Nghiên cứu đa hình kiểu gen CYP2C19*2, *3 VÀ *17 trên người Việt Nam mắc bệnh động mạch vành

Kết quả của nghiên cứu này rất có lợi trong việc hoạch định chiến lược thực hiện liệu pháp chống ngưng tập tiểu cầu cá thể hóa ở Việt Nam. Năm 2011, Hiệp hội thực hiện Dược động học lâm sàng - Viện Nghiên cứu Dược phẩm Quốc gia của Hoa Kỳ đã thiết lập các hướng dẫn bắt đầu điều trị bằng Clopidogrel dựa trên việc dự đoán các kiểu hình chuyển hóa (Scott et al., 2011). Theo đó, phương pháp thay thế như Prasugrel hoặc Ticagrelor được khuyến nghị áp dụng cho những bệnh nhân chuyển hóa kém Clopidogrel. Nhiều nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh sự thay đổi của enzyme CYP2C19 đối với chuyển hóa thuốc tạo nên sự khác biệt rõ rệt giữa các cá nhân về nồng độ trong huyết tương, từ đó đề xuất liều dùng Clopidogrel cho bệnh nhân. Trong bối cảnh các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu mới có giá thành cao và nguy cơ xuất huyết lớn, đồng thời Clopidogrel đã được sản xuất ở dạng thuốc tương tự biệt dược gốc, việc xác định các bệnh nhân đáp ứng kém với Clopidogrel (dựa trên các xét nghiệm chức năng tiểu cầu hoặc kiểu gen) để quyết định cho họ tăng liều Clopidogrel hay sử dụng các thuốc mới, cũng như sử dụng liều Clopidogrel chuẩn với những bệnh nhân đáp ứng tốt là đặc biệt quan trọng. Để đạt được hiệu quả chống ngưng tập tiểu cầu ổn định như mong muốn ở những bệnh nhân mang allele bất thường về chuyển hóa Clopidogrel, Prasugrel và Ticagrelor có thể nên được ưu tiên hơn là dùng liều cao Clopidogrel. Nguyên nhân là do Prasugrel không được chuyển hóa bằng CYP2C19 như Clopidogrel (Wiviott et al., 2007) và Ticagrelor có tác dụng ức chế trực tiếp thụ thể P2Y12 mà không cần qua quá trình hoạt hóa, do đó không phụ thuộc vào các enzyme Cytochrome P450 (Damman et al., 2011). Đồng thời, Prasugrel và Ticagrelor khởi phát hoạt động nhanh và tác dụng ức chế ngưng tập tiểu cầu mạnh hơn và bền vững hơn Clopidogrel.

pdf8 trang | Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 6 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu đa hình kiểu gen CYP2C19*2, *3 VÀ *17 trên người Việt Nam mắc bệnh động mạch vành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(1): 41-48, 2020 41 NGHIÊN CỨU ĐA HÌNH KIỂU GEN CYP2C19*2, *3 VÀ *17 TRÊN NGƯỜI VIỆT NAM MẮC BỆNH ĐỘNG MẠCH VÀNH Nguyễn Hải Hà1,2, Lê Thị Bích Thảo3, Nguyễn Thị Thanh Hoa1, Lê Thị Thu Hiền1,2,* 1 Viện Nghiên cứu hệ gen, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 2 Học viện Khoa học và Công nghệ, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 3 Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam * Người chịu trách nhiệm liên lạc. E-mail: hienlethu@igr.ac.vn Ngày nhận bài: 12.3.2019 Ngày nhận đăng: 24.5.2019 TÓM TẮT Bệnh động mạch vành là do sự tích tụ mảng xơ vữa động mạch bên trong thành động mạch, gây tắc nghẽn quá trình cung cấp máu đến cơ tim. Nhiều thử nghiệm lâm sàng cho thấy thuốc Clopidogrel có khả năng ức chế ngưng tập tiểu cầu trên bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp, làm giảm tử vong và biến cố tim mạch. Tuy nhiên, tác dụng chống ngưng tập tiểu cầu của Clopidogrel phụ thuộc đáng kể vào tính đa hình kiểu gen mã hóa cho enzyme CYP2C19. Nghiên cứu này khảo sát tần số các allele CYP2C19*2, *3 và *17 có liên quan đến hiệu quả sử dụng thuốc Clopidogrel trên các bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành ở Việt Nam. Các điểm đa hình đơn của gen CYP2C19 ở 96 bệnh nhân được xác định bằng PCR và phân cắt bởi các enzyme giới