Bàn luận
Hấp thu thuốc từ dạng thuốc dùng ngoài liên
quan tới hai quá trình: Quá trình giải phóng
dược chất ra khỏi tá dược và hấp thu dược
chất qua da. Muốn tăng sinh khả dụng của
dạng thuốc dùng ngoài phải tìm các biện pháp
để cải thiện hai quá trình này. Với lornoxicam,
một hoạt chất có tác dụng giảm đau, chống
viêm mạnh, nhưng có độ tan trong nước kém,
nhóm tác giả quan tâm đến các biện pháp làm
tăng giải phóng và hấp thu thuốc nhằm xây
dựng công thức có hiệu quả điều trị cao.
Al-Suwayeh S. A., Taha E. I. [3] đã xây dựng
công thức gel LNX với tá dược Carbopol 934,
sử dụng chất tăng thấm là Tween 80, acid
oleic và HP-β-cyclodextrin, kết quả cho thấy
HP-β-cyclodextrin là chất tăng thấm tốt nhất.
Trong nghiên cứu hiện tại, gel LNX có thành
phần chính gồm LNX, với tá dược Carbopol
934P, sử dụng chất tăng thấm là acid oleic,
DMSO và l-menthol. Kết quả nghiên cứu cho
thấy Carbopol 934P là chất mang phù hợp
cho gel LNX dùng qua da. Trong 3 chất tăng
thấm đã sử dụng, DMSO làm tăng khả năng
giải phóng dược chất tốt nhất. Gel trong, dễ
bào chế, hàm lượng dược chất nằm trong giới
hạn quy định, điều đó có thể do DMSO là các
dung môi phân cực mạnh, có khả năng hoà
tan dược chất tốt nhất, làm tăng khả năng
thấm qua da của dược chất nên làm tăng tác
dụng của thuốc. Ngoài ra, dung môi này còn
có tác dụng dược lý: chống viêm, giảm đau
tại chỗ, kháng khuẩn yếu, giãn mạch Đặc
biệt, khi sử dụng phối hợp DMSO với
propylen glycol cho thấy lượng thuốc hấp thu
qua da cao hơn hẳn so với dùng riêng lẻ từng
dung môi. Kết quả này cũng phù hợp với
nghiên cứu của Ranade S. Y. và cộng sự [4]
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 16 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu bào chế gel dùng qua da chứa Lornoxicam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TNU Journal of Science and Technology 225(08): 155 - 160
Email: jst@tnu.edu.vn 155
NGHIÊN CỨU BÀO CHẾ GEL DÙNG QUA DA CHỨA LORNOXICAM
Đồng Thị Hoàng Yến*, Phạm Thị Thanh Tâm, Lâm Thị Thu Hương
Trường Đại học Y Dược – ĐH Thái Nguyên
TÓM TẮT
Nghiên cứu bào chế gel lornoxicam với mục tiêu tăng khả năng thấm qua da, nhằm tăng tác dụng
giảm đau, chống viêm và đánh giá ảnh hưởng của các chất làm tăng tính thấm đến khả năng giải
phóng lornoxicam qua màng. Nghiên cứu đã đánh giá ảnh hưởng của acid oleic, dimethyl sulfoxid,
l- menthol đến đặc tính vật lý của gel và khả năng làm tăng tính thấm của gel lornoxicam. Kết quả
đánh giá giải phóng dược chất qua màng cho thấy gel lornoxicam sử dụng chất tăng thấm dimethyl
sulfoxid có khả năng giải phóng qua màng cao hơn và nhanh hơn so với gel sử dụng chất tăng
thấm là acid oleic và l- menthol. Dimethyl sulfoxid cho thấy khả năng vượt trội làm tăng khả năng
thấm lornoxicam qua màng. Kết quả nghiên cứu cho thấy công thức gel lornoxicam 0,5% sử dụng
propylen glycol và polyethylen glycol là dung môi, Carbopol 934P làm tá dược tạo gel, dimethyl
sulfoxid làm chất tăng thấm có khả năng cải thiện khả năng thấm dược chất qua màng tốt nhất.
