KẾT LUẬN
Trên cả nhóm người bình thường và nhóm
bệnh nhân, CD64 âm tính trên quần thể lympho
và dương tính mạnh trên mono nên lymp
được xem như là nội chứng âm còn mono là nội
chứng dương.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy sự biểu hiện
CD64 trên quần thể tế bào neutrophil của nhóm
bệnh nhân có bệnh cảnh nhiễm trùng tăng một
cách có ý nghĩa so với nhóm người bình thường:
giá trị trung vị 1012 (IQR: 651 - 1543) so với 385
(IQR: 329 - 452) của nhóm chứng bình thường.
- Với giá trị ngưỡng cut-off của CD64 trên
neutrophil được xác định dựa trên giá trị phân vị
thứ 90 là 482, trong nhóm bệnh nhân có bệnh
cảnh lâm sàng, 90,9% mẫu trong nhóm cấy máu
dương tính và 92,2% mẫu trong nhóm cấy máu
âm tính có giá trị CD64 – MFI trên neutrophil
vượt trên giá trị ngưỡng cut-off. Điều này cho
thấy CD64 là một dấu ấn tiềm năng trong việc
chẩn đoán sớm nhiễm trùng và nhiễm trùng
huyết.
- Cần thực hiện các nghiên cứu tiếp theo để
đánh giá đồng thời giá trị CD64 trên neutrophil
và các xét nghiệm thường quy khác cũng như
các yếu tố lâm sàng nhằm xác định được
ngưỡng cut-off tối ưu, độ nhạy, độ đặc hiệu, giá
trị tiên đoán âm và tiên đoán dương của CD64
riêng lẻ hoặy kết hợp với một xét nghiệm khác
để tìm ra bộ dấu ấn hỗ trợ chẩn đoán nhanh,
chính xác nhiễm trùng và nhiễm trùng huyết.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 260 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu sự biểu hiện CD64 trên quần thể Neutrophil của nhóm người bình thường và nhóm bệnh nhân có bệnh cảnh nhiễm trùng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
63
NGHIÊN CỨU SỰ BIỂU HIỆN CD64 TRÊN QUẦN THỂ NEUTROPHIL
CỦA NHÓM NGƯỜI BÌNH THƯỜNG VÀ NHÓM BỆNH NHÂN
CÓ BỆNH CẢNH NHIỄM TRÙNG
Hà Thị Thu*, Trần Thị Mỹ Hạnh**, Nguyễn Văn Lộc**, Nguyễn Phương Liên***
TÓM TẮT
Mục tiêu ngiên cứu: Phân tích sự biểu hiện của CD64 trên quần thể neutrophil của nhóm người bình
thường và nhóm bệnh nhân có bệnh cảnh nhiễm trùng để đánh giá ý nghĩa của dấu ấn này trong việc chẩn đoán
nhiễm trùng và nhiễm trùng huyết.
Phương pháp nghiên cứu: Mô tả hàng loạt ca. Sử dụng panel CD14 – FITC, CD64 – PE và CD45 –
PerCP và quy trình ly giải – không rửa để nhuộm và xử lý 123 mẫu máu toàn phần của 2 nhóm đối tượng
nghiên cứu: nhóm người bình thường và nhóm bệnh nhân có bệnh cảnh nhiễm trùng, được chỉ định cấy máu.
Sau đó thực hiện phân tích mẫu trên hệ thống máy Flow Cytometry – BD FACSCanto II để thu nhận giá trị
CD64 – MFI.
Kết quả nghiên cứu: Trong cả 2 nhóm đối tượng nghiên cứu thì chỉ số CD64 – MFI trên neutrophil luôn
cao hơn so với lympho và thấp hơn so với trên mono. CD64 – MFI trên neutrophil của nhóm 73 bệnh nhân có
bệnh cảnh nhiễm trùng (Median: 1012; IQR: 651 – 1543) cao hơn một cách có ý nghĩa thống kê (P < 0,001) so với
nhóm 50 người bình thường (Median: 385; IQR: 329 – 452). Mặt khác, giá trị MFI – CD64 trên neutrophil của
nhóm cấy máu dương (Median: 892; IQR = 703 – 1269) và cấy máu âm (Median: 1118; IQR: 635 – 1642) không
có sự khác biệt ý nghĩa. Với giá trị ngưỡng cut-off là bách phân vị thứ 90 của CD64 – MFI trên neutrophil của
nhóm người bình thường là 482, 90,9% mẫu trong nhóm cấy máu dương và 92,2% mẫu trong nhóm cấy máu
âm có giá trị cao hơn ngưỡng cut-off.
