Nghiên cứu chỉ số độ cứng động mạch bằng phương pháp đo ha 24 giờ ở bệnh nhân tăng huyết áp nguyên phát

THA làm mở rộng khoảng áp lực mạch và áp lực mạch cũng là một thông số để đánh giá độ cứng động mạch. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đẽ tìm thấy mối tương quan ở các mức độ khác nhau giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với áp lực mạch trung bình 24 giờ [7], [11]. Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tìm thấy mối tương quan thuận r = 0,47, p < 0,05 (95% CI) giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với áp lực mạch trung bình 24 giờ (biểu đồ 2). THA làm ảnh hưởng trực tiếp lên áp lực lọc của cầu thận và sự xuất hiện microalbumin niệu. Các nghiên cứu cũng thấy rằng sự xuất hiện và tồn tại của microalbumin niệu vẫn có ý nghĩa dự báo độc lập các biến cố tim mạch sau khi đưa mức huyết áp về mục tiêu điều trị [12]. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi động mạch bị cứng sẽ làm huyết áp tâm thu tăng với cùng một thể tích co bóp tống máu của tim. Hậu quả lâu dài của vấn đề này là làm tăng nhu cầu tiêu thụ oxy cơ tim, làm phì đại thất trái [3]. Dựa vào những hiểu biết sinh lý bệnh và các nghiên cứu mà chúng tôi cũng tìm hiểu mối liên quan của chỉ số độ cứng động mạch lưu động với tổn thương cơ quan đích của bệnh nhân THA thấy rằng: chỉ số độ cứng động mạch lưu động của nhóm có microalbumin niệu và tăng chỉ số KLCTT cao hơn so với nhóm không có microalbumin niệu và không tăng chỉ số KLCTT (p<0,05); chỉ số độ cứng động mạch của nhóm dày thất trái trên điện tim và tổn thương đáy mắt do THA cao hơn so với nhóm không dày thất trái và chưa có tổn thương đáy mắt, tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê. Đồng thời, chúng tôi cũng tìm được mối tương quan thuận giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với chỉ số khối lượng cơ thất trái với r = 0,37, p<0,05 (95% CI) (biểu đồ 3). Kết quả này cũng tương tự với các tác giả trên thế giới [4],[9]. Nghiên cứu này cũng góp phần lý giải về cơ chế sinh lý bệnh của độ cứng động mạch trong THA.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu chỉ số độ cứng động mạch bằng phương pháp đo ha 24 giờ ở bệnh nhân tăng huyết áp nguyên phát, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX252 I. đẶT VẤN đỀ Tăng huyết áp (THA) là một bệnh lý thường gặp và có tỷ lệ mắc cao nhất trong các bệnh lý tim mạch. Mặc dù thuốc và các phương pháp điều trị tăng huyết áp không ngừng phát triển, tỷ lệ biến cố tim mạch, tàn phế và tử vong do tăng huyết áp vẫn rất cao [8]. Động mạch là mẫu số chung của mọi biến cố tim mạch, trong đó độ cứng động mạch là một chỉ số quan trọng trong tiên lượng và là mục tiêu điều trị cơ bản đối với bệnh nhân tăng huyết áp [14]. Theo định nghĩa của y văn thế giới: độ cứng động mạch là năng lực của động mạch giãn ra và co lại theo chu kỳ co bóp tống máu của tim. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng độ cứng động mạch là một yếu tố dự báo độc lập các biến cố tim mạch trong quần thể nói chung và THA nói riêng [2], tuy nhiên độ cứng động mạch chưa được sử dụng thường quy trong thực hành lâm sàng do các phương pháp đo chủ yếu là các phương pháp xâm nhập, dụng cụ đo đắt tiền. Năm 2006, Yan Li và CS đã đưa ra một phương pháp tính độ cứng động mạch mới gọi là chỉ số độ cứng động mạch lưu động (Ambulatory arterial stiffness index- AASI) từ kết quả đo huyết áp 24 giờ. Đây là một phương pháp đơn giản, không xâm nhập và có tương quan chặt chẽ với các phương pháp khác và là đại diện cho độ cứng động mạch [11]. Tại Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về độ cứng động mạch ở bệnh nhân THA. Vì vậy, chúng tôi tiến hành đề tài nhằm: Nghiên cứu độ cứng động mạch bằng phương pháp đo huyết áp động mạch 24 giờ và mối liên quan với một số đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và tổn thương cơ quan đích ở bệnh nhân THA nguyên phát. II. đỐI TƯỢNG Và PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. đối tượng nghiên cứu: gồm 65 bệnh nhân (39 nam, 26 nữ) được chẩn đoán THA nguyên phát điều trị nội trú tại Khoa Tim mạch, Bệnh viện Quân y 103 từ tháng 6 - 2014 đến tháng 6 – 2015. Những bệnh nhân được chẩn đoán tăng huyết áp theo tiêu chuẩn WHO: một người trưởng thành (>18 tuổi) có HATT ≥ 140mmHg và/hoặc HATTr ≥ 90 mmHg, tăng HATT đơn độc HATT ≥140mmHg và HATTr < 90mmHg. Chẩn đoán bệnh nhân tăng huyết áp nguyên phát dựa vào khám lâm sàng, nếu lâm sàng có gợi ý nguyên nhân tăng huyết áp sẽ được làm thêm các xét nghiệm cần thiết khác để chẩn đoán loại trừ. NGHIÊN CỨU CHỈ sỐ đỘ CỨNG đỘNG MẠCH BẰNG PHƯƠNG PHÁP đO HA 24 GIỜ Ở BỆNH NHÂN TĂNG HUYẾT ÁP NGUYÊN PHÁT thạch thị ngọc Khanh*, lương công thức* *Bệnh viện Quân y 103 TÓM TẮT Năm 2006, Yan Li và cộng sự đưa ra một phương pháp đánh giá độ cứng động mạch mới gọi là chỉ số độ cứng động mạch lưu động AASI (Abulatory arterial stiffness index- AASI) từ phương pháp đo HA 24 giờ, AASI = 1- hệ số gốc hồi quy HATTr/ HATT. Do vậy chúng tôi sử dụng máy đo HA 24 giờ Spacelabs đo chỉ số độ cứng động mạch lưu động của 65 bệnh nhân THA nguyên phát (tuổi trung bình 65,1) đồng thời tìm hiểu mối liên quan của chỉ số này với các đặc điểm lâm sàng, tổn thương cơ quan đích của đối tượng. Chỉ số độ cứng động mạch lưu động AASI trung bình của đối tượng là 0,47 ± 0,14. AASI có tương quan thuận với tuổi (r = 0,4, p<0,05), áp lực mạch trung bình 24 giờ (r = 0,47, p<0,05). AASI của nhóm có microalbumin niệu cao hơn nhóm không có microalbumin niệu (0,51 vs 0,44), AASI của nhóm tăng chỉ số khối lượng cơ thất trái cao hơn nhóm không có tăng chỉ số khối lượng cơ thất trái (0,50 vs 0,43). AASI có tương quan thuận với chỉ số khối lượng cơ thất trái (r = 0,37, p<0,05). nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 253 2. Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang. Các bệnh nhân được khám lâm sàng, làm các xét nghiệm cần thiết để đánh giá tổn thương cơ quan đích do THA, đo huyết áp 24 giờ bằng máy SpaceLab 902017. Máy sẽ tự động đo huyết áp ban ngày (từ 6 giờ - 22 giờ) 20 phút một lần, huyết áp ban đêm (từ 22 giờ - 6 giờ) một giờ một lần. Kết quả huyết áp 24 giờ được nhập vào Microsoft Excel, xây dựng phương trình hồi quy tuyến tính giữa HATT và HATTR. AASI = 1- hệ số góc của phương trình hồi quy. 3. Xử lý số liệu: Số liệu thu thập được xử lý theo thuật toán thống kê bằng phần mềm Excel 2007 và SPSS 21.0. Số liệu được trình bày dưới dạng số trung bình ± độ lệch chuẩn ( X ± SD) với các biến định lượng hoặc dưới dạng tỷ lệ % với các biến định tính. So sánh các biến định tính bằng thuật toán Chi-square, các biến định lượng bằng thuật toán t-student (so sánh hai nhóm) hoặc ANOVA (so sánh trên hai nhóm). Phân tích mối tương quan giữa các biến liên tục bằng phương trình hồi quy và tính hệ số tương quan. Giá trị p<0,05 được coi là có ý nghĩa thống kê. Các phương trình, biểu đồ, đồ thị được vẽ tự động trên máy. III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Bảng 1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu đẶC đIỂM ± sD HOẶC n Tuổi 65,1± 13,32 Giới (nam/nữ) 39/26 Đặc điểm nhân trắc Cao (m) 1,58±0,86 Cân nặng (kg) 58,09±10,02 BMI (kg/m2) 23,18±2,56 VB/VM 0,93±0,59 Độ tăng huyết áp Độ 1 21/65 (32,3%) Độ 2 20/65 (30,8%) Độ 3 24/65 (36,9%) Giai đoạn THA Giai đoạn I 12/65 (18,5%) Giai đoạn II 34/65 (52,3%) Giai đoạn III 19/65 (29,2%) Thời gian THA < 5 năm 36/65 (55,4%) 5 – 10 năm 26/65 (40%) > 10 năm 3/65 (4,3%) Đặc điểm HA 24 giờ HATT TB ngày (mmHg) 141,05±11,12 HATTr TB ngày (mmHg) 84,65±11,39 HATT TB đêm (mmHg) 133,52±11,32 HATTr TB đêm (mmHg) 80,24±11,81 HATT TB 24 giờ (mmHg) 139,64±10,74 HATTr TB 24 giờ (mmHg) 83,50±11,30 LOAD HATT 24 giờ (%) 59,48±27,57 LOAD HATTr 24 giờ (%) 43,13± 31,48 Nhịp tim TB 24 giờ CK/ phút 75,56±9,89 ALMTB 24 giờ (mmHg) 56,42±12,15 Đặc điểm lipid máu Cholesterol máu TB(mmol/l) 5,37±1,03 Triglycerid máu TB (mmol/l) 2,60±1,68 LDL-C máu TB (mmol/l) 3,44±0,83 HDL-C máu TB (mmol/l) 1,15±0,49 AASI 0,47±0,14 Nhận xét: Tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 65,1, đa số là người cao tuổi. Các chỉ số BMI, VB/ VM đều nằm ở giới hạn cao của bình thường. Tỷ lệ bệnh nhân THA độ 1 là 32,3%, THA độ 2 là 30,8%, THA độ 3 là 36,9%. Đa số bệnh nhân THA giai đoạn II chiếm 52,3%. Có 55,4% bệnh nhân có thời gian THA < 5 năm. Các đặc đặc điểm huyết áp 24 giờ đều trên giới hạn bình thường. Nồng độ Cholesterol máu TB, triglycerid máu trung bình, LDL-C đều trên giới hạn bình thường, HDL-C máu nằm trong giới hạn bình thường. Chỉ số độ cứng động mạch lưu động AASI là 0,47±0,14. nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX254 Bảng 2. Tổn thương cơ quan đích của đối tượng nghiên cứu Tổn thương cơ quan đích số lượng n Tỷ lệ % Microalbumin niệu Có 32 49,2 Không 33 50,8 Dày thất trái trên ĐTĐ Có 32 49,2 Không 33 50,8 Tăng chỉ số KLCTT Có 40 61,5 Không 25 38,5 Đột quỵ não Có 8 13,3 Không 57 87,7 Tổn thương đáy mắt Có 58 89,2 Không 7 10,8 Nhận xét: Trong các biến chứng của THA, tăng chỉ số KLCTT và biến chứng mắt chiếm tỷ lệ > 50%, biến chứng dày thất trái trên điện tâm đồ và microalbumin niệu như nhau là 49,2%, tỷ lệ đột quỵ não thấp nhất là 13,3% Biểu đồ 1. Tương quan của chỉ số độ cứng động