Từ khóa: Gel dùng qua da; lornoxicam, Carbopol; propylen glycol; tăng tính thấm qua da
Ngày nhận bài: 03/01/2020; Ngày hoàn thiện: 09/6/2020; Ngày đăng: 11/6/2020
FORMULATION OF TOPICAL GEL CONTAINING LORNOXICAM
Dong Thi Hoang Yen*, Pham Thi Thanh Tam, Lam Thi Thu Huong
TNU - University of Medicine and Pharmacy
ABSTRACT
The objectives of this study were to prepare topical gel containing lornoxicam for improved skin
penetration of lornoxicam (LNX) for enhancement of its analgesic, anti-inflammation activity and
to evaluate the impacts of different penetration enhancers on the in vitro diffusion of lornoxicam.
The effect of addition of oleic acid, dimethyl sulfoxid (DMSO), l-menthol on physical properties
of the gel and drug permeation was studied. The in-vitro diffusion studies showed a higher and
faster release of lornoxicam from the gel containing DMSO than that from the gel containing oleic
acid and l-menthol. DMSO exhibited enhanced permeation of lornoxicam from gel formulation.
This work shows that lornoxicam can be formulated into Carbopol gel in presence of propylen
glycol and polyethylen glycol as solvent, Carbopol as polymer and DMSO may be promising in
enhancing permeation.
Keywords: Topical gel; Lornoxicam; Carbopol; Propylen glycol; Skin permeation enhancer.
Received: 03/01/2020; Revised: 09/6/2020; Published: 11/6/2020
* Corresponding author. Email: yenbaoche@gmail.com
Đồng Thị Hoàng Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 155 - 160
Email: jst@tnu.edu.vn 156
1. Đặt vấn đề
Viêm khớp, viêm da và mô mềm, là những
bệnh rất thường gặp trong mô hình bệnh lý tại
cộng đồng, phản ứng viêm luôn đi kèm với
triệu chứng đau. Để giảm đau chống viêm
hiệu quả, phác đồ điều trị thường bao gồm cả
thuốc uống kết hợp thuốc bôi ngoài da.
Lornoxicam (LNX) là một dược chất thuộc
nhóm NSAID phân lớp Oxicam có hoạt tính
giảm đau, chống viêm. Hiệu lực giảm đau và
chống viêm của LNX mạnh gấp 10 lần so với
tenoxicam, liều điều trị chỉ bằng 1/6 so với
các thuốc thế hệ trước, do đó giảm được
nhiều tác dụng không mong muốn [1].
Lornoxicam dễ dàng thâm nhập vào các tổ chức
bao khớp, đặc biệt là hoạt dịch khớp, vì vậy,
thường được dùng trong điều trị viêm khớp,
viêm xương khớp mạn tính, đau thần kinh tọa
cấp tính, đau lưng... Lornoxicam đã được
dùng phổ biến ở các nước Châu Âu, tuy
nhiên, dược chất này mới bắt đầu được
nghiên cứu và sản xuất tại Việt Nam dưới
dạng viên nén. Hiện nay, ở nước ta chưa có
đề tài nào nghiên cứu bào chế gel lornoxicam.
Do đó, mục tiêu của nghiên cứu là xây dựng
được công thức gel lornoxicam 0,5% với tá
dược Carbopol có tác dụng giảm đau, chống
viêm mạnh.
2. Nguyên liệu, thiết bị, phương pháp
nghiên cứu
2.1. Nguyên liệu
Lornoxicam được mua từ công ty Hetero
Drugs Limited (Ấn Độ). Các tá dược gồm
Carbopol 934P (Pháp), polyetylen glycol
(Pháp), propylen glycol, acid oleic, dimethyl
sulfoxid, Nipasol, Nipagin đạt tiêu chuẩn
dược dụng, natri hydroxyd, kali
dihydrophosphat đạt tiêu chuẩn tinh khiết hóa
học có nguồn gốc từ công ty hóa chất Bắc
Kinh, Trung Quốc.
2.2. Thiết bị
Máy đo quang phổ UV-VIS Jasco V 730
(Nhật), cân phân tích Sartorius TE 412 (Đức),
cân kỹ thuật Sartorius TE 412 (Đức), tủ sấy
Froilabo (Pháp), máy đo pH TOA-DKK
(Nhật), máy siêu âm Banson (Đức), máy
khuấy từ Velp (Ý), dụng cụ mô phỏng đánh
giá giải phóng gel, màng celluloce acetat, bát
sứ, rây và các dụng cụ thủy tinh.