Kết luận: Trong panel phân tích thì quần thể mono được xem là nội chứng dương còn lympho là nội chứng
âm. CD64 trên neutrophil của nhóm bệnh nhân có bệnh cảnh nhiễm trùng đã tăng đáng kể so với nhóm bình
thường. Điều này chứng tỏ CD64 trên neutrophil là một dấu ấn tiềm năng để chẩn đoán nhiễm trùng hay nhiễm
trùng huyết. Tuy nhiên, cần thực hiện các nghiên cứu tiếp theo để đánh giá đồng thời giá trị CD64 trên
neutrophil và các xét nghiệm khác như tổng bạch cầu, CRP, procalcitonin cũng như các dấu hiệu lâm sàng để xác
định được ngưỡng cut-off tối ưu của CD64 trên neutrophil và đánh giá việc sử dụng dấu ấn này để chẩn đoán
sớm nhiễm trùng hay nhiễm trùng huyết.
Từ khóa: nhiễm trùng, nhiễm trùng huyết, CD64, MFI, neutrophil, flow cytometry
ABSTRACT
CD64 EXPRESSION ON NEUTROPHILS OF NORMAL HEALTHY
AND SUSPECTED INFECTION SUBJECTS
Ha Thi Thu, Tran Thi My Hanh, Nguyen Van Loc, Nguyen Phuong Lien
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - No 2 - 2014: 63 - 70
Objective: Study the expression of surface marker CD64 on neutrophil in healthy and infection or sepsis
suspected subjects and determine the utility of neutrophil CD64 as a diagnostic marker for sepsis or infection.
Materials and methods: Case series. Whole blood of 123 subjects in 2 study groups, healthy and infection
* Trường ĐH Quốc Tế - ĐH Quốc Gia Tp.HCM, ** BV Nhân Dân 115, *** BV. Truyền Máu - Huyết Học
Tác giả liên lạc: Hà Thị Thu ĐT: 0985 339 661 Email: hathu.546@gmail.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
64
suspected group were stained with 3-color reagent panel: CD14 – FITC, CD64 – PE and CD45 – PerCP and
processed by Lyse – No Wash procedure. Prepared samples were then analyzed on Flow Cytometer system – BD
FACSCanto II to get results of CD64 – MFI.
Results: In both 2 study groups, CD64 – MFI on neutrophils was always higher than on lymphocytes but
lower than on monocytes. The CD64 expression on neutrophil between 50 subjects of no - infection and 73
subjects of suspected - infection groups was proven to have a statistically significant change with the interquatile
range of 329 – 452 (median 385) and 651 – 1543 (mean 1012) accordingly (P < 0.001). On the other hand, there
is no significant difference between MFI – CD64 on neutrophil of positive blood culture patient group (Median:
892; IQR = 703 – 1269) and negative blood culture patient group (Median: 1118; IQR: 635 – 1642). As compared
to cut off value, 482, determined from 90th percentile of MFI – CD64 on neutrophil of healthy group, 90.9% of
samples in positive blood culture group and 92.2 of samples in negative blood culture group presented MFI –
CD64 higher than cut-off value.
Conclusion: In panel analyzed, monocyte population is considered as positive internal control whereas
lymphocyte works as negative internal control. For CD64 expression on neutrophil, infection group presented
statically significant increase in comparison to healthy group. This result might prove that neutrophil CD64 will
be a very promising infection biomarker. However, validation in large studies to define strict cut-off value and to
see the correlation between CD64 assay and other infection tests is required before neutrophil CD64 can be
recommended as an infection biomarker for routine use for infection or sepsis diagnosis.
Keywords: infection, sepsis, CD64, flow cytometry, neutrophil
ĐẶT VẤN ĐỀ
Cho đến nay, kết quả của các nhà điều tra
dịch tễ học cho thấy nhiễm trùng hoặc nhiễm
khuẩn huyết, sốc nhiễm khuẩn vẫn là những
nguyên nhân chính gây tử vong tại các khoa
điều trị tích cực (11,15,11). Phương pháp nuôi cấy
vi sinh vẫn được coi là “tiêu chuẩn vàng”
trong chuẩn đoán nhiễm trùng nhưng xét
nghiệm này thường có kết quả âm tính giả khi
bệnh nhân đã được sử dụng kháng sinh từ
trước(6,9,11,16). Mặt khác, thời gian có kết quả vi
sinh thường khá dài, trung bình 48 – 72
giờ(1,1,17). Những xét nghiệm khác như tổng số
bạch cầu và định lượng CRP (C – reactive
protein) thường được sử dụng trong chẩn
đoán nhiễm trùng cũng có độ đặc hiệu không
cao(1,15,1). Ngoài ra, CRP còn được xem như là
một dấu ấn “muộn” vì chỉ số này thường tăng
chậm và đạt giá trị cao nhất ở khoảng thời
điểm 36 giờ sau khi tiếp xúc với nội độc tố(17).
Mặc dù, trong những năm gần đây,
Procalcitonin (PCT), được đánh giá cao trong
chẩn đoán phân biệt các trường hợp viêm
nhiễm do vi khuẩn hay do các tác nhân khác
nhưng nhiều tác giả trên thế giới vẫn còn tranh
cãi về giá trị của trị số này(15,16). Vì vậy, việc tìm
kiếm các dấu ấn khác có độ nhạy, độ đặc hiệu
cao để chẩn đoán sớm nhiễm trùng là rất cần
thiết và quan trọng để bảo đảm hiệu quả cho
việc điều trị.
