát chuyên
đề, giám sát các vụ việc cụ thể khi có khiếu
nại gay gắt, bức xúc, kéo dài hoặc giám sát
VBQPPL và nhất là có căn cứ cụ thể, xác
đáng để đánh giá chất lượng, việc tuân thủ
pháp luật và hiệu quả hoạt động của các cơ
quan nhà nước.
Thực tế cho thấy, với việc tăng cường
giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH
và Đoàn ĐBQH có tác động quan trọng thúc
đẩy các cơ quan nhà nước các cấp nâng cao
trách nhiệm trong việc giải quyết các công
việc thuộc trách nhiệm, thẩm quyền cũng
như xem xét giải quyết các khiếu nại, tố cáo
của công dân đối với hoạt động của các cơ
quan, công chức nhà nước; góp phần nâng
cao chất lượng hoạt động và việc chấp hành
pháp luật của các các cơ quan nhà nước,
giúp cho các cơ quan này kịp thời phát hiện
những sai sót, vi phạm để xem xét, kiến
nghị, kháng nghị, giải quyết, khắc phục.
Hoạt động giám sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội đối với hoạt động của các cơ quan
nhà nước còn góp phần thiết thực bảo vệ
pháp chế, bảo đảm chủ quyền nhân dân, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân
khi bị hành vi trái pháp luật trong hoạt động
của các cơ quan nhà nước gây nên; kịp thời
phát hiện để xử lý nghiêm minh đối với cán
bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan
nhà nước có phẩm chất đạo đức yếu kém, vi
phạm pháp luật hoặc tha hóa, biến chất, qua
đó tăng cường việc xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Giám sát của Quốc hội đối với việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan
tư pháp thể hiện mối quan hệ gắn bó giữa
Quốc hội - cơ quan đại diện cao nhất của
nhân dân - với cử tri, nhân dân, và là kênh
quan trọng để Quốc hội xem xét tính đúng
đắn, việc tuân thủ pháp luật trong hoạt động
tư pháp, cung cấp những thông tin cần thiết
để các ĐBQH tiến hành chất vấn đối với
những người do Quốc hội bầu, phê chuẩn;
Quốc hội xét báo cáo, ra Nghị quyết hoặc
các Ủy ban của Quốc hội chọn nội dung để
giám sát chuyên đề. Đồng thời, đây cũng là
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 11(339) T6/2017
phương diện giám sát quan trọng để kiểm
nghiệm tính khả thi, tính phù hợp với thực
tế, tính hiệu quả của các chính sách, pháp
luật mà Quốc hội đã ban hành làm cơ sở cho
việc tiếp tục hoàn thiện trong công tác hoạch
định chính sách, lập pháp.
Một trong những nguyên tắc của giám
sát việc giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo là
Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH
và Đoàn ĐBQH không làm thay các cơ quan
tư pháp trong việc giải quyết; không chỉ đạo,
can thiệp hoặc tác động vào quá trình giải
quyết mà chỉ nêu ra các căn cứ pháp luật để
xác định, chỉ ra đúng sai trong việc áp dụng
pháp luật, giải quyết của các cơ quan nhà
nước, qua đó làm rõ được trách nhiệm, hiệu
quả công tác, góp phần bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, tổ chức; đồng
thời là điều kiện để người dân có thể phản
ánh ý chí, nguyện vọng với cơ quan do mình
bầu ra, phản ánh về tính đúng đắn tuân thủ
pháp luật trong hoạt động của các cơ quan
nhà nước. Hoạt động giám sát việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo cần nâng cao hiệu lực, hiệu
quả theo hướng xây dựng tiêu chí cụ thể về
phân loại đơn, thư, tránh xử lý trùng lặp, tập
trung vào các vụ việc mà qua đơn thư và các
tài liệu kèm theo phát hiện những sai sót, vi
phạm pháp luật; có cơ chế để làm rõ trách
nhiệm của người bị khiếu nại, tố cáo. Theo
đó, phải tăng cường năng lực và trách nhiệm
của cán bộ làm công tác này.
- Hoạt động giám sát đối với việc giải
quyết vụ việc cụ thể trên thực tế cũng còn có
những quan điểm khác nhau. Sự khác nhau
về quan điểm cũng phản ánh đây là vấn đề
mới trong hoạt động của Quốc hội, các cơ
quan của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH
vì nó liên quan tới lý luận về các nguyên tắc
cơ bản của việc phân công thực hiện quyền
lực nhà nước.
Có quan điểm cho rằng, việc Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội, ĐBQH và
Đoàn ĐBQH giám sát việc giải quyết các
vụ việc cụ thể là làm thay chức năng của
các cơ quan hành pháp và tư pháp và cho
rằng, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội
là những cơ quan có chức năng quyết định,
hoạch định chính sách ở tầm vĩ mô nên việc
đi vào giám sát các vụ việc cụ thể là không
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, cũng như
cơ cấu tổ chức của các cơ quan này, hơn nữa
việc giám sát vụ việc có thể phải đi đến kết
luận đúng sai nên khó tránh khỏi việc xem
xét, đánh giá các nội dung, chứng cứ trong
vụ việc, trong khi đó, việc này lại thuộc chức
năng của các cơ quan hành pháp, tư pháp.
Theo chúng tôi, về vấn đề này, cần
trở lại lý luận cơ bản trong việc phân định
rạch ròi tính chất của các hoạt động giám
sát, kiểm tra, thanh tra, điều tra, giám đốc
xét xử, kiểm sát hoạt động tư pháp về mặt
chủ thể, phạm vi thẩm quyền, phương thức
thực hiện, trình tự thủ tục, thời hiệu, thời
hạn và nhất là hậu quả pháp lý của các hoạt
động này. Do đó, theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật thì Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội, ĐBQH và Đoàn ĐBQH hoàn
toàn có thẩm quyền và ngày nay lại càng
cần thiết phải tiến hành giám sát đối với
việc giải quyết các vụ việc cụ thể làm cơ sở,
minh chứng xác thực cho việc đánh giá chất
lượng, hiệu quả việc tuân thủ pháp luật trong
hoạt động của các cơ quan tư pháp. Thực tế
cho thấy, Quốc hội, các cơ quan của Quốc
hội không làm thay các cơ quan tư pháp
trong việc sửa chữa những sai sót, vi phạm
trong các bản án, quyết định, mà thông qua
hoạt động giám sát, Quốc hội, các cơ quan
của Quốc hội đưa ra những kết luận, kiến
nghị để các cơ quan tư pháp có thẩm quyền
xem xét, giải quyết theo đúng quy định của
Hiến pháp và pháp luật.
Trong phạm vi bài viết, chúng tôi
không có tham vọng nêu hết được tất cả các
vấn đề về nâng cao hiệu lực, hiệu quả giám
sát của Quốc hội, mà qua nghiên cứu và hoạt
động thực tiễn, xin nêu một số suy nghĩ, hi
vọng góp phần hữu ích vào việc tiếp tục đổi
mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động
giám sát của Quốc hội trong thời gian tới,
nhất là trong việc triển khai thi hành Hiến
pháp năm 2013
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 11(339) T6/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nang_cao_hieu_qua_hieu_luc_hoat_dong_giam_sat_cua_quoc_hoi_v.pdf