2.3. Phương pháp nghiên cứu
2.3.1. Phương pháp bào chế gel lornoxicam
Gel LNX được bào chế theo phương pháp hòa
tan, với thành phần công thức ban đầu ở bảng
1, trong đó một số tá dược thay đổi để tìm ra
công thức tối ưu.
Sử dụng tá dược Carbopol 934P nồng độ
0,5%; 0,75% để bào chế các gel lornoxicam
0,5% với tỷ lệ dung môi PG, PEG 400 thay
đổi và các chất làm tăng tính tăng thấm: acid
oleic, dimethyl sulfoxid (DMSO), l-menthol ở
các nồng độ khác nhau. Trình tự bào chế: Cân
các nguyên liệu. Rắc nhẹ Carbopol 934P lên
mặt nước, để qua đêm cho trương nở hoàn
toàn. Thêm triethanolamin, tiếp tục khuấy trộn
đến khi thu được gel đồng nhất. Hoà tan
lornoxicam, Nipagin, Nipasol và các chất acid
oleic, DMSO, menthol vào dung môi PG, PEG
400. Phối hợp dung dịch dược chất vào gel
Carbopol, khuấy trộn kỹ. Đóng lọ thuỷ tinh
khô, sạch, kín. Mỗi mẫu bào chế 100 gam.
Bảng 1. Công thức cơ bản gel LNX 0,5%
Công thức (g) F1 F2 F3 F4 F5 F6 F7 F8 F9 F10
LNX 0,5 0,5 0,5 0,5 0,5 0,5 0,5 0,5 0,5 0,5
Carbopol 934P 0,5 0,5 0,5 0,5 0,5 0,75 0,75 0,75 0,75 0,75
PG 20 30 40 20 20 20 20 20 20 0
PEG 400 0 0 0 20 30 40 20 30 40 30
Nipagin 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2 0,2
Nipasol 0,02 0,02 0,02 0,02 0,02 0,02 0,02 0,02 0,02 0,02
Nước cất Vừa đủ 100 g
Đồng Thị Hoàng Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 155 - 160
Email: jst@tnu.edu.vn 157
2.3.2. Phương pháp đánh giá gel lornoxicam
Hình thức cảm quan: Quan sát gel sau khi bào
chế trên nền đen và trắng, đánh giá màu sắc,
độ đồng nhất; độ trong đánh giá trên 3 mức
độ: Đục (+), Trong (++), Rất trong (+++) [2].
Xác định pH của gel: Sử dụng máy đo pH,
cân khoảng 1,0 g gel lornoxicam, hòa tan
trong 100 ml nước cất, để yên trong 2 giờ,
tiến hành đo pH của dung dịch đó.
Phương pháp định lượng hàm lượng LNX
trong gel:
Cân chính xác 0,10 g gel lornoxicam, cho vào
cốc có mỏ 50 ml, thêm 20 ml đệm phosphat
pH 7,4, khuấy đều, chuyển vào bình định mức
100 ml, thêm dung dịch đệm phosphat pH 7,4
vừa đủ 100 ml. Siêu âm trong khoảng 15 phút,
để khoảng 30 phút, sau đó lọc qua giấy lọc.
Đem đo quang ở bước sóng 376 nm với mẫu
trắng là dung dịch đệm phosphat pH 7,4 [2].
Phương pháp đánh giá tốc độ giải phóng của
lornoxicam qua màng:
Tốc độ giải phóng của LNX qua màng được
xác định bằng thiết bị bình khuyếch tán theo
mô hình bình Frank, sử dụng màng cellulose
acetat. Màng được ngâm trong nước cất 30
phút trước khi sử dụng. Môi trường giải
phóng là dung dịch đệm phosphat pH 7,4.
Nhiệt độ của hệ thiết bị khuyếch tán được duy
trì ở 37oC ± 2oC. Diện tích bề mặt khuyếch
tán: 3,42 cm2. Thể tích môi trường khuyếch
tán: 150 ml. Môi trường được khuấy trộn ở
tốc độ 100 vòng/phút bằng khuấy từ. Năm ml
mẫu thí nghiệm được lấy từ môi trường giải
phóng sau 0,5, 1, 1,5, 2, 4, 6 giờ và bổ sung
một lượng tương đương môi trường giải
phóng mới. Khối lượng mẫu thử: 1 g
lornoxicam. Lượng LNX giải phóng ra môi
trường được xác định bằng đo quang ở bước
sóng 376 nm với phương pháp so sánh với
chất chuẩn có nồng độ 5 µg/ml.
