Nghiên cứu phân bố Polyp tuyến đại – trực tràng theo vị trí và kích thước của Polyp
1/3 số trường hợp bệnh nhân của chúng tôi có
nhiều hơn 1 polyp trên nội soi. Do đó khi nội soi
đại tràng và phát hiện được polyp cần chú ý kiểm
tra sự hiện diện của polyp phối hợp hoặc đề nghị
bệnh nhân nội soi lại để tìm tổn thương phối hợp
trong những trường hợp không thể khảo sát toàn
bộ khung đại tràng do khó khăn về kỹ thuật hoặc
do khâu chuẩn bị đại tràng chưa tốt. Điểm lý thú
của nghiên cứu này là cho thấy polyp tuyến có
một số phân bố đặc biệt theo tuổi, vị trí và kích
thước so với các polyp có bản chất không phải mô
tân sinh: tuổi của người bị polyp tuyến cao hơn
hẳn có ý nghĩa thống kê so với các polyp có bản
chất không phải mô tân sinh (non-neoplastic
polyp). Ở lứa tuổi trên 50 thì khi bắt gặp polyp
trên nội soi thì khả năng gặp polyp tuyến là 100%
(với độ tin cậy 95%). Về phân bố theo vị trí thì các
polyp tuyến cũng chiếm đa số ở bất kỳ vị trí nào
trên khung đại tràng và ở tất cả các phân nhóm
theo kích thước, trong khi các polyp có bản chất
không phải mô tân sinh chỉ gặp ở trực tràng – đại
tràng chậu hông và thường có kích thước nhỏ. Vì
vậy khi gặp một polyp ở đại tràng đoạn gần thì có
thể gần như chắc chắn rằng đây là polyp tuyến.
Trong nghiên cứu này chúng tôi gặp 4 trường
hợp polyp ung thư hóa với kích thước từ trong
nhóm > 5-20mm (2,6%). Theo y văn thì các polyp
tuyến có kích thước càng lớn thì tỉ lệ ung thư hóa
càng cao. Kết quả của nghiên cứu của chúng tôi
có sự khác biệt: không có trường hợp ung thư
phát hiện trong nhóm này là do phần lớn các tổn
thương > 20mm tại bệnh viện chúng tôi thường
được mô tả ở dạng u sùi có những đặc điểm nghi
ngờ ung thư hóa và được chẩn đoán nội soi là
ung thư. Chúng tôi chưa ghi nhận được trường
hợp polyp ung thư hóa nào có kích thước ≤ 5mm.
Y văn trong nước và thế giới đều khá thống nhất
ở thái độ cần xử trí ngay các polyp có kích thước
>5mm do nhiều khả năng là polyp tuyến và một
số trường hợp đã có thể chuyển thành ung thư
như 4 trường hợp chúng tôi đã gặp trong nghiên
cứu này. Tuy vậy, thái độ xử trí các polyp dưới
5mm còn chưa thống nhất. Tại Nhật cũng có 2
trường phái: một đề xuất xử trí ngay, trường phái
còn lại đề xuất nội soi kiểm tra lại sau 4-5 năm(6).
Yếu tố ủng hộ cho quan điểm của trường phái
không xử trí ngay mà nên theo dõi là do nghiên
cứu tiền cứu cho thấy cần phải mất trung bình 10
năm để 1 polyp tuyến có kích thước nhỏ hơn
10mm phát triển thành ung thư xâm lấn.
7 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 118 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu phân bố Polyp tuyến đại – trực tràng theo vị trí và kích thước của Polyp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
244
NGHIÊN CỨU PHÂN BỐ POLYP TUYẾN ĐẠI – TRỰC TRÀNG
THEO VỊ TRÍ VÀ KÍCH THƯỚC CỦA POLYP
Quách Trọng Đức*, Nguyễn Thúy Oanh**
TÓM TắT
Mục tiêu: Phân tích đặc điểm mô bệnh học của polyp tuyến đại – trực tràng theo vị trí và kích thước
của polyp nhằm đề xuất cách xử trí polyp đơn giản.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu, mô tả cắt ngang tiến hành trên các bệnh nhân đến nội soi đại
tràng và được cắt polyp qua nội soi tại bệnh viện Đại Học Y Dược từ 11/2006 – 06/2007. Ghi nhận đặc điểm
tuổi, giới, đặc điểm nội soi, mô bệnh học và biến chứng khi cắt polyp qua nội soi. Sử dụng phần mềm SPSS
13.0 để quản lý dữ liệu. Sử dụng các phép đếm tần suất để mô tả các tỉ lệ, trung bình và phân tích phương
sai một yếu tố để so sánh tuổi giữa các nhóm bệnh nhân có polyp tuyến, polyp tuyến có nguy cơ cao (polyp
có thành phần tuyến nhung mao hoặc tuyến ống kèm nghịch sản) với các polyp khác.
