Thứ nhất, thiếu quy định về căn cứ để
xác định hành vi cố ý cung cấp thông tin sai
sự thật.
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điều 19 Luật KDBH, nếu một trong hai bên
cố ý cung cấp thông tin sai sự thật, thì bên
còn lại có quyền đơn phương đình chỉ thực
hiện hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật về
KDBH hiện hành không xác định rõ căn cứ
để xác định hành vi cố ý cung cấp thông tin
sai sự thật. Đối với DNBH, hành vi này rất
dễ xác định vì DNBH là bên soạn thảo Bộ
quy tắc và điều khoản của hợp đồng BHNT
và nghĩa vụ cung cấp thông tin của họ chỉ
dừng lại ở việc giải thích về hợp đồng và sản
phẩm BHNT. Trong khi đó, nghĩa vụ cung
cấp thông tin của BMBH diễn ra trong thời
gian dài, suốt quá trình thực hiện bảo hiểm
với nhiều thông tin cần phải thông báo khi
có thay đổi. Trong suốt quá trình đó, NMBH
có thể vô ý không kịp thời cung cấp hoặc có
sai sót trong cung cấp thông tin cho DNBH.
Đây có thể là căn cứ đề DNBH đơn phương
chấm dứt HĐBH với NMBH, bởi lẽ pháp
luật về KDBH hiện hành không quy định cụ
thể căn cứ để xác định hành vi cố ý. Điều
này là không công bằng đối với BMBH (bên
yếu thế), Vì vậy, để bảo đảm quyền lợi của
NMBH, tác giả cho rằng, cần bổ sung quy
đinh về căn cứ xác định hành vi cố ý cung
cấp thông tin sai sự thật.
Thứ hai, chưa quy định rõ cách tính“giá
trị hoàn lại”.
Khi BMBH vi phạm nghĩa vụ cung cấp
thông tin thì DNBH sẽ đưa ra quyết định đơn
phương đình chỉ hợp đồng và hoàn trả lại
cho BMBH một số tiền bằng với giá trị hoàn
lại. Tuy nhiên, Luật KDBH cũng như các
văn bản dưới luật không quy định thế nào là
giá trị hoàn lại. Trên thực tế, giá trị hoàn lại
của HĐBHNT được xác định trên cơ sở quy
định của Bộ quy tắc và điều khoản do
DNBH ban hành. Điều này gây bất lợi cho
NMBH. Ví dụ, sau khi đơn phương đề nghị
chấm dứt HĐBH, chị H (Nha Trang) chỉ
nhận được số tiền hoàn lại là 1,3 triệu trong
tổng số phí 3,5 triệu đồng đã đóng trong 21
tháng. Điều này cho thấy, giá trị hoàn lại của
HĐBH ít hơn nhiều so với số tiền phí bảo
hiểm mà BMBH đã đóng. Vì vậy, đề bảo
đảm quyền lợi của NMBH, bảo đảm sự công
bằng giữa các bên trong KDBH, chúng tôi
cho rằng, cần quy định rõ cách tính “giá trị
hoàn lại” tại Điều 3 Luật KDBH n
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 403 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Số 5(405) - T3/202044 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
1. Quy định của pháp luật về nghĩa vụ
cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm
khi giao kết hợp đồng
Trong giai đoạn giao kết hợp đồng bảo
hiểm nhân thọ (HĐBHNT), bên mua bảo
hiểm (BMBH) sẽ phải cung cấp khá nhiều
thông tin về nhân thân như tuổi tác, tình
trạng sức khoẻ, điều kiện tài chính, gia
đình... cho doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH).
Bên cạnh đó, các thông tin mà BMBH sẽ ảnh
nghĨa vỤ cung cẤp Thông Tin của BÊn mua BảO hiỂm
TRONG HỢP ĐỒNG BẢO HIỂM NHÂN THỌ
Nguyễn Thị Thủy*
Lê Thủy Tiên**
* PGS.TS. Giảng viên cao cấp, Trường Đại học Luật Tp. HCM.
** Công ty Luật Lexcomm Vietnam - LLC.
Thông tin bài viết:
Từ khoá: Cung cấp thông tin, đối tượng
bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, hợp đồng
bảo hiểm nhân thọ.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 28/02/2020
Biên tập : 02/03/2020
Duyệt bài : 05/03/2020
Article Infomation:
Keywords: Information provision,
insurance subjects, insurance buyers, life
insurance contracts.