Xử lý số liệu:
Mỗi thí nghiệm được tiến hành 3 lần, tính giá
trị trung bình ± độ lệch chuẩn sử dụng phần
mềm Microsoft Excel 2013.
3. Kết quả nghiên cứu và bàn luận
3.1. Khảo sát ảnh hưởng của nồng độ
Carbopol 934P và tỷ lệ dung môi
Để xây dựng công thức, nhóm nghiên cứu đã
khảo sát 2 nồng độ Carbopol 934P là 0,5% và
0,75% cùng với tỷ lệ PEG và PG thay đổi có
thành phần như bảng 1, thu được kết quả thể
hiện ở bảng 2 và hình 1.
Bảng 2. Một số chỉ tiêu chất lượng của gel lornoxicam sử dụng nồng độ Carbopol 934 và
tỷ lệ dung môi khác nhau
Công thức Cảm quan Độ trong pH Hàm lượng
F1
Gel trong, màu
vàng, đồng nhất,
không quan sát
thấy các tiểu
phân dược chất
chưa tan.
+ 7,19 ± 0,17 99,65 ± 1,15
F2 ++ 7,54 ± 0,32 98,62 ± 0,65
F3 ++ 7,37 ± 0,11 100,47 ± 2,65
F4 ++ 7,56 ± 0,30 99,42 ± 1,22
F5 ++ 7,14 ± 0,14 98,52 ± 0,93
F6 +++ 7,09 ± 0,31 101,52 ± 1,52
F7 +++ 6,70 ± 0,33 99,63 ± 1,12
F8 ++ 6,58 ± 0,22 98,35 ± 1,13
F9 ++ 7,58 ± 0,36 99,02 ± 1,94
F10 ++ 7,26 ± 0,34 99,52 ± 0,77
Hình 1. Tốc độ giải phóng lornoxicam ra khỏi gel sử dụng tá dược Carbopol 934P
Đồng Thị Hoàng Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 155 - 160
Email: jst@tnu.edu.vn 158
Bảng 3. Công thức bào chế gel LNX 0,5% sử dụng các chất tăng tính thấm khác nhau
Công thức Acid oleic (%) DMSO (%) l-menthol (%)
F11 1
F12 3
F13 5
F14 7
F15 1
F16 3
F17 5
F18 7
F19 0,5
F20 0,75
F21 1,0
F22 1,5
Kết quả cho thấy, trong các công thức đã bào
chế, các công thức sử dụng Carbopol 934P tỷ
lệ 0,5% thể chất gel lỏng, độ nhớt thấp hơn,
do đó khả năng lưu giữ trên da kém hơn so
với các công thức sử dụng Carbopol 934P tỷ
lệ 0,75%. Về độ trong, tất cả các công thức
gel bào chế được đều trong, không còn tiểu
phân dược chất không tan trong gel. Trong
các công thức đã bào chế CT 6 và CT 7 (tỷ lệ
PG-PEG là 20:30) có độ trong cao nhất. Về
pH, tất cả các công thức đều có pH nằm trong
khoảng 6,6 - 7,6, đây là pH gần với pH của da
nên đảm bảo không gây kích ứng da. Trong
các công thức bào chế, CT 7 có khả năng giải
phóng dược chất tốt nhất, sau 30 phút đã giải
phóng 30,74% và sau 6 giờ là 68,54%. Do đó,
nhóm nghiên cứu đã chọn CT 7 để tiến hành
các nghiên cứu tiếp theo.
3.2. Khảo sát khả năng làm tăng tính thấm
của các tá dược
Qua tham khảo các tài liệu nghiên cứu về bào
chế gel chứa hoạt chất giảm đau, chống viêm
nhóm Oxicam [1], [2], [4], cho thấy acid
oleic, DMSO, l-menthol có khả năng cải thiện
tính thấm của các dược chất không tan tốt
nhất. Do đó, nghiên cứu được tiến hành với
công thức cơ bản gồm: LNX 0,5 g, Carbopol
934P 0,75 g, PG 20 g, PEG 400 30, Nipagin
0,2 g, Nipasol 0,02 g, Nước cất vừa đủ 100 g;
Các tá dược làm tăng tính thấm: acid oleic,
DMSO, l-menthol thay đổi từ 0,5% - 7,0% theo
thiết kế như bảng 3.