Trong những năm gần đây đã có nhiều công
trình nghiên cứu trên thế giới tập trung vào việc
đánh giá việc sử dụng kháng nguyên CD64 trên
bề mặt tế bào neutrophil để chẩn đoán nhiễm
trùng và nhiễm trùng huyết. Riêng tại Việt Nam
thì theo chúng tôi được biết chưa có công trình
nghiên cứu nào liên quan đến giá trị của dấu ấn
này trong mối tương quan với bệnh nhiễm trùng
hoặc nhiễm trùng huyết được công bố. Do vậy,
chúng tôi thực hiện đề tài này để khảo sát sự
biểu hiện của CD64 trên quần thể tế bào
neutrophil của nhóm người bình thường và
nhóm bệnh nhân có bệnh cảnh nhiễm trùng
nhằm đánh giá ý nghĩa của chỉ số này trong việc
chẩn đoán nhiễm trùng và nhiễm trùng huyết.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
65
Mục tiêu chuyên biệt
- Xác định giá trị CD64 – MFI trên các quần thể
Lympho, mono để đánh giá vai trò của 2 quần thể
này trong panel nghiên cứu và phân tích.
- Xác định giá trị CD64 – MFI trên neutrophil
của nhóm người bình thường. Qua đó, xác định
được giá trị ngưỡng cut-off của chỉ số này.
- So sánh sự biểu hiện của CD64 trên
neutrophil trong nhóm bệnh nhân có bệnh cảnh
nhiễm trùng với nhóm người bình thường.
- Đánh giá mối tương quan của chỉ số CD64
trên neutrophil với việc chẩn đoán nhiễm trùng
hoặc nhiễm trùng huyết dựa trên giá trị cut-off
đã xác định.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Gồm 2 nhóm
- Nhóm 01: người bình thường, không có
bệnh cảnh nhiễm trùng.
- Nhóm 02: bệnh nhân có bệnh cảnh nhiễm
trùng như sốt và/ hoặc có ổ nhiễm trùng, được
chỉ định cấy máu và được theo dõi điều trị tại
BV 115.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Mô tả hàng loạt ca.
Phương pháp tiến hành:
Lấy máu
Mẫu máu toàn phần sử dụng cho nghiên
cứu đánh giá CD64 được lấy cùng thời điểm lấy
máu làm xét nghiệm cấy máu và được lưu trữ
trong ống có chứa chất chống đông EDTA.
Cấy máu
Mẫu máu được cấy trên hệ thống BD Bactec
9120 (Becton and Dickinson Company, USA).
Hình 1: Khoanh vùng phân tích các quần thể tế bào bạch cầu. a) Đồ thị FSC – SSC: loại bỏ nhiễu và quần thể tế
bào eosinophil tự phát quang. b) Đồ thị SSC – CD14 FITC: khoanh vùng quẩn thể mono, dương tính với CD14
FITC. c) Đồ thị SSC – CD45 PerCP sau khi đã loại bỏ quần thể mono: khoanh vùng quần thể neutrophil (SSC
cao và CD45 dương) và quần thể lympho (SSC thấp và CD45 dương tính mạnh). d) Đồ thị SSC – CD64 PE: sự
biểu hiện của CD64 trên cả 3 quần thể mono, neutrophil và lympho và giá trị MFI trên kênh màu PE tương ứng.
Xử lý mẫu phân tích trên hệ thống máy Flow
Cytometry
+ Mẫu người bình thường hoặc bệnh nhân: ủ
50 µl mẫu máu người bình thường hoặc bệnh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
66
nhân được chống đông bằng EDTA với 10 µl
mỗi loại thuốc thử có bản chất là các kháng thể
đơn dòng có đánh dấu huỳnh quang gồm CD14
– FITC, CD64 – PE và CD45 – PerCP (Becton
Dickinson Immunocytometry Systems) trong
điều kiện tránh ánh sáng ở nhiệt độ phòng trong
vòng 15 phút. Sau thời gian 15 phút ủ mẫu với
thuốc thử, thực hiện ly giải hồng cầu với 450 µl
dung dịch BD FACSLysing 1X (Becton
Dickinson Immunocytometry Systems) trong 15
phút ở điều kiện nhiệt độ phòng và tránh ánh
sáng. Sau đó thực hiện chạy mẫu trên hệ thống
máy Flow Cytometry.
+ Mẫu chứng âm để xác định tín hiệu nền
của kênh PE khi không nhuộm với CD64 – PE:
chuẩn bị tương tự như quy trình trên nhưng chỉ
sử dụng 2 thuốc nhuộm CD14 – FITC và CD45 –
PerCP để ủ mẫu.
Thu thập và phân tích mẫu trên hệ thống
Flow Cytometry
Thu thập và phân tích trên phần mềm
FACSDiva 6.0 của hệ thống máy Flow
Cytometry BD FACSCanto II 06 màu (Becton
and Dickinson Company, USA) tại phòng Dấu
Ấn Miễn Dịch của BV Truyền Máu Huyết Học
TP.HCM. Quần thể tế bào Mono được xác định
dựa trên kết quả dương tính với CD14 – FITC
trên đồ thị CD14 – FITC và SSC (tín hiệu tán xạ
bên tương ứng độ phức tạp của tế bào). Sau đó,
khoanh vùng 02 quần thể Neutrophil và
Lympho dựa trên đồ thị CD45 – PerCP và SSC.