Article History:
Received : 28 Feb. 2020
Edited : 02 Mar. 2020
Approved : 05 Mar. 2020
Tóm tắt:
Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ là hợp đồng chứa đựng nhiều điều
khoản khó hiểu do có nhiều thuật ngữ chuyên môn; đối tượng
bảo hiểm là rủi ro, là yếu tố trừu tượng; sản phẩm bảo hiểm
được thiết kế bằng câu chữ (quy tắc, điều khoản bảo hiểm). Để
giúp cho bên mua bảo hiểm hiểu được nghĩa vụ cung cấp thông
tin khi tham gia hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, tránh tranh chấp
và tránh việc người mua bảo hiểm phải gánh chịu những hậu
quả pháp lý bất lợi do thiếu am hiểu về hợp đồng bảo hiểm nhân
thọ, bài viết này phân tích các quy định của pháp luật về nghĩa
vụ cung cấp thông tin của người mua bảo hiểm và đưa ra một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về nội
dung này.
Abstract:
Life insurance contract is a contract consisting of several
confusing terms because of a series of specialized terminologies;
the insurance subject is the risk - an abstract one; the insurance
products are designed in words and texts (rules, insurance
terms). This article provides analysis of the legal provisions on
the buyer’s obligations to provide information of insurance to
help the buyers understanding the obligations when entering in
a life insurance contract, avoiding unexpected disputes and the
losses of the legal consequences by misunderstandings of the
life insurance contract. It also provides a number of
recommendations for further improvements of the legal
provisions on the mentioned sector.
45Số 5(405) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
hưởng đến quyết định chấp nhận yêu cầu
tham gia bảo hiểm của BMBH và định giá
phí bảo hiểm của DNBH cũng như các quyết
định về sau này của DNBH khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm.
Điểm b khoản 2 Điều 18 Luật Kinh
doanh bảo hiểm năm 2000, đã được sửa đổi,
bổ sung năm 2010 (Luật KDBH) quy định,
BMBH có nghĩa vụ “kê khai đầy đủ, trung
thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng
bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp
bảo hiểm”; khoản 1 Điều 19 Luật KDBH
quy định: “Khi giao kết hợp đồng bảo hiểm,
BMBH có trách nhiệm cung cấp đầy đủ
thông tin liên quan đến đối tượng bảo hiểm
cho doanh nghiệp bảo hiểm. Các bên chịu
trách nhiệm về tính chính xác, trung thực
của thông tin đó”. Qua những quy định này
cho thấy, nghĩa vụ cung cấp thông tin của
BMBH là nghĩa vụ bắt buộc.
Khác với các loại hợp đồng khác, đối
tượng của HĐBHNT là tính mạng, tuổi thọ
của con người – là những thứ vô hình, không
thể định lượng bằng mắt thường hay những
phương pháp định giá thông thường. Bản
chất của BHNT là sự để dành quyền lợi tài
chính của người mua bảo hiểm bằng việc
chuyển giao những rủi ro liên quan đến tính
mạng, tuổi thọ của người được bảo hiểm
sang DNBH. Những rủi ro này là những rủi
ro sẽ hình thành trong tương lai, chưa tồn tại
tại thời điểm giao kết hợp đồng. Do đó,
những thông tin mà BMBH cung cấp sẽ giúp
cho DNBH xác định được phạm vi trách
nhiệm của DNBH đối với BMBH và vì vậy,
những thông tin này đòi hỏi phải mang tính
trung thực và đầy đủ. Dựa vào những thông
tin mà BMBH cung cấp, DNBH sẽ dự đoán
rủi ro, từ đó quyết định có chấp nhận hay
không chấp nhận bảo hiểm.
Ngoài ra, nghĩa vụ cung cấp thông tin
của BMBH còn được quy định tại Bộ quy
tắc điều khoản bảo hiểm nhân thọ mẫu
20091.