hạn tương ứng SmaI, BamHI và MnlI. Kết quả, tỷ lệ bệnh nhân mang gen dị hợp CYP2C19*2 (c. 681G>A, rs4244285), CYP2C19*3 (c. 636G>A, rs4986893) và CYP2C19*17 (g. -3402C>T, rs11188072) lần lượt là 39,58%; 6,25% và 2,08%. Tỷ lệ bệnh nhân có kiểu hình chuyển hóa trung bình là 41,67%, trong đó 37,50% mang kiểu gen *1/*2 và 4,17% mang kiểu gen *1/*3; Số bệnh nhân có kiểu hình chuyển hóa kém chiếm 10,42%, trong đó 8,34% mang kiểu gen *2/*2 và 2,08% mang kiểu gen *2/*3. Đặc biệt, nghiên cứu phát hiện 2 bệnh nhân (chiếm 2,08%) có kiểu gen dị hợp CYP2C19*1/*17 có khả năng chuyển hóa thuốc cực nhanh. Kết quả của nghiên cứu là tiền đề cho việc đưa ra liệu pháp chống ngưng tập tiểu cầu cá thể hóa ở Việt Nam dựa vào xét nghiệm di truyền. Từ khóa: Bệnh động mạch vành, chuyển hóa Clopidogrel, đa hình gen CYP2C19 ĐẶT VẤN ĐỀ Bệnh động mạch vành là căn bệnh phổ biến nhất trong các bệnh về tim mạch. Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới, trong năm 2015, bệnh động mạch vành đã gây ảnh hưởng đến 110 triệu người và khiến 8,9 triệu người tử vong, chiếm đến 15,6% tổng số ca tử vong (GBD 2015 Disease and Injury Incidence and Prevalence Collaborators, 2016). Triệu chứng điển hình của bệnh là đau thắt ngực do cơ tim không được cung cấp đầy đủ máu giàu oxy. Thông thường cơn đau thắt ngực xảy ra khi động mạch vành bị hẹp trên 50% khẩu kính của lòng mạch. Ngoài ra, bệnh nhân có thể cảm thấy đau lan xuyên lồng ngực hoặc bị chèn ép ra hai vai, cánh tay, lưng, cổ và hàm. Nguyên nhân của bệnh chủ yếu là sự tích tụ mảng xơ vữa động mạch bên trong thành động mạch cung cấp máu đến cơ tim. Mảng xơ vữa bị vỡ ra có thể gây tắc mạch đột ngột hoặc tạo thành cục huyết khối (máu đông) gây tắc mạch. Khi động mạch bị tắc nghẽn hoàn toàn sẽ gây ra hiện tượng nhồi máu cơ tim (Ambrose, Singh, 2015). Nhiều nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng trên Nguyễn Hải Hà et al. 42 thế giới cho thấy thuốc Clopidogrel có khả năng ức chế ngưng tập tiểu cầu trên bệnh nhân hội chứng mạch vành cấp, làm giảm tử vong và biến cố tim mạch. Clopidogrel là một tiền chất thienopyridine thế hệ thứ hai (prodrug). Khi vào cơ thể, Clopidogrel cần được chuyển hóa thông qua CYP450 ở gan, để tạo ra chất chuyển hóa hoạt động có thể ức chế một cách chọn lọc và không hồi phục các thụ thể P2Y12 trên bề mặt tiểu cầu, qua đó ức chế sự hoạt hóa tiểu cầu bởi ADP (Mega et al., 2009). Hiệu quả của thuốc được tăng cường khi kết hợp Clopidogrel với Aspirin (Yusuf et al., 2001; Chen et al., 2005; Sabatine et al., 2005). Theo đó sự kết hợp này làm giảm 20% các biến cố tổng hợp bao gồm tử vong do bệnh lý tim mạch, nhồi máu cơ tim và đột quỵ so với giả dược khi điều trị trong 9-12 tháng (Yusuf et al., 2001). Tuy nhiên, hạn chế của Clopidogrel là thời gian khởi phát tác dụng và hết tác dụng dài. Hơn nữa, tình trạng tiểu cầu tái hoạt động cao khi đang điều trị Clopidogrel có liên quan đến các đặc điểm lâm sàng, hành vi và yếu tố di truyền. Trên thực tế, tác dụng chống ngưng tập tiểu cầu của Clopidogrel phụ thuộc đáng kể vào tính đa hình kiểu gen của enzyme chuyển hóa CYP2C19 (Mega et al., 2009). Những nghiên cứu ở Việt Nam hiện nay thường tập trung vào việc so sánh hiệu quả giữa các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu mới hoặc hiện tượng kháng các thuốc này trên bệnh nhân mắc bệnh tim mạch (Quách Hữu Trung, 2014). Tuy nhiên, công bố liên quan đến khả năng đáp ứng thuốc bị ảnh hưởng bởi đa hình kiểu gen CYP2C19 trên bệnh nhân người Việt Nam vẫn còn khá ít và chủ yếu tập trung vào hai allele CYP2C19*2, CYP2C19*3 và chưa được thực hiện đối với allele CYP2C19*17 (Nguyễn Thị Thúy Mậu et al., 2017; Vũ Thị Thơm et al., 2018). Nghiên cứu này nhằm mục tiêu xác định tần số phân bố kiểu gen CYP2C19*2, CYP2C19*3 và CYP2C19*17 ở bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành bằng kỹ thuật đa hình chiều dài các đoạn cắt giới hạn (Restriction Fragment Length Polymorphism - RFLP). Kết quả nghiên cứu là tiền đề cho cá thể hóa việc điều trị bệnh nhân dựa vào xét nghiệm di truyền ở Việt Nam. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP Vật liệu Các mẫu máu ngoại vi được thu thập từ 96 bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành. Các bệnh nhân này được xác định và điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai từ năm 2013 đến năm 2017. Nghiên cứu xác định đột biến gen được thực hiện tại Viện Nghiên cứu hệ gen và Viện Công nghệ sinh học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Tách chiết DNA tổng số DNA tổng số được tách chiết từ máu ngoại vi (chống đông bằng EDTA) bằng kit Wizard Genomic DNA Purification (Promega Corporation, Hoa Kỳ). Chất lượng của các mẫu DNA được đo bằng máy quang phổ Biospectrometer (Eppendorf, Đức). Xác định kiểu gen bằng phương pháp PCR- RFLP Các kiểu allele CYP2C19*2, CYP2C19*3 và CYP2C19*17 của 96 bệnh nhân được xác định bằng kỹ thuật RFLP). Đầu tiên, đoạn gen chứa từng điểm đa hình đơn đại diện cho các allele CYP2C19*2 (c.681GA>G), CYP2C19*3 (c.636G>A) và CYP2C19*17 (-3402C>T và - 806C>T) được khuếch đại bằng phản ứng PCR sử dụng các cặp mồi đặc hiệu với tổng thể tích 25 µL bao gồm 10 ng DNA tổng số, 12,5 µL PCR Master Mix (Thermo Fisher Scientific, Hoa Kỳ), 10 pmol mỗi mồi đặc hiệu và 9,5 µL nước khử ion. Phản ứng được thực hiện với chu trình nhiệt như sau: Biến tính ở 95oC trong 5 min, tiếp theo là 40 chu kỳ bao gồm 95oC trong 30 s, 56-58oC trong 30 s, 72oC trong 40 s và giai đoạn kéo dài cuối cùng ở 72oC trong 10 min. Sau khi điện di kiểm tra,10 µL của mỗi sản phẩm khuếch đại được cắt bởi các enzyme giới hạn SmaI, BamHI và MnlI (New England Biolabs, Hoa Kỳ) tương ứng với các điểm đa hình đơn (Single Nucleotide Polymorphism - SNP) tại vị trí c.681, c.636 và - 3402 của gen CYP2C19 trong 13-14 h ở 37oC. Sản phẩm cắt bằng enzyme giới hạn được kiểm tra bằng điện di trên gel agarose 1,5%. Trình tự mồi và điểm cắt của enzyme giới hạn được trình bày trong Bảng 1. Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(1): 41-48, 2020 43 Bảng 1. Trình tự mồi, enzyme giới hạn sử dụng trong xác định kiểu gen CYP2C19*2, CYP2C19*3, CYP2C19*17 và sản phẩm sau khi xử lý enzyme giới hạn. F: mồi xuôi; R: mồi ngược SNP Trình tự mồi Sản phẩm PCR (bp) Enzyme giới hạn Sản phẩm cắt enzyme (bp) CYP2C19*2 (c. 681G>A) TGATGCTTACTGGATATTCATGC (F) 714 SmaI GG: 469, 245 GA: 714, 469, 245 AA: 714 CCTTCACTCACTTTTTGATGGA (R) CYP2C19*3 (c. 636G>A) TTTAACCAGCTAGGCTGTAA (F) 560 BamHI GG: 362, 198 GA: 560, 362, 198 AA: 560 ATTGGGATATTCATTTCCTG (R) CYP2C19*17 (g. -3402C>T) AATAAAGATGACCTTGATCTGG (F) 500 MnlI CC: 280, 220 CT: 500, 280, 220 TT: 500 TCTCCTGAAGTGTCTGTAC (R) Phương pháp xử lý số liệu Các số liệu được thu thập và xử lý sử dụng phần mềm SPSS 16.0. Đạo đức nghiên cứu Các số liệu và thông tin nghiên cứu hoàn toàn chính xác, trung thực và khách quan, đã được xác nhận và chấp nhận bởi cơ sở nghiên cứu. Các thông tin về bệnh nhân được giữ bí mật và chỉ phục vụ cho công tác nghiên cứu. KẾT QUẢ Kết quả xác định kiểu allele CYP2C19*2, CYP2C19*3 và CYP2C19*17 bằng kỹ thuật RFLP được minh