3.2.1. Khảo sát khả năng làm tăng tính thấm
của acid oleic
Tiến hành bào chế và đánh giá các công thức
đã thiết kế theo phương pháp mô tả ở phần
phương pháp, kết quả được thể hiện ở hình 2.
Hình 2. Tốc độ giải phóng lornoxicam ra khỏi gel
sử dụng acid oleic
Từ kết quả ở trên, nhóm tác giả thấy acid
oleic phối hợp vào thành phần tá dược gel cho
khả năng giải phóng dược chất tương đối tốt.
Mức độ LNX giải phóng tăng lên rõ rệt ở cả 4
công thức với 4 nồng độ khác nhau và tăng dần
theo sự tăng tỷ lệ acid oleic: CT11 (1% AO) <
CT12 (3% AO) < CT14 (7% AO) < CT13 (5%
AO). Công thức 13 (5% AO) cho mức độ giải
phóng cao nhất sau 6 giờ: 75,63%, vượt lên so
với CT10 không sử dụng acid oleic tới 15%.
3.2.2. Khảo sát khả năng làm tăng tính thấm
của DMSO
Tiến hành bào chế và đánh giá gel LNX 0,5%
theo phương pháp đã mô tả ở trên, sử dụng
dung môi DMSO, thu được kết quả: các công
thức gel bào chế đều trong suốt, màu vàng
tươi, pH của các mẫu gel đều nằm trong
khoảng 6,73 - 7,51, hàm lượng dược chất
Đồng Thị Hoàng Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 155 - 160
Email: jst@tnu.edu.vn 159
trong các mẫu gel trong khoảng từ 99,48% -
100,59% và kết quả thử giải phóng
lornoxicam qua màng được thể hiện ở hình 3.
Hình 3. Tốc độ giải phóng lornoxicam ra khỏi gel
sử dụng DMSO
Kết quả cho thấy, tỷ lệ dung môi DMSO khác
nhau cho khả năng giải phóng LNX khác
nhau. Lượng LNX giải phóng từ tá dược tăng
tương ứng với nồng độ DMSO sử dụng, đạt
cao nhất ở mẫu gel có tỷ lệ DMSO là 5%, sau
6 giờ lượng dược chất giải phóng khoảng
90%. Song cũng nhận thấy rằng khi tiếp tục
tăng nồng độ DMSO, mức độ LNX giải
phóng không tăng lên, trái lại còn bị giảm đi.
Điều này có thể giải thích khi cho thêm
DMSO vào công thức làm giảm hoạt độ nhiệt
động của LNX trong tá dược dẫn đến làm
giảm khuyếch tán của LNX qua màng, do đó
làm giảm lượng LNX giải phóng.
3.2.3. Khảo sát khả năng làm tăng tính thấm
của l-menthol
Tiến hành bào chế và đánh giá mức độ giải
phóng LNX ra khỏi tá dược theo phương
pháp mô tả ở phần phương pháp, sử dụng chất
tăng thấm l-menthol. Kết quả được được trình
bày trong hình 4.
Hình 4. Tốc độ giải phóng lornoxicam ra khỏi gel
sử dụng l-menthol
Khi thêm l-menthol vào thành phần tá dược
gel với tỷ lệ từ 0,5 đến 1,5%, mức độ giải
phóng của LNX đều tăng và đạt cao nhất khi
dùng ở nồng độ 1,5% l-menthol. Ở nồng độ
này, mức độ giải phóng tăng sau 6 giờ đạt
được là 86,42%, tăng tới 16% so với công thức
gốc. Điều này có thể giải thích là do ở nồng độ
1,5%, l-menthol đã làm tăng hệ số khuyếch tán
của LNX, tăng khả năng khuyếch tán qua
màng, do đó làm tăng mức độ giải phóng.
Khi so sánh hình thức cảm quan, kết quả đo
pH, định lượng hàm lượng hoạt chất và khả
năng làm tăng tính thấm của ba tá dược acid
oleic, DMSO và l-menthol trong các công
thức gel đã bào chế cho thấy: tất cả các công
thức đều đạt chỉ tiêu chất lượng đề ra về hình
thức cảm quan, pH và định lượng hàm lượng
dược chất. Các công thức sử dụng DMSO làm
chất tăng thấm, gel trong, dược chất dễ hòa
tan, dễ định lượng và DMSO có khả năng làm
tăng tính thấm của lornoxicam tốt nhất, kết
quả thể hiện ở hình 5 cho thấy CT 17 có khả
năng giải phóng dược chất cao nhất, sau 6 giờ
giải phóng tới 90,62% so với 86,43% của l-
menthol và 75,63% của acid oleic.