Hiện nay, đa số công ty bảo hiểm nhân
thọ (BHNT) sử dụng hình thức cung cấp
thông tin thông qua bảng câu hỏi. Khi
BMBH nộp hồ sơ tham gia hợp đồng BHNT,
đại diện DNBH hay đại lý bảo hiểm sẽ yêu
cầu BMBH và người được bảo hiểm
(NĐBH) trả lời trung thực các thông tin liên
quan vào tờ khai thông tin cá nhân. Trong
đó, đa số các câu hỏi sẽ được trả lời dưới
dạng “có/không”; nếu câu trả lời là có thì
người cung cấp thông tin được yêu cầu mô
tả chi tiết về thông tin đó. Các thông tin
trong câu hỏi sẽ bao gồm những thông tin
như tuổi, nghề nghiệp, địa chỉ, thu nhập cá
nhân, tình trạng sức khoẻ của bản thân và
tình trạng sức khoẻ của những người thân
trong gia đình của NĐBH.
Thông tin mà DNBH yêu cầu BMBH và
NĐBH cung cấp có thể chia làm ba nhóm
chính sau: thông tin về nhân thân; thông tin
về sức khoẻ; các thông tin liên quan khác.
Trong đó, thông tin về sức khoẻ là nhóm
thông tin mà BMBH có khả năng sai sót cao
nhất và cũng là nhóm thông tin thường xuyên
được các DNBH sử dụng làm lý do từ chối
thanh toán quyền lợi bảo hiểm cho BMBH.
Bên cạnh đó, hầu hết các thông tin mà
BMBH và NĐBH cung cấp cho DNBH đều
là các thông tin cá nhân của NĐBH. Vì vậy,
DNBH có nghĩa vụ phải bảo mật các thông
tin của BMBH; không được tiết lộ các thông
tin cho bên thứ ba trừ khi có sự chấp thuận
1 Xem TS. Nguyễn Thị Thủy (2017), “Pháp luật hợp đồng bảo hiểm con người”, sách chuyên khảo, Nxb.
Hồng Đức, tr.36-37.
2 Xem Mục 6 Bộ quy tắc điều khoản bảo hiểm nhân thọ mẫu năm 2009.
Số 5(405) - T3/202046 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
bằng văn bản của BMBH (trừ các trường
hợp các thông tin được đưa cho bên thứ ba
nhằm thẩm định, kiểm tra). Nếu BMBH phát
hiện về sự vi phạm của DNBH, BMBH có
quyền khởi kiện DNBH theo quy định của
pháp luật.
Quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung
cấp thông tin của bên mua bảo hiểm trong
quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm
Sau khi DNBH và BMBH ký kết hợp
đồng BHNT thì cả hai bên chủ thể sẽ thực
hiện hợp đồng. Hợp đồng BHNT là hợp
đồng theo mẫu, BMBH không được thay đổi
các thông tin trong bộ quy tắc và điều khoản.
Tuy nhiên, đối với các thông tin mà BMBH
đã cung cấp thì BMBH vẫn có quyền thay
đổi trong thời gian thực hiện hợp đồng nếu
cảm thấy các thông tin đó đã không còn phù
hợp. Điều này cho thấy nghĩa vụ cung cấp
thông tin của BMBH vẫn còn tiếp tục trong
quá trình thực hiện hợp đồng BHNT.
Luật KDBH cho phép BMBH thay đổi
các thông tin mà mình đã cung cấp trong hợp
đồng tại quá trình giao kết hợp đồng. Ngoài
ra, đối với các trường hợp mà sự thay đổi của
NĐBH ảnh hưởng đến mức độ rủi ro được
bảo hiểm thì BMBH và NĐBH có nghĩa vụ
phải thông báo sự thay đổi cho DNBH để
đưa ra phương án phù hợp cho HĐBHNT
của người đó. Điều 22 Luật Luật KDBH
quy định:
“1. Khi có sự thay đổi những yếu tố làm
cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến giảm
các rủi ro được bảo hiểm thì bên mua bảo
hiểm có quyền yêu cầu doanh nghiệp bảo
hiểm giảm phí bảo hiểm cho thời gian còn
lại của hợp đồng bảo hiểm. Trong trường
hợp doanh nghiệp bảo hiểm không chấp
nhận giảm phí bảo hiểm thì bên mua bảo
hiểm có quyền đơn phương đình chỉ thực
hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải thông
báo ngay bằng văn bản cho doanh nghiệp
bảo hiểm.