họa trong Hình 1. Trong số 96 bệnh nhân, tỷ lệ bệnh nhân mang gen dị hợp CYP2C19*2 (c. 681G>A, rs4244285), CYP2C19*3 (c. 636G>A, rs4986893) và CYP2C19*17 (g. -3402C>T, rs11188072) lần lượt là 39,58%, 6,25% và 2,08%. Kết quả tần số các allele và phân bố kiểu gen của đa hình CYP2C19 được thể hiện trong Bảng 2 và Bảng 3. Kiểu hình CYP2C19*2, CYP2C19*3 và CYP2C19*17 của 96 mẫu máu bệnh nhân có hội chứng động mạch vành đã được nghiên cứu với kết quả 41,67% số bệnh nhân có kiểu hình chuyển hóa trung bình *1/*2 (37,50%) và *1/*3 (4,17%). Số bệnh nhân có kiểu hình chuyển hóa kém chiếm 10,42% tổng số bệnh nhân, trong đó 8,34% mang kiểu gen *2/*2; 2,08% mang kiểu gen *2/*3 và không có bệnh nhân nào trong nhóm có kiểu gen *3/*3. Đặc biệt, nghiên cứu đã phát hiện 2 bệnh nhân (chiếm 2,08%) có kiểu gen dị hợp của biến thể allele *17 (CYP2C19*1/*17) có khả năng chuyển hóa thuốc cực nhanh. THẢO LUẬN Hoạt tính của enzyme CYP2C19 đã được chứng minh đóng vai trò chủ chốt trong việc đáp ứng thuốc chống ngưng tập tiểu cầu (Mega et al., 2009). Trong số 24 biến thể đột biến allele đã biết của CYP2C19, các đa hình di truyền CYP2C19*2, CYP2C19*3 và CYP2C19*17 là quan trọng nhất. Các đa hình CYP2C19 thường dẫn đến một protein bị khiếm khuyết hoặc không có chức năng, hoặc enzyme không hoạt động; do đó, việc thiếu khả năng chuyển hóa Clopidogrel thành chất chuyển hóa có hoạt tính dẫn đến đáp ứng đối với tác dụng kháng tiểu cầu giảm dần, gây thất bại trong điều trị và tăng nguy cơ mắc các biến cố tim mạch. Nhiều công trình nghiên cứu đã công bố rằng đa hình *2 (đột biến điểm G681A tại exon 5) gây ra khiếm khuyết khi cắt nối RNA và chấm dứt sớm quá trình tổng hợp protein, và đa hình *3 (chuyển đổi nucleotide G thành A tại vị trí 636) tạo ra mã kết thúc sớm, dẫn đến protein bị cắt ngắn hơn so với ban đầu. Trong khi đó, đột biến CYP2C19*17 (−806C> T, −3402C> T) được biết là làm tăng phiên mã gen (Hagymási et al., 2011). Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu là khảo sát tính đa hình các allele CYP2C19*2, CYP2C19*3 và CYP2C19*17 ở các bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành được chỉ định điều trị bằng thuốc Clopidogrel. Nguyễn Hải Hà et al. 44 Hình 1. Xác định đa hình kiểu gen CYP2C19 bằng enzyme giới hạn. A. Sản phẩm cắt đoạn CYP2C19*2 bằng SmaI; 1 và 5: mẫu DNA mang kiểu gen GG; 2, 4, 6-11: Mẫu DNA mang kiểu gen GA; 3: Mẫu DNA mang kiểu gen AA. B. Sản phẩm cắt đoạn CYP2C19*3 bằng BamHI; 1-6 và 9: Mẫu DNA mang kiểu gen GG; 7, 8, 10 và 11: mẫu DNA mang kiểu gen GA. C. Sản phẩm cắt đoạn CYP2C19*17 bằng MnlI; 1-7 và 11: Mẫu DNA mang kiểu gen CC; 8-10: Mẫu DNA mang kiểu gen CT. M: Marker 1 kb plus. Bảng 2. Tần số allele của các đa hình CYP2C19 trên 96 bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành. CYP2C19*2 (c. 681G>A, rs4244285) Số lượng Tần số (%) Tần số allele GG 50 52,08 G 0,72 GA 38 39,58 A 0,28 AA 8 8,34 Tổng số 96 100,00 1,00 CYP2C19*3 (c. 636G>A, rs4986893) Số lượng Tần số (%) Tần số allele GG 90 93,75 G 0,97 GA 6 6,25 A 0,03 AA 0 0 Tổng số 96 100,00 1,00 CYP2C19*17 (g. -3402C>T, rs11188072) Số lượng Tần số (%) Tần số allele CC 94 97,92 C 0,99 CT 2 2,08 T 0,01 TT 0 0 Tổng số 96 100 1,00 Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(1): 41-48, 2020 45 Bảng 3. Phân bố kiểu allele của CYP2C19 trên 96 bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành. Dự đoán kiểu hình Kiểu allelea Số lượng bệnh nhân Tần số (%) Chuyển hóa bình thường *1/*1 44 45,83 Chuyển hóa trung bình *1/*2 36 37,50 *1/*3 4 4,17 Chuyển hóa