Hình 5. So sánh tốc độ giải phóng lornoxicam ra
khỏi gel sử dụng các chất tăng thấm
Bàn luận
Hấp thu thuốc từ dạng thuốc dùng ngoài liên
quan tới hai quá trình: Quá trình giải phóng
dược chất ra khỏi tá dược và hấp thu dược
chất qua da. Muốn tăng sinh khả dụng của
dạng thuốc dùng ngoài phải tìm các biện pháp
để cải thiện hai quá trình này. Với lornoxicam,
một hoạt chất có tác dụng giảm đau, chống
viêm mạnh, nhưng có độ tan trong nước kém,
nhóm tác giả quan tâm đến các biện pháp làm
Đồng Thị Hoàng Yến và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(08): 155 - 160
Email: jst@tnu.edu.vn 160
tăng giải phóng và hấp thu thuốc nhằm xây
dựng công thức có hiệu quả điều trị cao.
Al-Suwayeh S. A., Taha E. I. [3] đã xây dựng
công thức gel LNX với tá dược Carbopol 934,
sử dụng chất tăng thấm là Tween 80, acid
oleic và HP-β-cyclodextrin, kết quả cho thấy
HP-β-cyclodextrin là chất tăng thấm tốt nhất.
Trong nghiên cứu hiện tại, gel LNX có thành
phần chính gồm LNX, với tá dược Carbopol
934P, sử dụng chất tăng thấm là acid oleic,
DMSO và l-menthol. Kết quả nghiên cứu cho
thấy Carbopol 934P là chất mang phù hợp
cho gel LNX dùng qua da. Trong 3 chất tăng
thấm đã sử dụng, DMSO làm tăng khả năng
giải phóng dược chất tốt nhất. Gel trong, dễ
bào chế, hàm lượng dược chất nằm trong giới
hạn quy định, điều đó có thể do DMSO là các
dung môi phân cực mạnh, có khả năng hoà
tan dược chất tốt nhất, làm tăng khả năng
thấm qua da của dược chất nên làm tăng tác
dụng của thuốc. Ngoài ra, dung môi này còn
có tác dụng dược lý: chống viêm, giảm đau
tại chỗ, kháng khuẩn yếu, giãn mạch Đặc
biệt, khi sử dụng phối hợp DMSO với
propylen glycol cho thấy lượng thuốc hấp thu
qua da cao hơn hẳn so với dùng riêng lẻ từng
dung môi. Kết quả này cũng phù hợp với
nghiên cứu của Ranade S. Y. và cộng sự [4].
4. Kết luận
Sau quá trình nghiên cứu thực nghiệm, đã lựa
chọn được công thức gel lornoxicam 0,5%
dùng qua da thành phần gồm Carbopol 974P
0,75%, PEG và PG với tỷ lệ là 30:20, chất làm
tăng tính thấm DMSO 5% cho phần trăm dược
chất giải phóng qua màng và hàm lượng dược
chất lần lượt là: 90,62 ± 1,5%; 99,43 ± 1,03%.
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES
[1]. N. M. Skjodt, and N. M. Davies, “Clinical
pharmacokinetics of lornoxicam A short half-
life oxicam,” Clin. Pharmacokinet., vol. 34,
no. 6, pp. 421-428, 1998.
[2]. S. Umar et al., “Development and evaluation
of transdermal gel of lornoxicam,” Universal
Journal of Pharmaceutical Research, vol. 2,
no. 1, pp. 17-20, 2017.
[3]. S. A. Al-Suwayeh et al., “Evaluation of Skin
Permeation and Analgesic Activity Effects of
Carbopol Lornoxicam Topical Gels
Containing Penetration Enhancer,” The
ScientificWorld Journal, vol. 14, pp. 1-9,
2014.
[4]. S. Y. Ranade, and R. S. Gaud, “Lornoxicam
and Frankincense oil transdermal gel: a
potential formulation for management of
inflammation,” International Journal of
Pharmaceutical Sciences and Research, vol.
7, no. 1, pp. 190-198, 2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nghien_cuu_bao_che_gel_dung_qua_da_chua_lornoxicam.pdf