2. Khi có sự thay đổi những yếu tố làm
cơ sở để tính phí bảo hiểm, dẫn đến tăng các
rủi ro được bảo hiểm thì doanh nghiệp bảo
hiểm có quyền tính lại phí bảo hiểm cho thời
gian còn lại của hợp đồng bảo hiểm. Trong
trường hợp bên mua bảo hiểm không chấp
nhận tăng phí bảo hiểm thì doanh nghiệp
bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ
thực hiện hợp đồng bảo hiểm, nhưng phải
thông báo ngay bằng văn bản cho bên mua
bảo hiểm”.
Như vậy, có thể thấy rằng, BMBH có
nghĩa vụ cung cấp các thay đổi về thông tin
của những yếu tố làm cơ sở tính phí bảo
hiểm. Tuy nhiên, pháp luật về kinh doanh
bảo hiểm hiện nay chưa quy định cụ thể về
những yếu tố làm cơ sở để tính phí bảo hiểm.
Vì vậy, DNBH đã đưa các yêu cầu đối với
những thay đổi trong hợp đồng BHNT vào
Bộ quy tắc và điều khoản của DNBH. Ví dụ,
Điều 8 của Bộ quy tắc và điều khoản bảo
hiểm nhân thọ mẫu 2009 quy định về những
thay đổi trong hợp đồng BHNT như sau:
“8.1 Thay đổi người thụ hưởng
Trong thời gian hợp đồng bảo hiểm có
hiệu lực và người được bảo hiểm còn sống,
bên mua bảo hiểm có thể chỉ định hoặc yêu
cầu thay đổi người thụ hưởng của hợp đồng
bảo hiểm bằng cách thông báo bằng văn bản
đến doanh nghiệp bảo hiểm. Việc chỉ định
hoặc thay đổi này chỉ có hiệu lực khi doanh
nghiệp bảo hiểm có văn bản chấp thuận
hoặc xác nhận việc thay đổi đó.
8.2 Các nội dung thay đổi khác
Doanh nghiệp bảo hiểm quy định cụ thể
về việc thay đổi địa chỉ của doanh nghiệp
bảo hiểm, bên mua bảo hiểm, định kỳ đóng
phí, số tiền bảo hiểm (tăng giảm số tiền bảo
hiểm) và các nội dung thay đổi khác của hợp
đồng bảo hiểm, điều khoản về chuyển
nhượng hợp đồng bảo hiểm, điều khoản về
bên mua bảo hiểm dự phòng”.
47Số 5(405) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
Mặc dù, mỗi DNBH có quy định riêng
về điều kiện thay đổi trong HĐBH, nhưng
nhìn chung, những thay đổi sau đây thường
được chấp nhận:
Thứ nhất, thay đổi số tiền bảo hiểm:
DNBH cho phép BMBH được thay đổi số
tiền bảo hiểm sau khi đã ký kết hợp đồng. Vì
vậy, căn cứ vào khả năng tài chính của cá
nhân, BMBH có thể yêu cầu thay đổi số tiền
bảo hiểm cao hơn hoặc thấp hơn mức bảo
hiểm đã đóng. Tuy nhiên, đối với yêu cầu
tăng số tiền bảo hiểm, DNBH sẽ thẩm định
lại hồ sơ của BMBH và dự đoán lại các rủi
ro có thể xảy ra trong tương lai đối với người
đóng bảo hiểm (NĐBH).
Thứ hai, thay đổi tuổi của NĐBH: Theo
quy định của Điều 6 Thông tư liên tịch số
01/2011/TTLT-VKSTC-TANDTC-BCA-
BTP-BLĐTBXH, nếu một người không biết
được ngày tháng sinh chính xác của mình
mà chỉ biết năm sinh thì tuổi của họ sẽ được
tính vào ngày 1 tháng 1 của năm đó. Tuy
nhiên, nếu người đó tìm được các giấy tờ
chứng minh được ngày tháng năm sinh của
người đó thì họ phải cập nhật lại trong
HĐBHNT. Vì vậy, trường hợp tuổi của
NĐBH thay đổi so với tuổi khai tại thời điểm
giao kết hợp đồng, BMBH có nghĩa vụ cung
cấp thông tin về sự thay đổi đó.