Kết quả: Polyp tuyến thường gặp ở lứa tuổi 58 ± 16 cao hơn tuổi của bệnh nhân có polyp có bản chất
không phải mô tân sinh (non-neoplastic polyp) là 34 ± 16 (p < 0,0001). Polyp tuyến chiếm đa số ở mọi phân
nhóm theo kích thước polyp với tỉ lệ chung là 87,2% (136/156). Polyp tuyến nguy cơ cao có tỉ lệ tăng dần
theo kích thước: tỉ lệ tương ứng với kích thước ≤ 5mm, 6-10mm, 11-20mm và > 20mm lần lược là: 7%,
26,2%, 85,2% và 87,5%. Có 2,8% (4/156) trường hợp polyp ung thư hóa. Các polyp ở người trên 50 tuổi,
gặp ở đoạn đại tràng gần (ngoài trực tràng – đại tràng chậu hông) đều là polyp tuyến trong khi các polyp có
bản chất không phải mô tân sinh chỉ gặp ở vùng trực tràng – đại tràng chậu hông.
Kết luận: Phân tích phân bố theo vị trí và kích thước của polyp tuyến góp phần cung cấp những thông
tin giá trị giúp hướng dẫn thái độ tiếp cận xử trí polyp qua nội soi.
SUMMARY
THE DISTRIBUTION OF COLORECTAL ADENOMAS ACCORDING TO THEIR SIZES AND
LOCATIONS
Quach Trong Duc, Nguyen Thuy Oanh* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 11 - No 4 - 2007: 242 - 247
Aim: Analyze the distribution of colorectal adenomas according to their sizes and locations.
Methods: A prespective, cross-sectional study was conducted at the University Medical Center on
patients who underwent colonoscopy with polypectomy from November 2006 to June 2007. Age, sex,
endoscopic and histopathologic characteristics, and complications of polypectomy were recorded.
Results: The mean age of patients with colorectal adenoma was 58 ± 16, significantly higher than that of
patients with non-neoplastic polyps. Adenoma made up 87.2% in our study sample and had the highest percentage
in all size ranges. The rates of high risk adenomas (adenoma with villous component or with dysplasia) were 7%,
26.2%, 85.2% and 87.5% in polyps with diameter ≤ 5mm, 6-10mm, 11-20mm and > 20mm, respectively. There
were 4 patients (2.8%) with malignant polyps. All polyps in the proximal colon and in patients who is older than 50
are adenomas. Non-neoplastic polyps were only found in sigmoid-rectal region.
Conclusion: Analyze the distribution of colorectal adenomas according to their sizes and locations
provides useful information for endoscopic management strategy.
* Bộ môn Nội - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh ** Bộ môn Ngoại - Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
245
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mối liên quan giữa polyp tuyến và ung thư
đại – trực tràng đã được khẳng định chắc chắn.
Cắt polyp tuyến qua nội soi đã chứng minh hiệu
quả làm giảm đến 90% tỉ lệ bệnh mới mắc ung
thư đại – trực tràng(11). Do hầu hết ung thư đại –
trực tràng đều xuất phát từ polyp tuyến và cũng
vì polyp tuyến và ung thư đại – trực tràng ở giai
đoạn sớm thường không có triệu chứng(7), cần
phải có chương trình tầm soát để mới có thể
phòng và phát hiện được bệnh ở giai đoạn sớm.