mạch lưu động với tuổi của đối tượng Nhận xét: Có mối tương quan thuận giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với tuổi của đối tượng với r = 0,4, p < 0,05 (95% CI). Bảng 3. Mối liên quan của chỉ số độ cứng động mạch lưu động AASI với các đặc điểm của đối tượng nghiên cứu đẶC đIỂM AAsI p Giới Nam 0,46±0,14 > 0,05 Nữ 0,49±0,13 Độ THA Độ 1(n=21) 0,41±0,12 < 0,05Độ 2 (n=20) 0,46±0,13 Độ 3 (n=24) 0,54±0,13 Giai đoạn THA Giai đoạn I (n=12) 0,46±0,16 > 0,05 Giai đoạn II (n=34) 0,47±0,14 Giai đoạn III (n=19) 0,47±0,14 nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 255 đẶC đIỂM AAsI p Thời gian THA < 5 năm (n=36) 0,46±0,14 > 0,05 5 – 10 năm (n=26) 0,50±0,12 > 10 năm (n=3) 0,37±0,05 RL lipid máu Có (n=52) 0,48±0,13 > 0,05 Không (n=13) 0,46±0,13 Nhận xét: Chỉ số độ cứng động mạch lưu động của nữ giới cao hơn nam giới, sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Chỉ số độ cứng động mạch lưu động tăng theo độ THA (p < 0,05). Chỉ số độ cứng động mạch có xu hướng tăng theo giai đoạn và thời gian mắc bệnh THA và tình trạng rối loạn lipid máu tuy, nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Biểu đồ 2. Tương quan của chỉ số độ cứng động mạch lưu động với áp lực mạch trung bình 24 giờ của đối tượng nghiên cứu Có mối tương quan thuận giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với áp lực mạch trung bình 24 giờ với r = 0,47, p < 0,05 (95% CI). Bảng 4. Mối liên quan của chỉ số độ cứng động mạch lưu động với tổn thương cơ quan đích Tổn thương cơ quan đích AAsI p Microalbumin niệu Có (n=32) 0,51±0,13 < 0,05 Không (n=33) 0,44±0,12 Dày thất trái trên ĐTĐ Có (n=32) 0,48±0,13 > 0,05 Không (n=33) 0,46±0,13 Tăng chỉ số KLCTT Có (n=40) 0,50±0,13 < 0,05 Không (n=25) 0,43±0,13 Đột quỵ não Có (n=8) 0,50±0,13 < 0,05 Không (n=57) 0,47±0,14 Tổn thương đáy mắt Có (n=58) 0,48±0,13 > 0,05 Không (n=7) 0,44±0,15 nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX256 IV. BàN LUẬN Bệnh nhân trong nghiên cứu có tuổi trung bình 65,1, đa số là nam giới (39 BN= 60%) cũng tương tự như một số các tác giả trên thế giới [6]. Trong nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy các đặc điểm về nhân trắc của đối tượng như BMI nằm ở mức dư cân, béo phì, VB/VM đều tăng. Các chỉ số lipid máu như cholesterol trung bình, triglycerid máu trung bình và LDL-C trung bình đều nằm ở giới hạn cao của bình thường, đây đều là các yếu tố nguy cơ tim mạch nói chung và THA nói riêng. Các đặc điểm về HA 24 giờ của chúng tôi cũng tương tự như nhiều nghiên cứu đã công bố trong và ngoài nước [1], [13]. THA làm tăng sức đề kháng xuôi dòng của các tiểu động mạch, gây nên một áp lực tăng truyền ngược lại đối với các mạch máu trung tâm làm màng đàn hồi của mạch máu bị căng thêm và trở nên cứng. Đồng thời, THA theo thời gian dẫn đến tái cấu trúc mạch máu, phì đại và tăng sinh lớp áo giữa, làm xơ cứng bản thân mạch máu [3]. Do vậy ở những người THA luôn có tăng độ cứng động mạch. Chỉ số độ cứng động mạch lưu động trong nghiên cứu của chúng tôi là 0,47 ± 0,14. Kết quả này cao hơn có ý nghĩa thống