Cuối cùng, vẽ đồ thị SSC và CD64 – PE và thể
hiện cả 03 quần thể Mono, Lympho và
Neutrophil trên đồ thị và trên bảng dữ liệu
thống kê tương ứng để xác định giá trị MFI của
từng quần thể tế bào trên kênh màu PE.
Phương pháp thống kê
Thực hiện phân tích dữ liệu trên phần mềm
SPSS 16.0. Tất cả các dữ liệu được thể hiện dưới
dạng giá trị trung vị và khoảng tứ phân vị (IQR).
Sự khác biệt giữa các giá trị trung bình giữa các
nhóm và với ống chứng âm (không nhuộm
CD64 – PE) được đánh giá thông qua phép kiểm
định thống kê Student và χ2 với giá trị P < 0,05.
Định nghĩa biến số
- MFI (median Fluorescence intensity): giá trị
trung vị của cường độ huỳnh quang. Giá trị MFI
càng lớn khi tín hiệu huỳnh quang trên kênh
màu huỳnh quang đó càng lớn và ngược lại.
- IQR (interquartile range): khoảng tứ phân
vị từ tứ phân vị thứ 1 đến tứ phân vị thứ 3
(khoảng cách từ bách phân vị thứ 25 đến bách
phân vị thứ 75).
KẾT QUẢ
Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu
Bảng 1: Đặc điểm chung về tuổi và giới tính của
quần thể nghiên cứu
Nhóm bình thường Nhóm bệnh cảnh
nhiễm trùng
N 50 73
Tỉ số Nam/Nữ 1:1,17 1,08:1
Tuổi trung bình 41 ± 26 46 ± 34
- Tổng số lượng mẫu trong nghiên cứu thực
hiện: 123 mẫu, trong đó:
+ Nhóm người bình thường: 50 mẫu.
+ Nhóm bệnh nhân có bệnh cảnh nhiễm
trùng 73 mẫu được chỉ định cấy máu, gồm:
Nhóm cấy máu dương tính: 22/73 mẫu.
Nhóm cấy máu âm tính: 51/73 mẫu.
- Tỉ số nam/nữ ở cả 2 nhóm tương đương
nhau và không có sự khác biệt mang ý nghĩa
thống kê (~1:1).
- Đối tượng nghiên cứu là người trưởng
thành có độ tuổi trong khoảng 15 – 84 tuổi, với
độ tuổi trung bình là 41 ± 26 tuổi (nhóm 01) và 46
± 34 tuổi (nhóm 02). Độ tuổi khảo sát trên 2
nhóm quần thể nghiên cứu không có sự khác
biệt mang ý nghĩa thống kê.
Kết quả giá trị MFI nền trên kênh huỳnh
quang PE của các ống chứng âm
Bảng 2: Giá trị MFI kênh PE trên 20 ống chứng âm
(không nhuộm hóa chất CD64 – PE)
Quần thể MFI – Trung vị IQR
Mono 182 162 – 203
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
67
Neutro 168 151 – 179
Lympho 141 117 – 165
Giá trị MFI của kênh màu huỳnh quang PE
trên cả 3 quần thể Mono, Neutrophil và Lympho
trong 20 ống chứng âm (mẫu chỉ nhuộm với
CD45 – PerCP và CD14 – FITC, không nhuộm
với CD64 – PE) không có sự khác biệt mang ý
nghĩa thống kê ( P > 0,05).
Kết quả MFI của CD64-PE trên nhóm người
bình thường
Bảng 3: Giá trị CD64 – MFI trên Lympho,
Neutrophil và Mono nhóm bình thường (n =50)
CD64 MFI – trung vị IQR
Mono_CD64 2218 1968 - 2626
Neutro_CD64 385 329 - 452
Lympho_CD64 198 168 - 215
Giá trị CD64 – MFI trên mono luôn đạt giá trị
cao nhất, tiếp đến là neutrophil và cuối cùng,
CD64 – MFI trên lympho là thấp nhất.
Giá trị cut-off của CD64 trên neutrophil
trong phạm vi đề tài được xác định dựa trên giá
trị bách phân vị thứ 90 của CD64 – MFI trên
neutrophil của nhóm người bình thường và
bằng 482.
Kết quả MFI của CD64-PE trên nhóm bệnh
nhân có bệnh cảnh nhiễm trùng
Bảng 4: Giá trị MFI của CD64 - PE trên Lympho,
Neutrophil và Mono nhóm bệnh (n=73).