Chiến lược tầm soát được chứng minh là hiệu
quả và được ưu tiên chọn lựa hàng đầu hiện nay
là nội soi đại tràng mỗi 10 năm(1). Chính vì vậy
nhu cầu nội soi đại tràng sẽ tăng lên. Những
phương tiện máy móc ngày càng hiện đại như nội
soi phóng đại (magnifying endoscopy), nội soi
băng tần hẹp (Narrow band imaging system) và
nội soi tiêu điểm (confocal endoscopy) giúp
nhận biết đặc điểm mô học của tổn thương trong
khi soi dựa trên dạng hốc tuyến. Tuy nhiên, các
phương tiện này không phổ biến và khá đắt tiền
nên không thể áp dụng rộng rãi cho một chương
trình tầm soát trong cộng đồng. Cách tiếp cận và
nhận định sơ bộ về bản chất mô bệnh học của
polyp dựa trên đặc điểm nội soi khá cách đơn
giản, không cần máy móc đặc biệt nên có thể áp
dụng một cách rộng rãi. Các nghiên cứu trong
nước trước đây đã bàn nhiều về đặc điểm của các
polyp có nhiều khả năng ung thư như cuống dày,
bề mặt loét, kích thước lớn, biến chứng trong thủ
thuật cắt polyp đại tràng nhưng chưa phân tích
về đặc điểm mô bệnh học của polyp tuyến trong
mối tương quan với vị trí và kích thước của
polyp. Trong nghiên cứu này chúng tôi tập trung
nghiên cứu mối tương quan nêu trên.
ĐốI TƯợNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CứU
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu tiền cứu, mô tả cắt ngang được
tiến hành trên các bệnh nhân đến khám và
được chỉ định nội soi đại tràng tại Bệnh viện
Đại Học Y Dược TP Hồ Chí Minh từ tháng
11/2006 đến tháng 05/2007 và được tiến hành
cắt polyp qua nội soi.
Cách tiến hành
Trên tường trình nội soi nêu đầy đủ về chỉ
định nội soi, tuổi và giới tính của bệnh nhân;
ghi nhận chi tiết về vị trí, kích thước, số lượng
và dạng cuống của polyp. Kích thước của
polyp được ước đoán bằng cách mở hết mức
kềm sinh thiết có độ mở 8mm. Polyp được cắt
với thòng lọng điện hoặc kềm sinh thiết nóng.
Sử dụng máy đốt Olympus PSD 10 với dòng
điện cắt – đốt, cài đặt cường độ ở mức 2-3.
Polyp sau khi cắt sẽ được cố định trong
Formol 10%. Kết quả giải phẫu bệnh được đọc
tại Bộ Môn Giải Phẫu Bệnh, Khoa Y, Đại Học Y
Dược TP Hồ Chí Minh.
Phân tích và xử lý thống kê
Dữ liệu được mã hóa, lưu trữ và xử lý dựa
trên phần mềm SPSS (phiên bản13.0, SPSS Inc,
Chicago, Ill) . Sử dụng các phép đếm tần suất
để mô tả các tỉ lệ, trung bình. Sử dụng phương
pháp phân tích phương sai ANOVA một yếu
tố để so sánh tuổi giữa các nhóm bệnh nhân có
polyp tuyến và các polyp khác. Sự khác biệt
được xem là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05
(kiểm 2 bên).
KẾT QUẢ
- Từ tháng 11/2006 đến tháng 05/2007 có
150 bệnh nhân được phát hiện polyp đại – trực
tràng qua nội soi đại tràng và được cắt qua nội
soi. Biểu hiện lâm sàng thường gặp nhất là đau
bụng dọc khung đại tràng, tiêu ra máu, táo
bón mạn tính, tiêu chảy mạn tính và hội chứng
ruột kích thích.
- Tổng cộng có 335 polyp được cắt qua nội
soi với 156 polyp được gởi xét nghiệm mô bệnh
học. Có 1 trường hợp gặp tai biến xuất huyết
sớm dạng động mạch mức độ nặng khi cắt 1
polyp cuống dài với kích thước khoảng 1,5cm,
cần can thiệp bằng phẫu thuật nội soi cấp cứu; 1
trường hợp thủng bít không có biểu hiện bụng
cấp trên lâm sàng gặp ở 1 polyp không cuống có
chân rộng, đường kính 2,5cm , được xác định
246
trong phẫu thuật để điều trị tận gốc do kết quả
mô bệnh học là ung thư xâm lấn. Không có
trường hợp nào tử vong.