Thứ ba, thay đổi nơi cư trú của NĐBH:
Nếu NĐBH thay đổi nơi cư trú hoặc không
còn cư trú tại Việt Nam thì BMBH hoặc
NĐBH có nghĩa vụ thông báo về sự thay đổi
này cho DNBH. Trong trường hợp này,
DNBH có thể đưa ra các quyết định sau: tiếp
tục duy trì hợp đồng bảo hiểm và giữ nguyên
mức phí bảo hiểm như cũ, hoặc tiếp tục duy
trì hợp đồng với mức phí bảo hiểm tăng
tương ứng với rủi ro phát sinh hoặc chấm dứt
hợp đồng bảo hiểm và trả lại giá trị hoàn lại
sau khi trừ các chi phí liên quan.
Thứ tư, thay đổi nghề nghiệp của
NĐBH: NĐBH có nghĩa vụ thông báo về sự
thay đổi này để DNBH có thể đưa ra được
quyết định phù hợp với sự thay đổi của
NĐBH.
Thứ năm, thay đổi giới tính: Bộ luật Dân
sự năm 2015 đã cho phép người chuyển giới
được chuyển đổi giới tính và có quyền nhân
thân phù hợp với giới tính đã được chuyển
đổi3. Đối với việc một người thay đổi giới
tính so với giới tính lúc tham gia ký kết hợp
đồng thì người đó có nghĩa vụ phải thông
báo cho DNBH biết để DNBH tiến hành xác
định lại các rủi ro vì cùng một độ tuổi thì rủi
ro giữa người nam và người nữ sẽ khác
nhau. Vì vậy, việc thông báo về thay đổi giới
tính của NĐBH rất quan trọng đối với
DNBH trong việc thẩm định lại hồ sơ và dự
đoán các rủi ro sẽ hình thành đối với NĐBH.
Thứ sáu, thay đổi các thói quen sinh
hoạt của NĐBH: Việc thay đổi các thói quen
sinh hoạt như uống rượu, bia, hút thuốc lá
hay tham gia những môn thể thao mạo hiểm
như leo núi, nhảy dù sẽ làm giảm sức khoẻ
của NĐBH và đồng thời làm gia tăng rủi ro
đối với NĐBH. Chính vì lẽ đó, khi có những
thay đổi này, NĐBH cần thông báo kịp thời
để DNBH tiến hành đánh giá lại rủi ro và có
thể tiếp tục bảo hiểm với các điều kiện
không đổi hoặc tăng phí bảo hiểm rủi ro
hoặc chấm dứt hợp đồng.
Thứ bảy, thay đổi về bệnh lý: Sinh lão
bệnh tử là điều mà con người không thể
tránh khỏi, việc NĐBH sau khi tham gia bảo
hiểm mới mắc bệnh cần điều trị là điều có
thể xảy ra. Vì vậy, nhằm tránh việc vi phạm
nghĩa vụ cung cấp thông tin thì BMBH cần
3 Xem Điều 37 BLDS 2015.
Số 5(405) - T3/202048 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
thông báo về tình trạng thay đổi bệnh lý của
NĐBH cho DNBH. Ngoài ra, việc thay đổi
tình trạng sức khoẻ của NĐBH còn có thể
ảnh hưởng đến phí bảo hiểm của hợp đồng
BHNT nên BMBH cần thông bào kịp thời
để DNBH có thể đưa ra quyết định về phí
bảo hiểm.
Quy định của pháp luật về nghĩa vụ
cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm
khi sự kiện bảo hiểm xảy ra
Sau khi giao kết hợp đồng, BMBH sẽ
thực hiện nghĩa vụ của mình là đóng phí bảo
hiểm để duy trì hợp đồng BHNT. Khi sự
kiện bảo hiểm xảy ra, BMBH sẽ tiến hành
thông báo cho NĐBH để DNBH thực hiện
nghĩa vụ chi trả số tiền bảo hiểm đối với các
rủi ro mà BMBH phải gánh chịu. Tuy nhiên,
nghĩa vụ cung cấp thông tin của BMBH
không chỉ dừng lại ở giai đoạn thông báo cho
DNBH mà BMBH còn phải thực hiện cung
cấp các thông tin và giấy tờ liên quan theo
yêu cầu của DNBH.