CD64 MFI - Trung vị IQR P (so sánh
nhóm 01)
Mono_CD64 4094 2988 – 6473 0,018
Neutro_CD64 1012 651 – 1543 < 0,001
Lympho_CD64 233 200 – 263 0,082
- Tương tự nhóm người bình thường, nhóm
bệnh nhân có bệnh cảnh nhiễm trùng cũng có
kết quả CD64 – MFI trên mono đạt giá trị cao
nhất, tiếp đến là neutrophil và cuối cùng trên
lympho thì chỉ số này có giá trị thấp nhất.
- Giá trị MFI của CD64 trên lympho không
có sự khác biệt ý nghĩa trong cả 2 nhóm (P >
0,05) nhưng đối với quần thể mono và
neutrophil thì chỉ số CD64 – MFI của nhóm bệnh
cao hơn nhóm bình thường (P < 0,05).
So sánh MFI của CD64 – PE trên neutrophil
giữa nhóm cấy máu dương và nhóm cấy máu
âm so với giá trị ngưỡng cut-off
Ở cả 2 phân nhóm của nhóm bệnh nhân có
bệnh cảnh nhiễm trùng là nhóm cấy máu dương
và nhóm cấy máu âm thì giá trị CD64 – MFI trên
neutrophil đều cao hơn rõ rệt so với giá trị này
của nhóm người khỏe mạnh. Tuy nhiên, giữa 2
phân nhóm thì không thấy sự khác biệt ý nghĩa
(P = 0,082).
Bảng 5: Kết quả MFI CD64 – PE trên neutrophil
giữa 2 nhóm cấy máu dương và âm
MFI trung vị IQR
Nhóm cấy máu dương 892 703 – 1269
Nhóm cấy máu âm 1118 635 – 1642
Bảng 6: kết quả CD64 – MFI trên neutrophil so với
giá trị ngưỡng
≥ Cut - off < cut-off
Nhóm cấy máu dương
(n = 22)
20/22 (90,9%) 02/22 (9,1%)
Nhóm cấy máu âm
(n = 51)
47/51 (92,2%) 04/51 (7,8%)
BÀN LUẬN
Theo một số báo cáo trên thế giới, sự biểu
hiện của CD64 trên neutrophil của trẻ em và trẻ
sơ sinh khỏe mạnh cũng như trẻ bị nhiễm trùng
thường cao hơn so với nhóm người trưởng
thành(8,18). Mặt khác, Hoffman và cộng sự cũng
đã nhận định chỉ số CD64 nên được khảo sát
riêng biệt giữa nhóm đối tượng trưởng thành và
trẻ em để tránh sự dao động nhiều trong kết quả
phân tích(8). Do vậy, trong nghiên cứu này,
chúng tôi chỉ tập trung khảo sát đối tượng người
trưởng thành, trong đó bao gồm 50 người bình
thường và 73 người có bệnh cảnh nhiễm trùng
được chỉ định cấy máu. Độ tuổi trung bình của
nhóm khảo sát là 44 tuổi, dao động trong
khoảng 15 – 84 tuổi với tỉ lệ nam và nữ tương
đương nhau. Ngoài ra, trong nhóm 73 bệnh
nhân nghi ngờ có bệnh cảnh nhiễm trùng thì có
22 người có kết quả cấy máu dương tính và 51
người có kết quả cấy máu âm tính.
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
68
Kết quả giá trị CD64 – MFI của quần thể
lympho và mono trên 2 nhóm nghiên cứu
Dựa vào bảng kết quả 3.3 và 3.4, chúng tôi
nhận thấy:
- CD64 trên lympho trong nhóm chứng
khỏe mạnh và nhóm có bệnh cảnh nhiễm trùng
đều có giá trị MFI rất thấp và không có sự khác
biệt mang ý nghĩa thống kê của chỉ số này trong
cả 2 nhóm với IQR của nhóm bình thường và
nhóm bệnh nhân lần lượt là: 168 – 215 và 200 –
263 (P = 0,082). Mặt khác, giá trị của CD64 – MFI
trên lympho ở 2 nhóm cũng không khác biệt so
với giá trị nền của ống chứng âm (kết quả bảng
3.2). Do vậy, CD64 được coi là âm tính trên
lympho và nhận định này hoàn toàn phù hợp
với các nghiên cứu khác (3,8,7,11,15,18).
- Ngược lại, trong cả 2 nhóm khảo sát, giá trị
MFI của CD64 – PE trên quần thể mono đều
luôn đạt giá trị cao nhất và cao hơn 10 – 20 lần so
với giá trị MFI của CD64 – PE trên lympho cũng
như so với giá trị nền (kết quả bảng 3.3). Điều
này cho thấy CD64 luôn thể hiện dương tính
mạnh trên quần thể mono và kết quả này tương
thích với các nhận định của Hoffman (2010) và
Hiesmayr MJ (1999). Ngoài ra, giá trị CD64 –MFI
trên mono của nhóm bệnh nhân (IQR: 1968 –
2626) cao hơn so với nhóm chứng khỏe mạnh
(IQR: 2988 - 6473) với P = 0,018. Kết quả này cho
thấy, CD64 trên mono cũng được kích hoạt
trong các trường hợp nhiễm trùng hay nhiễm
trùng huyết. Tuy nhiên, theo Hiesmayr MJ cùng
cộng sự(7), CD64 trên tế bào mono cũng tăng rất
mạnh trong một số trường hợp sau phẫu thuật,
do vậy theo các tác giả này, sự tăng biểu hiện
của CD64 trên mono không đặc hiệu so với trên
neutrophil và CD64-Mono thường chỉ được xem
như là chứng dương trong khi CD64-Lympho
được coi là chứng âm.