- Tuổi trung bình của bệnh nhân trong
nhóm nghiên cứu là 53 ± 18 với tỉ lệ nam: nữ là
1,3:1. Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân có
polyp tuyến là 55 ± 17 cao hơn nhóm bệnh
nhân bị các polyp có bản chất không phải mô
tân sinh (nonneoplastic polyp) là 34 ± 17 (p <
0,0001). Tuổi trung bình của nhóm bệnh nhân
có polyp có thành phần tuyến nhung mao hoặc
polyp tuyến ống có kèm nghịch sản là 56 ± 16
với độ tuổi nhỏ nhất là 24 (biểu đồ 1).
Đặc điểm nội soi và mô bệnh học
- Có 36,5% trường hợp có nhiều hơn 1
polyp và 76,3% các trường hợp có kích thước
polyp nhỏ hơn hoặc bằng 10mm (bảng 1).
- Tất cả các polyp ở manh tràng đến đại
tràng xuống đều có bản chất là polyp tuyến.
Các polyp không có bản chất mô tân sinh
trong nghiên cứu này chỉ gặp ở đoạn trực
tràng và đại tràng chậu hông nhưng cũng với
tỉ lệ khá thấp: 16/116 trường hợp. (biểu đồ 2).
- Đại đa số các polyp có bản chất mô bệnh
học là polyp tuyến và có 4 trường hợp là polyp
ung thư hóa (bảng 2).
- Tỉ lệ polyp tuyến: đều chiếm đa số trong
các mức độ kích thước. Tỉ lệ này tăng dần theo
kích thước polyp và đạt 100% ở các polyp có
kích thước ≥ 2cm (biểu đồ 3).
Biểu đồ 1: Phân bố tuổi của bệnh nhân bị polyp đại
– trực tràng:
- Tỉ lệ nghịch sản cũng tăng dần theo thành
phần tuyến nhung mao của polyp: 22/106
trường hợp polyp tuyến ống, 11/19 trường hợp
polyp tuyến ống – nhung mao và 9/11 trường
hợp polyp tuyến nhung mao. (p<0,001).
Bảng 1: Đặc điểm nội soi của polyp đại – trực tràng
N (%)
1 99 (63,5)
2-3 39 (25)
4-9 11 (7)
Số lượng polyp ở mỗi
trường hợp:
≥ 10 7 (4,5)
≤ 5mm 55 (35,3)
6 – 10 mm 64 (41)
11 – 20 mm 27 (17,3) Kích thước polyp
> 20 mm 09 (5,8)
Có cuống 66 (42,3) Cuống polyp
Không cuống 90 (57,7)
Trực tràng 66 (42,4)
Đại tràng chậu
hông
40 ((25,6)
Đại tràng xuống 9 (5,8)
Đại tràng ngang 18 (11,5)
Đại tràng lên 20 (12,8)
Vị trí của polyp gởi
làm thử nghiệm mô
bệnh học
Manh tràng 3 (1,9)
Bảng 2: Đặc điểm mô bệnh học của polyp đại –
trực tràng
Đặc ñiểm mô bệnh học của polyp N %
Ung thư 4 (2.6)
Polyp tuyến ống
- Nghịch sản nhẹ
- Nghịch sản vừa
- Nghịch sản nặng
106
7
13
2
(67.9)
Polyp tuyến ống nhung mao
- Nghịch sản nhẹ
- Nghịch sản vừa
- Nghịch sản nặng
19
2
9
0
(12.2)
Polyp tuyến nhung mao
- Nghịch sản nhẹ
- Nghịch sản vừa
- Nghịch sản nặng
11
1
4
4
(7.1)
Polyp tăng sản 12 (7.7)
Polyp viêm 1 (0.6)
Polyp tồn dư 3 (1.9)
Polyp khácPolyp tuyến nghịch
sản / polyp tuyến
nhung mao
Polyp tuyến không
nghịch sản và không
có thành phần tuyến
nhung mao
100
80
60
40
20
0
Tu
ổ
i
247
0% 20% 40% 60% 80% 100
%
trực tràng
ĐT chậu
hông
ĐT ñoạn
gần
Polyp khác
Polyp tuyến
Ung thư
Biểu đồ 2: Phân bố theo vị trí của polyp tuyến đại
– trực tràng
0% 20% 40% 60% 80% 100