kém *2/*2 8 8,34 *2/*3 2 2,08 *3/*3 0 0,00 Chuyển hóa cực nhanh *1/*17 2 2,08 *17/*17 0 0,00 Tổng số 96 100 aKiểu gen đồng hợp/dị hợp tại vị trí đa hình của gen CYP2C19. Trường hợp kiểu allele *2/*3 biểu thị cho bệnh nhân mang đồng thời 2 kiểu gen dị hợp của biến thể allele CYP2C19*2 và CYP2C19*3. THẢO LUẬN Hoạt tính của enzyme CYP2C19 đã được chứng minh đóng vai trò chủ chốt trong việc đáp ứng thuốc chống ngưng tập tiểu cầu (Mega et al., 2009). Trong số 24 biến thể đột biến allele đã biết của CYP2C19, các đa hình di truyền CYP2C19*2, CYP2C19*3 và CYP2C19*17 là quan trọng nhất. Các đa hình CYP2C19 thường dẫn đến một protein bị khiếm khuyết hoặc không có chức năng, hoặc enzyme không hoạt động; do đó, việc thiếu khả năng chuyển hóa Clopidogrel thành chất chuyển hóa có hoạt tính dẫn đến đáp ứng đối với tác dụng kháng tiểu cầu giảm dần, gây thất bại trong điều trị và tăng nguy cơ mắc các biến cố tim mạch. Nhiều công trình nghiên cứu đã công bố rằng đa hình *2 (đột biến điểm G681A tại exon 5) gây ra khiếm khuyết khi cắt nối RNA và chấm dứt sớm quá trình tổng hợp protein, và đa hình *3 (chuyển đổi nucleotide G thành A tại vị trí 636) tạo ra mã kết thúc sớm, dẫn đến protein bị cắt ngắn hơn so với ban đầu. Trong khi đó, đột biến CYP2C19*17 (−806C> T, −3402C> T) được biết là làm tăng phiên mã gen (Hagymási et al., 2011). Vì vậy, mục tiêu của nghiên cứu là khảo sát tính đa hình các allele CYP2C19*2, CYP2C19*3 và CYP2C19*17 ở các bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành được chỉ định điều trị bằng thuốc Clopidogrel. Những công bố trên thế giới cho thấy bệnh nhân được dự đoán kiểu hình chuyển hóa kém chiếm khoảng 13% ở người da trắng, 19% ở người châu Phi và 32% dân số châu Á (Martis et al., 2012). Điều này được giải thích bằng tần số của các allele khiếm khuyết (CYP2C19*2 và CYP2C19*3) cao hơn trong các dân tộc ở châu Á so với các dân tộc ở các châu lục khác. Trong nghiên cứu này, tần số allele CYP2C19*2 của người Việt Nam tương đương với các nước khác như Hàn Quốc, Thái Lan và Malaysia cũng như tần số allele trung bình của người châu Á. Tuy nhiên tần số này cao gần gấp đôi so với tần số allele CYP2C19*2 trung bình của người da trắng và người châu Phi – châu Mỹ (Bảng 4). Đặc biệt, nhóm người châu Á có tần số allele khiếm khuyết CYP2C19*3 (0,048) cao hơn đáng kể so với nhóm người da trắng và người châu Phi – châu Mỹ (0,004) (Martis et al., 2012). Ngược lại, kiểu hình chuyển hóa thuốc cực nhanh của bệnh nhân sở hữu đa hình CYP2C19*17 ở châu Âu cao hơn rất nhiều so với châu Á, trong đó có Việt Nam. Sự thay đổi rõ rệt trong hoạt động của enzyme CYP2C19 biểu hiện từ gen CYP2C19*17 trong quá trình chuyển hóa thuốc là do đột biến −3402C> T và đột biến −806C> T nằm trong vùng điều hòa phiên mã của gen, dẫn đến sự tăng cường hoạt động phiên mã (Anichavezhi et al., 2012). Ngoài ra, giới hạn tần số allele CYP2C19*17 và không có mẫu nào ở dạng đồng hợp *17/*17 cho thấy allele này không phải là Nguyễn Hải Hà et al. 46 yếu tố quan trọng quyết định sự biến đổi hoạt động của CYP2C19 ở người Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu này rất có lợi trong việc hoạch định chiến lược thực hiện liệu pháp chống ngưng tập tiểu cầu cá thể hóa ở Việt Nam. Năm 2011, Hiệp hội thực hiện Dược động học lâm sàng - Viện Nghiên cứu Dược phẩm Quốc gia của Hoa Kỳ đã thiết lập các hướng dẫn bắt đầu điều trị bằng Clopidogrel dựa trên việc dự đoán các kiểu hình chuyển hóa (Scott et al., 2011). Theo đó, phương pháp thay thế như Prasugrel hoặc Ticagrelor được