Kết quả giá trị CD64 – MFI của quần thể
neutrophil trên 2 nhóm nghiên cứu
Theo kết quả bảng 3.3 và bảng 3.4, đối với
quần thể neutrophil thì trên nhóm người bình
thường, giá trị MFI của CD64 – PE trung vị là
385 (IQR: 329 - 452) nhưng giá trị này đã tăng
đáng kể trên nhóm bệnh nhân có bệnh cảnh
nhiễm trùng với trị số trung vị của nhóm là 1012
(IQR: 651 - 1543). Như vậy, giữa nhóm bệnh
nhân có bệnh cảnh nhiễm trùng và nhóm chứng
khỏe mạnh thì sự biểu hiện của CD64 trên quần
thể tế bào neutrophil đã có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê (P < 0,001). Nhận định này tương
thích với kết quả nghiên cứu của các tác giả trên
thế giới (3,6,9,9,10,111,13, 18). Kết quả này được giải thích
dựa trên bản chất của CD64 – một trong những
thụ thể Fc của IgG, đóng vai trò quan trọng
trong các cơ chế gây độc tế bào phụ thuộc kháng
thể, xóa bỏ các phức hợp miễn dịch, trong hoạt
động thực bào các kháng nguyên đã được
opsonin hóa và điều hòa sự giải phóng các loại
cytokine như IL-1, IL-6 và TNF-α. CD64 thường
biểu hiện mạnh trên các tế bào mono và các đại
thực bào, và hiện diện rất ít trên các tế bào
neutrophil. Tuy nhiên, trong những trường hợp
nhiễm trùng hay nhiễm trùng huyết thì
neutrophil sẽ được kích hoạt vì đây là một trong
những tế bào đầu tiên trong hệ thống miễn dịch
tham gia vào quá trình chống các tác nhân lạ
xâm nhiễm cơ thể và số lượng thụ thể CD64 sẽ
tăng lên đáng kể để hỗ trợ neutrophil thực hiện
hoạt động sinh lý quan trọng: thực bào(6,8,12). Theo
nhiều tác giả trên thế giới thì sự biểu hiện của
CD64 trên neutrophil sẽ tăng lên nhanh trong
vòng 4 – 6 giờ sau khi tiếp xúc với một số thành
phần vách tế bào vi khuẩn như
lipopolysaccharide (LPS) và một số cytokine như
interferon-γ (IFN-γ) hay tác nhân kích thích cụm
tế bào bạch cầu hạt (Granulocyte colony-
stimulating factor =G-CSF)(10,15,28,18).
Giá trị ngưỡng cut-off của CD64 – MFI trên
neutrophil dựa trên nhóm người bình
thường
Giá trị cut-off của CD64 trên neutrophil dựa
trên đơn vị MFI đã được nhiều tác giả trên thế
giới sử dụng như Dankilas (2008) và Dilli (2010).
Ngoài ra, để thu nhận được chỉ số MFI này
không đòi hỏi sử dụng các hạt bead chuẩn hay
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014 Nghiên cứu Y học
69
các phần mềm và hóa chất chuyên biệt khá đắt
tiền như một số đơn vị khác, ví dụ số lượng
phân tử/tế bào (8,13) và “CD64 index”(4,8).
Mặt khác, để tính được giá trị cut-off tối ưu
thì chúng tôi nên xây dựng đường cong ROC
(Receiver operating characteristic) thể hiện độ
nhạy và độ đặc hiệu của xét nghiệm CD64 này
đối với từng giá trị cut-off. Tuy nhiên, do đề tài
nghiên cứu này chỉ giới hạn ở việc khảo sát giá
trị CD64 dựa trên kết quả cấy máu và bệnh cảnh
lâm sàng ban đầu mà chưa đánh giá và so sánh
tương quan với các xét nghiệm khác và các chỉ
tiêu lâm sàng khác để chẩn đoán nhiễm trùng và
nhiễm trùng huyết nên chúng tôi chưa xác định
được độ nhạy, độ đặc hiệu của xét nghiệm CD64
và vẽ ROC để xác định giá trị cut-off tối ưu. Do
vậy, trong phạm vi đề tài, chúng tôi đã xác định
giá trị cut-off dựa trên giá trị bách phân vị thứ 90
của CD64 – MFI trên neutrophil của nhóm người
bình thường là 482. Tuy nhiên, giá trị cut-off này
không tương ứng với giá trị cut-off mà Dankilas
(2008) và Dilli (2010) đã đưa ra trong nghiên cứu
của mình với trị số lần lượt là 2.8 và 87.7. Điều
này được giải thích là do sự khác biệt về hệ
thống máy phân tích (các loại máy Flow
cytometer khác nhau) với độ phân giải tín hiệu
tương ứng số kênh tín hiệu huỳnh quang khác
nhau, thông số cài đặt ứng dụng và hóa chất sử
dụng khác nhau. Do vậy, như Hoffman (2011) và
G. Fjaertoft (2007) đã nhận định, giá trị ngưỡng
trong nghiên cứu của các phòng Lab khác nhau
sẽ do phòng Lab tự thiết lập, tối ưu và đánh giá.