%
trực tràng
ĐT chậu
hông
ĐT ñoạn
gần
Polyp khác
Polyp tuyến
Ung thư
Biểu đồ 3: Tỉ lệ của polyp tuyến đại – trực tràng
theo kích thước polyp
0% 20% 40% 60% 80% 100%
< =5
6 -- 10
11 -- 20
> 20
Biểu đồ 4: Phân bố polyp tuyến nhung mao / kèm
nghịch sản theo kích thước polyp
BÀN LUẬN
Ung thư đại – trực tràng cũng là một
ung thư rất thường gặp ở nước ta, đứng
hàng thứ 4 ở nam giới và thứ 5 ở nữ
giới(4). Tần suất bệnh mới tại Việt Nam cũng
như các nước châu Á trong thời gian gần đây
đang có chiều hướng gia tăng nhanh(4,8).
Nghiên cứu này cho thấy lứa tuổi bệnh nhân
có thể phát hiện polyp tuyến là 58 (42-74),
(khoảng tin cậy 95%), riêng đối với các trường
hợp polyp tuyến ống có kèm nghịch sản hoặc
polyp tuyến nhung mao là thì lứa tuổi vào
khoảng 58 (44 – 72), (khoảng tin cậy là 95%).
Do chưa có trị số tham khảo để tiến hành tầm
soát ung thư đại – trực tràng trong cộng đồng,
trị số này có thể tạm xem là một chỉ dẫn lâm
sàng để từ đó tiến hành một nghiên cứu tầm
soát ung thư đại trực tràng trong cộng đồng
không có triệu chứng ở đối tượng từ 42 - 44 trở
lên, có chú ý đến tiền căn bản thân / gia đình bị
ung thư và polyp tuyến đại – trực tràng để lập
chế độ theo dõi riêng ở nhóm này. Nghiên cứu
tầm soát này cần phải tiến hành với cỡ mẫu
lớn nhằm thu hẹp khoảng tuổi tin cậy, từ đó
giúp đưa ra hướng dẫn tầm soát bệnh ở thực
tế Việt Nam. Những điểm cần lưu ý khi sử
dụng mốc tuổi được đề xuất trong nghiên cứu
này vào thực hành lâm sàng là: (i) nghiên cứu
này tiến hành dựa trên những người có triệu
chứng lâm sàng chứ không phải trên cộng
đồng gồm những người không có triệu chứng
của đường tiêu hóa dưới (ii) yếu tố tiền căn
ung thư gia đình chưa được khai thác chi tiết
trong các bệnh nhân trong lô nghiên cứu nên
chưa lọc riêng ra những đối tượng có thể bị các
hội chứng liên quan đến ung thư đại – trực
tràng di truyền như hội chứng đa polyp tuyến
gia đình (FAP) hay ung thư đại – trực tràng di
truyền không kèm đa polyp (NPHCC).
Tỉ lệ polyp tuyến trong nghiên cứu này chiếm
89,8%. Tỉ lệ này là 80% trên 322 trường hợp được
phát hiện tại bệnh viện Bạch Mai, 60% trên 55
trường hợp phát hiện tại bệnh viện Đại Học Y
Huế và 86,8% trên 226 trường hợp phát hiện tại
bệnh viện Bình Dân và bệnh viện Đại Học Y
Dược(2,5,9). Như vậy nhìn chung polyp tuyến là
dạng thường gặp nhất qua nội soi đại tràng ở
nước ta. Chúng tôi có 2 trường hợp biến chứng
cắt polyp trong số 335 lần xử lý polyp đại – trực
tràng qua nội soi. Tỉ lệ này cũng nằm trong giới
248
hạn cho phép theo y văn là 1,3%(10). Kết quả
nghiên cứu cho thấy thủ thuật cắt polyp qua nội
soi khá an toàn đối với polyp < 10mm, 2 trường
hợp tai biến đều xảy ra ở các polyp có kích thước
> 15mm.