khuyến nghị áp dụng cho những bệnh nhân chuyển hóa kém Clopidogrel. Nhiều nghiên cứu lâm sàng đã chứng minh sự thay đổi của enzyme CYP2C19 đối với chuyển hóa thuốc tạo nên sự khác biệt rõ rệt giữa các cá nhân về nồng độ trong huyết tương, từ đó đề xuất liều dùng Clopidogrel cho bệnh nhân. Trong bối cảnh các thuốc chống ngưng tập tiểu cầu mới có giá thành cao và nguy cơ xuất huyết lớn, đồng thời Clopidogrel đã được sản xuất ở dạng thuốc tương tự biệt dược gốc, việc xác định các bệnh nhân đáp ứng kém với Clopidogrel (dựa trên các xét nghiệm chức năng tiểu cầu hoặc kiểu gen) để quyết định cho họ tăng liều Clopidogrel hay sử dụng các thuốc mới, cũng như sử dụng liều Clopidogrel chuẩn với những bệnh nhân đáp ứng tốt là đặc biệt quan trọng. Để đạt được hiệu quả chống ngưng tập tiểu cầu ổn định như mong muốn ở những bệnh nhân mang allele bất thường về chuyển hóa Clopidogrel, Prasugrel và Ticagrelor có thể nên được ưu tiên hơn là dùng liều cao Clopidogrel. Nguyên nhân là do Prasugrel không được chuyển hóa bằng CYP2C19 như Clopidogrel (Wiviott et al., 2007) và Ticagrelor có tác dụng ức chế trực tiếp thụ thể P2Y12 mà không cần qua quá trình hoạt hóa, do đó không phụ thuộc vào các enzyme Cytochrome P450 (Damman et al., 2011). Đồng thời, Prasugrel và Ticagrelor khởi phát hoạt động nhanh và tác dụng ức chế ngưng tập tiểu cầu mạnh hơn và bền vững hơn Clopidogrel. Bảng 4. Biến thể CYP2C19 (*1, *2, *3 và *17) của các dân tộc trên thế giới. Dân tộc Số lượng mẫu Tần số các allele của CYP2C19 Trích dẫn *1 *2 *3 *17 Việt Nam 96 0,677 0,281 0,031 0,011 Nghiên cứu hiện tại Trung Quốc 400 0,697 0,247 0,033 0,012 Chen et al., 2008 Nhật Bản 265 0,579 0,279 0,128 0,013 Sugimoto et al., 2008 Hàn Quốc 377 0,640 0,280 0,080 - Lee et al., 2007 Thái Lan 1051 0,627 0,270 0,060 0,043 Sukasem et al., 2013 Malaysia 142 0,660 0,280 0,060 - Pang et al., 2004 Iran 200 0,860 0,140 0,000 - Zand et al., 2007 Châu Á 250 0,614 0,276 0,048 0,062 Martis et al., 2012 Người da trắng 250 0,696 0,132 0,004 0,158 Martis et al., 2012 Bồ Đào Nha 250 0,612 0,116 - 0,272 Kurzawski et al., 2006 Na Uy 664 0,593 0,181 0,006 0,220 Rudberg et al., 2008 Châu Phi – châu Mỹ 250 0,594 0,194 0,004 0,182 Martis et al., 2012 Lời cảm ơn: Công trình được thực hiện với kinh phí được tài trợ bởi đề tài “Nghiên cứu đa dạng di truyền các gen Cytochrome 450 CYP2C9, CYP2C19 và CYP2D6 trên các nhóm người Việt Nam khỏe mạnh và bệnh nhân ung thư vú” (mã số 106-YS.02.-2014.30) thuộc hướng Khoa học sự sống – Y sinh Dược học của Quỹ Phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ambrose JA, Singh M (2015) Pathophysiology of Tạp chí Công nghệ Sinh học 18(1): 41-48, 2020 47 coronary artery disease leading to acute coronary syndromes. F1000Prime Rep 7: 08. Anichavezhi D, Chakradhara Rao US, Shewade DG, Krishnamoorthy R, Adithan C (2012) Distribution of CYP2C19*17 allele and genotypes in an Indian population. J Clin Pharm Ther 37(3): 313–318. Chen L, Qin S, Xie J, Tang J, Yang L, Shen W, Zhao X, Du J, He G, Feng G, He L, Xing Q (2008) Genetic polymorphism analysis of CYP2C19 in Chinese Han populations from different geographic areas of mainland China. Pharmacogenomics 9(6): 691–702. Chen ZM, Jiang LX, Chen YP (2005) Addition of clopidogrel to aspirin in 45 852 patients with acute myocardial infarction: randomised placebo- controlled trial. Lancet 366: 1607–1621. Damman P, Woudstra P, Kuijt WJ, de Winter RJ, James SK (2011) P2Y12 platelet inhibition in clinical practice. J Thromb Thrombolysis 33(2): 143–153. GBD 