Giá trị CD64 – MFI trên neutrophil và mối
tương quan với việc chẩn đoán nhiễm trùng
hoặc nhiễm trùng huyết
Theo kết quả bảng 3.3 và 3.5, cả 2 phân nhóm
cấy máu dương và cấy máu âm trong nhóm
bệnh nhân có bệnh cảnh nhiễm trùng đều có giá
trị CD64 – MFI trên neutrophil tăng một cách có
ý nghĩa thống kê (P < 0,05) so với nhóm bình
thường. Mặt khác, giữa 2 nhóm cấy máu dương
và cấy máu âm, chúng tôi cũng không nhận thấy
có sự khác biệt ý nghĩa về sự biểu hiện của CD64
trên quần thể neutrophil khi so sánh chỉ số CD64
– MFI. Kết quả này có thể được giải thích dựa
theo nhiều yếu tố khác nhau. Thứ nhất, kết quả
cấy máu có thể bị âm tính giả do bệnh nhân đã
có sử dụng thuốc kháng sinh từ trước. Thứ hai,
như một số tác giả nhận định, CD64 không chỉ bị
kích hoạt đặc hiệu bởi vi khuẩn mà còn có thể vì
virut, nấm, ký sinh trùng(8,9,13) mà kết quả cấy
máu lại không phát hiện được các trường hợp
nhiễm virut hay ký sinh trùng. Ngoài ra, CD64
trên neutrophil cũng đã được nhiều nhà khoa
học trên thế giới nhận định là không chỉ trong
những trường hợp nhiễm trùng huyết mà các
trường hợp nhiễm trùng khu trú thì dấu ấn này
cũng được kích hoạt đáng kể(8,13,10,15).
Tuy trong nghiên cứu này, chúng tôi chưa
tính được độ nhạy, độ đặc hiệu cũng như chưa
được xác định được ngưỡng cut-off tối ưu
nhưng dựa vào kết quả bảng 3.6, chúng tôi cho
rằng CD64 là một dấu ấn sinh học rất tiềm năng
để chẩn đoán nhiễm trùng hay nhiễm trùng
huyết. Mặt khác, có nhiều báo cáo với nhiều tác
giả khác nhau trên thế giới cũng đưa ra nhận
định tương tự trên và độ nhạy/ độ đặc hiệu của
CD64 trên neutrophil mà họ xác định được trong
chẩn đoán nhiễm trùng hoặc nhiễm trùng huyết
có giá trị rất cao, ví dụ Hsu và cộng sự (89%/
96%); Livaditi và cộng sự (95%/ 100%); Cardelli
và cộng sự (96%/ 95%); Lobreglio và cộng sự
(92%/ 100%). Do vậy, chúng tôi đề nghị cần thực
hiện thêm các nghiên cứu tiếp theo trong đó có
khảo sát đầy đủ các yếu tố về lâm sàng và các xét
nghiệm thường quy khác như xác định tổng
bạch cầu, CRP, Procalcitonin và kết hợp cùng chỉ
số CD64 để có cơ sở kết luận chính xác và đánh
giá hiệu quả của việc sử dụng dấu ấn này, dùng
riêng lẻ hoặc dùng kết hợp với một xét nghiệm
khác để tìm ra bộ dấu ấn có độ nhạy, độ đặc hiệu
cao, có giá trị chẩn đoán tốt, nhanh.
KẾT LUẬN
Trên cả nhóm người bình thường và nhóm
bệnh nhân, CD64 âm tính trên quần thể lympho
và dương tính mạnh trên mono nên lympho sẽ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Số 2 * 2014
70
được xem như là nội chứng âm còn mono là nội
chứng dương.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy sự biểu hiện
CD64 trên quần thể tế bào neutrophil của nhóm
bệnh nhân có bệnh cảnh nhiễm trùng tăng một
cách có ý nghĩa so với nhóm người bình thường:
giá trị trung vị 1012 (IQR: 651 - 1543) so với 385
(IQR: 329 - 452) của nhóm chứng bình thường.
- Với giá trị ngưỡng cut-off của CD64 trên
neutrophil được xác định dựa trên giá trị phân vị
thứ 90 là 482, trong nhóm bệnh nhân có bệnh
cảnh lâm sàng, 90,9% mẫu trong nhóm cấy máu
dương tính và 92,2% mẫu trong nhóm cấy máu
âm tính có giá trị CD64 – MFI trên neutrophil
vượt trên giá trị ngưỡng cut-off. Điều này cho
thấy CD64 là một dấu ấn tiềm năng trong việc
chẩn đoán sớm nhiễm trùng và nhiễm trùng
huyết.