1/3 số trường hợp bệnh nhân của chúng tôi có
nhiều hơn 1 polyp trên nội soi. Do đó khi nội soi
đại tràng và phát hiện được polyp cần chú ý kiểm
tra sự hiện diện của polyp phối hợp hoặc đề nghị
bệnh nhân nội soi lại để tìm tổn thương phối hợp
trong những trường hợp không thể khảo sát toàn
bộ khung đại tràng do khó khăn về kỹ thuật hoặc
do khâu chuẩn bị đại tràng chưa tốt. Điểm lý thú
của nghiên cứu này là cho thấy polyp tuyến có
một số phân bố đặc biệt theo tuổi, vị trí và kích
thước so với các polyp có bản chất không phải mô
tân sinh: tuổi của người bị polyp tuyến cao hơn
hẳn có ý nghĩa thống kê so với các polyp có bản
chất không phải mô tân sinh (non-neoplastic
polyp). Ở lứa tuổi trên 50 thì khi bắt gặp polyp
trên nội soi thì khả năng gặp polyp tuyến là 100%
(với độ tin cậy 95%). Về phân bố theo vị trí thì các
polyp tuyến cũng chiếm đa số ở bất kỳ vị trí nào
trên khung đại tràng và ở tất cả các phân nhóm
theo kích thước, trong khi các polyp có bản chất
không phải mô tân sinh chỉ gặp ở trực tràng – đại
tràng chậu hông và thường có kích thước nhỏ. Vì
vậy khi gặp một polyp ở đại tràng đoạn gần thì có
thể gần như chắc chắn rằng đây là polyp tuyến.
Trong nghiên cứu này chúng tôi gặp 4 trường
hợp polyp ung thư hóa với kích thước từ trong
nhóm > 5-20mm (2,6%). Theo y văn thì các polyp
tuyến có kích thước càng lớn thì tỉ lệ ung thư hóa
càng cao. Kết quả của nghiên cứu của chúng tôi
có sự khác biệt: không có trường hợp ung thư
phát hiện trong nhóm này là do phần lớn các tổn
thương > 20mm tại bệnh viện chúng tôi thường
được mô tả ở dạng u sùi có những đặc điểm nghi
ngờ ung thư hóa và được chẩn đoán nội soi là
ung thư. Chúng tôi chưa ghi nhận được trường
hợp polyp ung thư hóa nào có kích thước ≤ 5mm.
Y văn trong nước và thế giới đều khá thống nhất
ở thái độ cần xử trí ngay các polyp có kích thước
>5mm do nhiều khả năng là polyp tuyến và một
số trường hợp đã có thể chuyển thành ung thư
như 4 trường hợp chúng tôi đã gặp trong nghiên
cứu này. Tuy vậy, thái độ xử trí các polyp dưới
5mm còn chưa thống nhất. Tại Nhật cũng có 2
trường phái: một đề xuất xử trí ngay, trường phái
còn lại đề xuất nội soi kiểm tra lại sau 4-5 năm(6).
Yếu tố ủng hộ cho quan điểm của trường phái
không xử trí ngay mà nên theo dõi là do nghiên
cứu tiền cứu cho thấy cần phải mất trung bình 10
năm để 1 polyp tuyến có kích thước nhỏ hơn
10mm phát triển thành ung thư xâm lấn. Tuy
nhiên với tình hình thực tế ở nước ta, quan điểm
của chúng tôi là xử trí ngay những trường hợp
này vì những lý do như sau: (i) nghiên cứu này
cho thấy trên 85% các trường hợp này là polyp
tuyến (ii) vẫn có một tỉ lệ khoảng 7% đã có kèm
nghịch sản (iii) việc phát hiện lại những polyp
nhỏ như vậy là rất khó khăn và dễ bỏ sót trong
lần nội soi kiểm tra sau (iv) việc tuân thủ nội soi
kiểm tra của bệnh nhân trên thực tế khó đảm bảo
và (v) các polyp có kích thước này có thể xử trí an
toàn và dễ dàng bằng kềm sinh thiết nóng / hoặc
thòng lọng điện loại nhỏ mà không cần làm thử
nghiệm đông cầm máu trước đó trừ trường hợp
bệnh có uống thuốc kháng đông, trong nghiên
cứu này chúng tôi không có trường hợp tai biến
nào ở nhóm bệnh nhân này. Trên thực tế khi phát
hiện polyp với kích thước này trên đường vào,
chúng tôi thường xử trí ngay vì việc tìm lại khi soi
đến manh tràng và đi ra gặp rất khó khăn và tốn
nhiều thời gian. Chúng tôi cho rằng polyp nhỏ ở
trực tràng có thể là một ngoại lệ vì polyp ở vị trí
này dễ tìm lại và ở vị trí này cũng có thể gặp
polyp không có bản chất là mô tân sinh.