Hiện nay, Luật Kinh doanh bảo hiểm
cũng như các văn bản pháp luật liên quan
không quy định về các thông tin hay những
loại giấy tờ nào mà BMBH cần phải cung
cấp cho DNBH khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Tuy nhiên, BHNT là một lĩnh vực đặc thù
nên các thông tin mà các công ty BHNT yêu
cầu khách hàng cung cấp khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm là tương đối giống nhau. Ví dụ,
trường hợp NĐBH gặp tai nạn, DNBH sẽ
yêu cầu BMBH cung cấp các chứng từ: biên
bản vụ việc do công an lập, giấy nhập viện
(nếu có) và các hoá đơn nằm viện. Trong
trường hợp NĐBH tử vong, BMBH cần
cung cấp trích lục khai tử, các chứng từ y tế,
biên bản sự việc dẫn đến tử vong, hộ khẩu
đã cắt của NĐBH. Bên cạnh đó, đối với các
trường hợp nằm viện, DNBH sẽ yêu cầu
BMBH cung cấp các hoá đơn, chứng từ y tế
nhằm làm cơ sở tính số tiền bảo hiểm mà
DNBH sẽ bồi thường cho BMBH.
Để tránh tình trạng khách hàng trục lợi
bảo hiểm nên khi BMBH thông báo cho
DNBH về sự kiện bảo hiểm để yêu cầu được
thanh toán quyền lợi bảo hiểm, DNBH sẽ
yêu cầu BMBH cung cấp các chứng từ. Các
chứng từ do BMBH cung cấp giúp cho
DNBH có thể thẩm định hồ sơ và đưa ra
quyết định chi trả bảo hiểm dễ dàng hơn.
Bên cạnh các chứng từ do BMBH cung cấp,
DNBH phải tự mình tiến hành xác minh lại
các thông tin được cung cấp, tìm hiểu về
nguyên nhân xảy ra sự kiện bảo hiểm, các
thông tin liên quan đến sự kiện bảo hiểm và
cá thông tin liên quan đến NĐBH, cụ thể
như sau:
Thứ nhất, đối với trường hợp NĐBH
gặp tai nạn, DNBH sẽ yêu cầu cung cấp các
chứng từ liên quan như: biên bản sự việc do
Công an lập, các chứng từ y tế liên quan đến
việc nhập viện điều trị, hoá đơn y tế và các
giấy tờ nhân thân như chứng minh nhân dân
và hộ khẩu thường trú.
Thứ hai, đối với trường hợp BMBH
nhập viện vì vấn đề sức khoẻ, DNBH sẽ yêu
cầu BMBH cung cấp trích lục bệnh án, giấy
ra viện, các kết quả xét nghiệm y tế, đơn
thuốc của bác sĩ và các hoá đơn y tế.
Thứ ba, đối với trường hợp NĐBH tử
vong, DNBH sẽ yêu cầu BMBH cung cấp
thông tin cũng như giấy tờ liên quan đến sự
kiện NĐBH tử vong. Trích lục khai tử được
cung cấp nhằm giúp cho DNBH xác định
người tử vong chính xác là NĐBH và
nguyên nhân tử vong của NĐBH. Nếu
nguyên nhân tử vong của NĐBH là do tai
nạn thì DNBH sẽ yêu cầu biên bản sự việc
do cơ quan có thẩm quyền lập để kiểm tra
nguyên nhân xảy ra sự kiện bảo hiểm. Nếu
nguyên nhân tử vong của NĐBH là do bệnh
lý, các giấy tờ mà BMBH được yêu cầu cung
cấp bao gồm: hồ sơ bệnh án, giấy nhập viện,
các kết qủa xét nghiệm liên quan. Việc cung
cấp các loại giấy tờ này không chỉ giúp cho
49Số 5(405) - T3/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
DNBH xác định được nguyên nhân tử vong
của NĐBH mà còn giúp cho DNBH kiểm tra
được NĐBH có tồn tại bệnh từ trước khi
tham gia BHNT hay không. Nếu NĐBH có
tồn tại bệnh từ trước thì BMBH đã vi phạm
nghĩa vụ cung cấp thông tin và DNBH có thể
từ chối thanh toán quyền lợi bảo hiểm đối
với trường hợp này. Ngoài ra, thông thường
DNBH sẽ từ chối chi trả bảo hiểm cho các
trường hợp NĐBH dương tính với
HIV/AIDS nên các thông tin này còn giúp
cho DNBH xác minh được nguyên nhân tử
vong của NĐBH có phải do HIV hay không.