kê so với chỉ số độ cứng động mạch lưu động của người bình thường mà chúng tôi đã công bố là 0,36 ± 0,08 (p<0,001), và cũng tương tự với các tác giả trên tế giới như Yan Li thấy chỉ số độ cứng động mạch lưu động của nhóm THA là 0,45 ± 0,18 [11], Giovanna 0,5 ± 0,17 [10] , Gismosdi 0,43 ± 0,03 [6]. Tỷ lệ gặp các tổn thương cơ quan đích trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với các nghiên cứu khác [5], [10]. Điều này có thể do phần nhiều các bệnh nhân trong nghiên cứu chưa dùng thuốc hạ áp và thời gian mắc bệnh THA khá dài từ 5 đến 10 năm chiếm 40%. Nhận xét: Chỉ số độ cứng động mạch lưu động của nhóm có microalbumin niệu, tăng chỉ số KLCTT, đột quỵ não cao hơn có ý nghĩa thống kê (p < 0,05) so với nhóm không có microalbumin niệu, không tăng chỉ số khối lượng cơ thất trái và không bị đột quỵ não. Chỉ số độ cứng động mạch lưu động của nhóm dày thất trái trên điện tâm đồ, có tổn thương đáy mắt cao hơn so với nhóm không dày thất trái và nhóm không có tổn thương đáy mắt, tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Biểu đồ 3. Tương quan giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với chỉ số khối lượng cơ thất trái của đối tượng nghiên cứu Nhận xét: có mối tương quan thuận giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với chỉ số khối lượng cơ thất trái với r = 0,37, p < 0,05 (95% CI). nghiên cứu khoa học Tạp chí Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX nội khoa Việt nam 257 Tuổi tác cùng với THA làm cho thành mạch bị lão hóa, đứt gãy các phân tử protein elastin, tăng sinh collagen làm giảm sự giãn nở và đàn hồi của thành mạch [3]. Hậu quả lâu dài của vấn đề này là làm động mạch trở nên cứng hơn. Trong bảng 1, chúng tôi cũng tìm được mối tương quan thuận giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với tuổi của đối tượng nghiên cứu với r = 0,4, p<0,05 (95% CI). Kết quả này cũng phù hợp với các tác giả khác trên thế giới khi nghiên cứu về chỉ số độ cứng động mạch lưu động với tuổi [5], [6]. Chúng tôi nhận thấy chỉ số độ cứng động mạch lưu động AASI tăng theo độ THA (p<0,05) và giai đoạn THA (p>0,05). AASI cũng có xu hương tăng theo thời gian mắc bệnh THA tuy nhiên nhóm có thời gian THA >10 năm trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 3 đối tượng nên chưa thể tìm thấy sự khác biệt giữa các nhóm thời gian THA. THA làm mở rộng khoảng áp lực mạch và áp lực mạch cũng là một thông số để đánh giá độ cứng động mạch. Nhiều nghiên cứu trên thế giới đẽ tìm thấy mối tương quan ở các mức độ khác nhau giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với áp lực mạch trung bình 24 giờ [7], [11]. Kết quả trong nghiên cứu của chúng tôi cũng tìm thấy mối tương quan thuận r = 0,47, p < 0,05 (95% CI) giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với áp lực mạch trung bình 24 giờ (biểu đồ 2). THA làm ảnh hưởng trực tiếp lên áp lực lọc của cầu thận và sự xuất hiện microalbumin niệu. Các nghiên cứu cũng thấy rằng sự xuất hiện và tồn tại của microalbumin niệu vẫn có ý nghĩa dự báo độc lập các biến cố tim mạch sau khi đưa mức huyết áp về mục tiêu điều trị [12]. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng khi động mạch bị cứng sẽ làm huyết áp tâm thu tăng với cùng một thể tích co bóp tống máu của tim. Hậu quả lâu dài của vấn đề này là làm tăng nhu cầu tiêu thụ oxy cơ tim, làm phì đại thất trái [3]. Dựa vào những hiểu biết sinh lý bệnh và các nghiên cứu mà chúng tôi cũng tìm hiểu mối liên quan của chỉ số độ cứng động mạch lưu động với tổn thương cơ quan đích của bệnh nhân THA thấy rằng: chỉ số độ cứng động mạch lưu động của nhóm có microalbumin niệu và tăng chỉ số KLCTT cao hơn so với nhóm không có microalbumin niệu và không tăng chỉ số KLCTT (p<0,05); chỉ số độ cứng động mạch của nhóm dày thất trái trên điện tim và tổn thương đáy mắt do THA cao hơn so với nhóm không dày thất trái và chưa có tổn thương đáy mắt, tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê. Đồng thời, chúng tôi cũng tìm được mối tương quan thuận giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với chỉ số khối lượng cơ thất trái với r = 0,37, p<0,05 (95% CI) (biểu đồ 3). Kết quả này cũng tương tự với các tác giả trên thế giới [4],[9]. Nghiên cứu này cũng góp phần lý giải về cơ chế sinh lý bệnh của độ cứng động mạch trong THA. V. KẾT LUẬN Chỉ số độ cứng động mạch của bệnh nhân THA là 0,47 ± 0,14. Chỉ số độ cứng động mạch lưu động có tương quan với tuổi và áp lực mạch trung bình 24 giờ. Chỉ số độ cứng động mạch có mối liên quan với sự xuất hiện mcroalbumin niệu và tăng chỉ số KLCTT của bệnh nhân THA. Có mối tương quan thuận giữa chỉ số độ cứng động mạch lưu động với chỉ số KLCTT của bệnh nhân THA. TàI LIỆU THAM KHẢO 1. Huỳnh Ngọc Cẩn (2008), “ Nghiên cứu biến đổi HA 24 giờ ở bệnh nhân THA có hội chứng chuyển hóa “, Học viện Quân y. 2. Dolan E., Thijs L., Li Y., Atkins N., Mccormack P., Mcclory S., O’brien E., Staessen J. A., and Stanton A. V. (2006), “Ambulatory arterial stiffness index as a predictor of cardiovascular mortality in the Dublin Outcome Study”, Hypertension,Vol 47, pp.365-370. 3. Franklin S. S. (2005), “Arterial Stiffness and Hypertension A Two-Way Street?”, Hypertension, Vol 45, pp.349-351. 4. García-García Á., Gómez-Marcos M. A., Recio-Rodriguez J. I., González-Elena L. J., Parra- Sanchez J., Muñoz-Moreno M. F., Alonso C. P., Gude F., and García-Ortiz L. (2011), “Relationship between ambulatory arterial stiffness index and subclinical target organ damage in hypertensive nghiên cứu khoa học Tạp chí nội khoa Việt nam Tài liệu Hội nghị Khoa học Nội khoa Toàn quốc lần IX258 patients”, Hypertension research,Vol 34, pp.180- 186. 5. Gómez-Marcos M. Á., Recio-Rodríguez J. I., Patino-Alonso M. C., Gómez-Sánchez L., Agudo-Conde C., Gómez-Sánchez M., Rodríguez-Sánchez E., and García-Ortiz L. (2012), “Ambulatory arterial stiffness indices and target organ damage in hypertension”, BMC cardiovascular disorders,Vol 12, pp.1. 6. Gismondi R. A., Neves M. F., Oigman W., and Bregman R. (2012), “Ambulatory arterial stiffness index is higher in hypertensive patients with chronic kidney disease”, International journal of hypertension,Vol 2012. 