KếT LUậN
Polyp tuyến đại – trực tràng chiếm 87,2% các
trường hợp polyp, thường gặp ở lứa tuổi lớn hơn
các polyp không có bản chất là mô tân sinh, chiếm
tỉ lệ gần 100% những trường hợp polyp gặp ở
người trên 50 tuổi và ở đoạn đại tràng gần (ngoài
trực tràng – đại tràng chậu hông). Khả năng
nghịch sản của polyp tuyến tăng dần theo kích
thước và thành phần tuyến nhung mao của polyp.
Chúng tôi đề xuất nên xử trí ngay các polyp có
249
kích thước ≤ 5mm, nhất là polyp ở đại tràng gần
khi phát hiện được ở lần nội soi đầu tiên.
TÀI LIệU THAM KHảO
1. ASGE guideline (2006): colorectal cancer screening and
surveillance, Gastrointestinal Endoscopy; 63(4): 546-54.
2. Kiều Văn Tuấn và cs (2005), Một số đặc điểm lâm sàng, nội
soi, giải phẫu bệnh và kết quả điều trị qua nội soi của bệnh
polyp đại – trực tràng ở bệnh viện Bạch Mai từ 5/2002 –
5/2004, Tập san hội nghị khoa học tiêu hóa toàn quốc lần 11; 13.
3. Leung WK et al (2006), Colorectal neoplasia in Asia: a
multicenter colonoscopy survey in symptomatic patients,
Gastrointestinal Endoscopy; 64(5): 751-757.
4. Nguyễn Chấn Hùng (2007), Hội thảo hàng năm phòng chống
ung thư TP. HCM, Thời sự Y học 13: 42-44.
5. Nguyễn Thúy Oanh (2000), Nghiên cứu chẩn đoán và xử trí
políp - ung thư qua nội soi đại tràng ống mềm, Tóm tắt luận
văn tiến sĩ Y học. 11 -16.
6. Quách Trọng Đức (2006), cách tiếp cận và xử trí polyp đại
trực tràng theo kích thước polyp _ tài liệu dịch từ tạp chí
Endoscopica Digestiva, Tạp chí khoa học tiêu hóa Việt Nam 1(1):
65-66.
7. Stryker SJ, Wolff BG, Culp CE et al (1987), Natural history of
untreated colonic polyps, Gastrenterology, 93: 1009-1013.
8. Sung J JY et al (2005), Increasing incidence of colorectal
cancer in Asia: implications for screening, The Lancet
Oncolog, (6): 871 – 876.
9. Thái Thị Hoài, Trần Văn Huy (2006), Đặc điểm lâm sàng,
nội soi và mô bệnh học của polype đại trực tràng ở bệnh
viện trường đại học Y khoa Huế, Tạp chí khoa học tiêu hóa
Việt Nam 1(3): 86-87.
10. Waye JD (2000), Colonoscopic polypectomy. In: Tytgat, Guido
NJ, Practice of therapeutic endoscopy 2nd ed. Spain: Harcourt
Saunders, 213-235.
11. Winawer SJ, Zauber AG, Ho MN, et al (1993), Prevention of
colorectal cancer by colonoscopic polypectomy: the National
group Study Workgroup. N Eng J Med; 329: 1977-81.
244
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_phan_bo_polyp_tuyen_dai_truc_trang_theo_vi_tri_va.pdf