2015 disease and injury incidence and prevalence collaborators (2016) Global, regional, and national incidence, prevalence, and years lived with disability for 310 diseases and injuries, 1990-2015: a systematic analysis for the global burden of disease study 2015. Lancet 388(10053): 1545–1602. Hagymási K, Müllner K, Herszényi L, Tulassay Z (2011) Update on the pharmacogenomics of proton pump inhibitors. Pharmacogenomics 12(6): 873–888. Kurzawski M, Gawrońska‑ Szklarz B, Wrześniewska J, Siuda A, Starzyńska T and Droździk M (2006) Effect of CYP2C19*17 gene variant on Helicobacter pylori eradication in peptic ulcer patients. Eur J Clin Pharmacol 62: 877–880. Lee SS, Lee SJ, Gwak J, Jung HJ, Thi-Le H, Song IS, Kim EY, Shin JG (2007) Comparisons of CYP2C19 genetic polymorphisms between Korean and Vietnamese populations. Ther Drug Monit 29(4): 455–459. Martis S, Peter I, Hulot JS, Kornreich R, Desnick RJ, Scott SA (2012) Multi-ethnic distribution of clinically relevant CYP2C genotypes and haplotypes. Pharmacogenomics 13(4): 369–377. Mega JL, Close SL, Wiviott SD, Shen L, Hockett RD, Brandt JT, Walker JR, Antman EM, Macias W, Braunwald E, Sabatine MS (2009) Cytochrome P450 polymorphisms and response to Clopidogrel. N Engl J Med 360(4): 354–362. Nguyễn Thị Thúy Mậu, Vũ Ngọc Trung, Nguyễn Hữu Hiếu, Nguyễn Thanh Thúy, Vũ Thị Thơm, Đinh Đoàn Long, Trịnh Hoàng Hà (2017) Bước đầu đánh giá mối liên quan giữa đa hình gen CYP2C19 và độ ngưng tập tiểu cầu trên bệnh nhân nhồi máu cơ tim cấp tại một số bệnh viện ở Hà Nội. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược 33(2): 68–74. Pang YS, Wong LP, Lee TC, Mustafa AM, Mohamed Z, Lang CC (2004) Genetic polymorphism of Cytochrome P450 2C19 in healthy Malaysian subjects. Br J Clin Pharmacol 58(3): 332–335. Quách Hữu Trung (2014) Nghiên cứu tình trạng kháng Aspirin ở bệnh nhân có yếu tố nguy cơ tim mạch cao. Luận án Tiến sĩ Y học, Viện Nghiên cứu Khoa học Y Dược Lâm sàng 108, Bộ Quốc Phòng, tr. 49-50. Rudberg I, Mohebi B, Hermann M, Refsum H and Molden E (2008) Impact of the ultrarapid CYP2C19*17 allele on serum concentration of escitalopram in psychiatric patients. Clin Pharmacol Ther 83: 322–327. Sabatine MS, Cannon CP, Gibson CM, López- Sendón JL, Montalescot G, Theroux P, Claeys MJ, Cools F, Hill KA, Skene AM, McCabe CH, Braunwald E (2005) Addition of Clopidogrel to Aspirin and fibrinolytic therapy for myocardial infarction with ST-segment elevation - CLARITY- TIMI 28 Investigators. N Engl J Med 352: 1179– 1189. Scott SA, Sangkuhl K, Gardner EE, Stein CM, Hulot JS, Johnson JA, Roden DM, Klein TE, Shuldiner AR (2011) Clinical Pharmacogenetics Implementation Consortium: Clinical Pharmacogenetics Implementation Consortium Guidelines for Cytochrome P450-452C19 (CYP2C19) genotype and Clopidogrel therapy. Clin Pharmacol Ther 90(2): 328–332. Sugimoto K, Uno T, Yamazaki H, Tateishi T (2008) Limited frequency of the CYP2C19*17 allele and its minor role in a Japanese population. Br J Clin Pharmacol 65(3): 437–439. Sukasem C, Tunthong R, Chamnanphon M, Santon S, Jantararoungtong T, Koomdee N, Prommas S, Puangpetch A, Vathesatogkit P (2013) CYP2C19 polymorphisms in the Thai population and the clinical response to clopidogrel in patients with atherothrombotic-risk factors. Pharmgenomics Pers Med 6: 85–91. Vũ Thị Thơm, Vũ Phương Thảo, Vũ Ngọc Trung, Nguyễn Hải Hà et al. 48 Nguyễn Thị Thúy Mậu (2018) Mối liên quan giữa độ ngưng tập tiểu cầu với kiểu gen CYP2C19*2, CYP2C19*3 và một số yếu tố khác trên 54 bệnh nhân đau thắt ngực không ổn định tại Viện Tim mạch Việt Nam. Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Khoa học Y Dược 34(1): 74–81 Wiviott SD, Trenk D, Frelinger AL, O'Donoghue M, Neumann FJ, Michelson AD, Angiolillo DJ, Hod H, Montalescot G, Miller DL, Jakubowski JA, Cairns R, Murphy SA, McCabe CH, Antman EM, Braunwald E (2007) PRINCIPLE-TIMI 44 Investigators: Prasugrel compared with high loading - and maintenance - dose Clopidogrel in patients with planned percutaneous coronary intervention: the Prasugrel in comparison to Clopidogrel for inhibition of Platelet activation and aggregation - thrombolysis in myocardial infarction 44 trial. Circulation 116(25): 2923–2932. Yusuf S, Zhao F, Mehta SR, Chrolavicius S, Tognoni G, Fox KK (2001) Effects of Clopidogrel in addition to Aspirin in patients with acute coronary syndromes without ST-segment elevation. N Engl J Med 345: 494–502. Zand N, Tajik N, Moghaddam AS, Milanian I (2007) Genetic polymorphisms of Cytochrome P450 enzymes 2C9 and 2C19 in a healthy Iranian population. Clin Exp Pharmacol Physiol 34(1–2): 102–105. STUDYING OF CYP2C19*2, *3 AND *17 POLYMORPHISM IN VIETNAMESE PATIENTS WITH CORONARY ARTERY DISEASE Nguyen Hai Ha1,2, Le Thi Bich Thao3, Nguyen Thi Thanh Hoa1, Le Thi Thu Hien1,2 1Institute of Genome Research, Vietnam Academy of Science and Technology 2Graduate University of Science and Technology, Vietnam Academy of Science and Technology 3Institute of Biotechnology, Vietnam Academy of Science and Technology SUMMARY Coronary artery disease is the most common type of cardiovascular disease, due to the accumulation of atherosclerotic plaque inside the arterial wall which leads to block blood supply to the heart muscle. A number of clinical trials have demonstrated that Clopidogrel is able to inhibit platelet aggregation in patients with acute coronary syndromes, reduce mortality and cardiovascular events. However, the antiplatelet effectiveness of Clopidogrel significantly depends on CYP2C19 genotypes. Therefore, the aim of this study was to identify the CYP2C19*2, *3 and allele frequencies in Vietnamese coronary artery patients by using PCR-RFLP method. Total genomic DNA were extracted from peripheral blood of 96 patients diagnosed with coronary artery disease. Thereafter, single nucleotide polymorphism sites in the CYP2C19 gene were identified by PCR with specific primers. The amplified products were then digested by restriction enzymes SmaI, BamHI, and MnlI, respectively. The results showed that the proportion of heterozygous individuals for CYP2C19*2 (c. 681G>A, rs4244285), CYP2C19*3 (c. 636G>A, rs4986893), and CYP2C19*17 (g. -3402C>T, rs11188072) accounted for 39.58%, 6.25%, and 2.08%, respectively. Among 96 subjects, 41.67% of patients were predicted for intermediate metabolic phenotype CYP2C19*1/*2 (37.50%) and CYP2C19*1/*3 (4.17%). Approximately 10.42% of total patients represented poor metabolizers in which 8.34% had two copies of the same allele *2/*2 and 2.08% had *2/*3 genotype. Particularly, two individuals (2.08%) detected with CYP2C19*1/*17 genotype were able to increase CYP2C19 activity (ultrarapid metabolizers). The results of this study generate a foundation for introducing individualized antiplatelet therapy in Vietnam based on genetic testing. Keywords: Coronary artery disease, Clopidogrel metabolism, CYP2C19 gene polymorphism

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_da_hinh_kieu_gen_cyp2c192_3_va_17_tren_nguoi_viet.pdf
Tài liệu liên quan