- Cần thực hiện các nghiên cứu tiếp theo để
đánh giá đồng thời giá trị CD64 trên neutrophil
và các xét nghiệm thường quy khác cũng như
các yếu tố lâm sàng nhằm xác định được
ngưỡng cut-off tối ưu, độ nhạy, độ đặc hiệu, giá
trị tiên đoán âm và tiên đoán dương của CD64
riêng lẻ hoặy kết hợp với một xét nghiệm khác
để tìm ra bộ dấu ấn hỗ trợ chẩn đoán nhanh,
chính xác nhiễm trùng và nhiễm trùng huyết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Adams SKK, Barlow G (2011). Diagnostic and prognostic
biomarkers of sepsis in critical care. J Antimicrob Chemother;
66 Suppl 2: 33 – 40.
2. Cardelli P, Ferraironi M, Amodeo R, Tabacco F, de Blasi RA,
Nicoletti M, et al (2008). Evaluation of neutrophil CD64
expression and procalcitonin as useful markers in early
diagnosis of sepsis. Int J Immunopathol Pharmacol; 21:43-9.
3. Danikas DD, Karakantza M, Theodorou GL, Sakellaropoulos
GC, Gogos CA (2008). Prognostic value of phagocytic activity
of neutrophils and monocytes in sepsis Correlation to CD64
and CD14 antigen expression. Clin Exp Immunol; 154:87-97.
4. Dilli D, Oguz ŞS, Dilmen Uu, et al. (2010). Predictive values of
neutrophil CD64 expression compared with interleukin-6 and
C-reactive protein in early diagnosis of neonatal sepsis. J Clin
Lab Anal; 24:363-70.
5. Fjaertoft G, Håkansson L, Foucard T, Ewald U, Venge P
(2005). CD64 Fcgamma receptor I cell surface expression on
maturing neutrophils from preterm and term newborn
infants. Acta Paediatr; 94:295-302.
6. Gerrits JH, McLaughlin PMJ, Nienhuis BN, Smit JW and Loef
B (2013). Polymorphic mononuclear neutrophils CD64 index
for diagnosis of sepsis in postoperative surgical patients and
critically ill patients. Clin Chem Lab Med; 51(4): 897–905
7. Hiesmayr MJ, Spittler A, Lassnigg A, Berger R, Laufer G,
Kocher A, et al (1999). Alterations in the number of circulating
leucocytes, phenotype of monocyte and cytokine production
in patients undergoing cardiothoracic surgery. Clin Exp
Immunol 115: 315_23.
8. Hoffmann JJML (2011). Neutrophil CD64 as a sepsis
biomarker. Biochemia Medica;21(3):282-90
9. Hsu KH, Chan MC, Wang JM, Lin LY, Wu CL (2011).
Comparison of Fcgamma receptor expression on neutrophils
with procalcitonin for the diagnosis of sepsis in critically ill
patients. Respirol; 16:152-60.
10. Icardi M, Erickson Y, Kilborn S, et al (2009) CD64 Index
provides simple and predictive testing for detection and
monitoring of sepsis and bacterial infection in hospital
patients. Journal of Clinical Microbiology, p. 3914–3919
11. Lever A, Mackenzie I. (2007). “Sepsis: definition,
epidemiology, and diagnosis”. BMJ, 335:879-883.
12. Livaditi O, Kotanidou A, Psarra A, Dimopoulou I,
Sotiropoulou C, Augustatou K, et al (2006). Neutrophil CD64
expression and serum IL-8: sensitive early markers of severity
and outcome in sepsis. Cytokine; 36:283-90.
13. Lobreglio GB, d’Aversa P, Leo L, Scolozzi S, Fiore G (2008).
Quantitative expression of CD64 on neutrophil granulocytes
as early marker of sepsis or severe infection. Haematologica;
93:21.
14. Marshall JC, Reinhart K. (2009). “Biomarkers of sepsis”.
Critical Care Med. 37:2290-2298.
15. Nuutila J et al (2010). The novel applications of the
quantitative analysis of neutrophil cell surface FcgammaRI
CD64 to the diagnosis of infectious and inflammatory
diseases. Curr Opin Infect Dis; 23:268-74.
16. Pierrakos C, Vincent JL (2010). Sepsis biomarkers: a review.
Critical care. 14:R15.
17. Schmit X, Vincent JL (2008): The time course of blood C-
reactive protein concentrations in relation to the response to
initial antimicrobial therapy in patients with sepsis. Infection
2008, 36:213-219.
18. Vineet B, Chao W, et al (2008). “Hematologic Profile of Sepsis
in Neonates: Neutrophil CD64 as a Diagnostic Marker”.
America Academy of Pediatrics. 121:129-134.
Ngày nhận bài báo: 02/01/2014
Ngày phản biện đánh giá bài báo: 07/03/2014
Ngày bài báo được đăng: 20/03/2014
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_su_bieu_hien_cd64_tren_quan_the_neutrophil_cua_nh.pdf