7. Hansen T. W., Staessen J. A., Torp- Pedersen C., Rasmussen S., Li Y., Dolan E., Thijs L., Wang J.-G., O’brien E., and Ibsen H. (2006), “Ambulatory arterial stiffness index predicts stroke in a general population”, Journal of hypertension,Vol 24, pp.2247-2253. 8. Kearney P. M., Whelton M., Reynolds K., Muntner P., Whelton P. K., and He J. (2005), “Global burden of hypertension: analysis of worldwide data”, The Lancet,Vol 365, pp.217-223. 9. Lee H. T., Lim Y.-H., Kim B. K., Lee K. W., Lee J. U., Kim K. S., Kim S. G., Kim J. H., Lim H. K., and Shin J. (2011), “The relationship between ambulatory arterial stiffness index and blood pressure variability in hypertensive patients”, Korean Circulation Journal,Vol 41, pp.235-240. 10. Leoncini G., Ratto E., Viazzi F., Vaccaro V., Parodi A., Falqui V., Conti N., Tomolillo C., Deferrari G., and Pontremoli R. (2006), “Increased ambulatory arterial stiffness index is associated with target organ damage in primary hypertension”, Hypertension,Vol 48, pp.397-403. 11. Li Y., Wang J. G., Dolan E., Gao P. J., Guo H. F., Nawrot T., Stanton A. V., Zhu D. L., O’brien E., and Staessen J. A. (2006), “Ambulatory arterial stiffness index derived from 24-hour ambulatory blood pressure monitoring”, Hypertension,Vol 47, pp.359-364. 12. Mule G., Calcaterra I., Costanzo M., Morreale M., D’ignoto F., Castiglia A., Geraci G., Rabbiolo G., Vaccaro F., and Cottone S. (2015), “Average real variability of 24-h systolic blood pressure is associated with microalbuminuria in patients with primary hypertension”, J Hum Hypertens,Vol 18, pp.66. 13. Mulè G., Nardi E., Cottone S., Cusimano P., Volpe V., Piazza G., Mongiovi R., Mezzatesta G., Andronico G., and Cerasola G. (2005), “Influence of metabolic syndrome on hypertension‐related target organ damage”, Journal of internal medicine,Vol 257, pp.503-513. 14. Payne R. A., Wilkinson I. B., and Webb D. J. (2010), “Arterial Stiffness and Hypertension Emerging Concepts”, Hypertension,Vol 55, pp.9-14. ABsTRACT In 2006, Yan Li hypothesized that 1 minus the slope of diastolic on systolic pressure during 24-hour ambulatory monitoring to measure of arrterial stiffness called AASI (ambulatory arterial stiffness- AASI). Therefore, we used Spacelabs monitor to measure AASI from 65 patients with primary hypertension (the mean of age: 65.1) and its relations with the characteristic of patients and their organs damage. The mean of AASI is 0.47±0.14. AASI was positively correlated to age (r = 0.5, p<0.05), and the 24-hour mean of pulse pressure (r = 0.4, p<0.05). AASI is significant higher in microalbumin urine group (0.51 vs 0.44) and hyper left ventricular mass index group (0,50 vs 0.43) than group without these (p<0.05). AASI was positively corelated to left ventricular mass index (r = 0.37, p<0.05). Keyword: ambulatory arterial stiffness index, 24-hour blood pressure monitoring.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_chi_so_do_cung_dong_mach_bang_phuong_phap_do_ha_2.pdf
Tài liệu liên quan