4. Bất cập và kiến nghị
Những phân tích trên đây cho thấy pháp
luật về KDBH quy định khá cụ thể về nghĩa
vụ cung cấp thông tin của BMBH trong từng
giai đoạn cũng như hậu quả pháp lý nếu vi
phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin. Bên cạnh
đó, các quy định của pháp luật KDBH về
nghĩa vụ cung cấp thông tin của NMBH còn
một số hạn chế, bất cập sau đây:
Thứ nhất, thiếu quy định về căn cứ để
xác định hành vi cố ý cung cấp thông tin sai
sự thật.
Theo quy định tại khoản 1 và khoản 2
Điều 19 Luật KDBH, nếu một trong hai bên
cố ý cung cấp thông tin sai sự thật, thì bên
còn lại có quyền đơn phương đình chỉ thực
hiện hợp đồng. Tuy nhiên, pháp luật về
KDBH hiện hành không xác định rõ căn cứ
để xác định hành vi cố ý cung cấp thông tin
sai sự thật. Đối với DNBH, hành vi này rất
dễ xác định vì DNBH là bên soạn thảo Bộ
quy tắc và điều khoản của hợp đồng BHNT
và nghĩa vụ cung cấp thông tin của họ chỉ
dừng lại ở việc giải thích về hợp đồng và sản
phẩm BHNT. Trong khi đó, nghĩa vụ cung
cấp thông tin của BMBH diễn ra trong thời
gian dài, suốt quá trình thực hiện bảo hiểm
với nhiều thông tin cần phải thông báo khi
có thay đổi. Trong suốt quá trình đó, NMBH
có thể vô ý không kịp thời cung cấp hoặc có
sai sót trong cung cấp thông tin cho DNBH.
Đây có thể là căn cứ đề DNBH đơn phương
chấm dứt HĐBH với NMBH, bởi lẽ pháp
luật về KDBH hiện hành không quy định cụ
thể căn cứ để xác định hành vi cố ý. Điều
này là không công bằng đối với BMBH (bên
yếu thế), Vì vậy, để bảo đảm quyền lợi của
NMBH, tác giả cho rằng, cần bổ sung quy
đinh về căn cứ xác định hành vi cố ý cung
cấp thông tin sai sự thật.
Thứ hai, chưa quy định rõ cách tính“giá
trị hoàn lại”.
Khi BMBH vi phạm nghĩa vụ cung cấp
thông tin thì DNBH sẽ đưa ra quyết định đơn
phương đình chỉ hợp đồng và hoàn trả lại
cho BMBH một số tiền bằng với giá trị hoàn
lại. Tuy nhiên, Luật KDBH cũng như các
văn bản dưới luật không quy định thế nào là
giá trị hoàn lại. Trên thực tế, giá trị hoàn lại
của HĐBHNT được xác định trên cơ sở quy
định của Bộ quy tắc và điều khoản do
DNBH ban hành. Điều này gây bất lợi cho
NMBH. Ví dụ, sau khi đơn phương đề nghị
chấm dứt HĐBH, chị H (Nha Trang) chỉ
nhận được số tiền hoàn lại là 1,3 triệu trong
tổng số phí 3,5 triệu đồng đã đóng trong 21
tháng. Điều này cho thấy, giá trị hoàn lại của
HĐBH ít hơn nhiều so với số tiền phí bảo
hiểm mà BMBH đã đóng. Vì vậy, đề bảo
đảm quyền lợi của NMBH, bảo đảm sự công
bằng giữa các bên trong KDBH, chúng tôi
cho rằng, cần quy định rõ cách tính “giá trị
hoàn lại” tại Điều 3 Luật KDBH n
4 ThS. Trần Vũ Hải (2006), Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ- Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb.Tư pháp,
Hà Nội, tr.85.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghia_vu_cung_cap_thong_tin_cua_ben_mua_bao_hiem_trong_hop_d.pdf