Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết của hạt mốc mèo trên thực nghiệm

Theo YHCT những biểu hiện của bệnh ĐTĐ khi đường huyết không được kiểm soát tốt thường biểu hiện tương tự chứng tiêu khát với ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, gầy hay chứng Hư lao với mệt mỏi, uể oải, kém linh hoạt, da lông khô thưa do tân dịch nuôi dưỡng giảm. Trên biểu hiện của các chuột được gây ĐTĐ bằng STZ, các chuột sau tiêm STZ 8 ngày có trọng lượng giảm, hay chuột gầy hơn, đồng thời có những biểu hiện kém linh hoạt, lông khô rụng nhiều. Những biểu hiện ở chuột gây ĐTĐ bằng STZ có nhiều điểm tương đồng với các chứng Tiêu khát, Hư lao của YHCT. Tuy nhiên cụ thể biểu hiện bệnh lý chứng Tiêu khát có liên quan với các tạng phủ chủ yếu là Phế, Vị, Thận thì trên mô hình thực nghiệm chưa phân biệt được. Chứng tiêu khát theo YHCT có cơ chế bệnh sinh chung là do chân âm hao tổn, bệnh lý biểu hiện thiên về nhiệt chứng, hư chứng. Những vị thuốc, bài thuốc trước đây từng được nghiên cứu trên thực nghiệm và lâm sàng đa phần đều tác động đến cơ chế này, nghĩa là có tác dụng bồi bổ chân âm (thuốc tư âm, bổ huyết) và/hoặc thanh trừ hư nhiệt (thuốc thanh nhiệt). Theo Đông Y hạt cây Mốc mèo (Mang quả đinh) có vị đắng, tính mát vào kinh Tỳ, Vị, Thận; tác dụng khu ứ, chỉ thống, thanh nhiệt, trừ thấp. Dùng trong các trường hợp như ho ngược, lỵ tật, niệu huyết, lâm trọc, chấn thương té ngã hay trong dân gian từ lâu hạt Mốc mèo được dùng để chữa sốt (thuốc thanh nhiệt), làm thuốc bổ (thuốc dưỡng âm) với liều 0,5-1g một lần, còn dùng chữa lỵ (trừ thấp nhiệt), tẩy giun và chữa ho. Tuy chưa thấy tài liệu nào ghi nhận dùng hạt Mốc mèo phối hợp với các vị thuốc khác để điều trị. Từ đó cho thấy tác dụng dưỡng âm, thanh nhiệt từ hạt Mốc mèo đã được dân gian sử dụng và YHCT đề cập đến từ lâu theo nghiên cứu của chúng tôi thì có tác dụng hạ đường huyết (trên chuột gây ĐTĐ bằng streptozotocine) tương tự như một số vị thuốc có tác dụng dưỡng âm, thanh nhiệt khác. Như vậy cơ chế tác dụng của hạt Mốc mèo theo YHCT phù hợp với việc ứng dụng trên bệnh nhân ĐTĐ type 2 tương tự như cơ chế của các vị thuốc khác đã được chứng minh có tác dụng hạ đường huyết.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 268 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tác dụng hạ đường huyết của hạt mốc mèo trên thực nghiệm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 69 NGHIÊN CỨU TÁC DỤNG HẠ ĐƯỜNG HUYẾT CỦA HẠT MỐC MÈO TRÊN THỰC NGHIỆM Trần Hoàng*, Nguyễn Thị Bay* TÓM TẮT Đặt vấn đề và mục tiêu nghiên cứu: Đái tháo đường (ĐTĐ) là một bệnh bất thường về nội tiết. Các điều trị bằng dược thảo đang ngày một phổ biến, hơn nữa những chế phẩm từ dược thảo không hoặc ít tác dụng phụ hơn thuốc trị ĐTĐ tổng hợp. Do đó nghiên cứu đã tập trung vào đánh giá tác dụng hạ đường huyết của hạt cây Mốc mèo (Caesalpinia bonduc (L.)Roxb), một thuốc dân gian có nguồn gốc thực vật. Phương pháp nghiên cứu: Chuột nhắt trắng trọng lượng 18 - 22g được mua từ Viện Pasteur dùng để nghiên cứu. Streptozotocin (STZ) được dùng làm hóa chất gây mô hình ĐTĐ trên chuột. STZ tiêm với liều duy nhất 150 mg/kg thể trọng chuột. Cao chiết từ hạt Mốc mèo C. bonduc được dùng với 2 liều là 250 mg/kg và 500 mg/kg thể trọng chuột, cho chuột uống. Glibenclamide là thuốc đối chứng dùng điều trị ĐTĐ với liều 10 mg/kg thể trọng. Chuột được chia thành 4 lô (n = 6): Lô I dùng nước cất; Lô II dùng glibenclamide; Lô III và IV dùng cao chiết cồn từ hạt cây Mốc mèo C. bonduc với liều lần lượt là 250 mg/kg và 500 mg/kg. Nghiên cứu thực hiện trong 15 ngày, mỗi ngày cho chuột uống một lần. Đường huyết của chuột đo bằng máy Glucometter điện tử. Kết quả: Trong các lô dùng thuốc, lượng đường trong máu đã giảm đáng kể từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 15. Tất cả các lô được điều trị đều làm giảm đường huyết có ý nghĩa so với lô chứng (p.<.0,05). Với liều cao nhất được dùng từ cao chiết cồn hạt Mốc mèo C. bonduc 500 mg/kg có tác dụng hạ đường huyết cao hơn so với liều 250 mg/kg (p.<.0,05). Không có sự khác biệt đáng kể giữa lô dùng glibenclamide với lô dùng cao chiết cồn hạt Mốc mèo C. bonduc với liều 500 mg/kg (p.>.0,05) từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 7. Kết luận: Trong nghiên cứu này cho thấy hiệu quả hạ đường huyết của cao chiết cồn hạt Mốc mèo C. Bonduc trên chuột nhắt trắng gây ĐTĐ bằng STZ. Kết quả cao chiết cồn hạt Mốc mèo C. Bonduc với liều 500 mg/kg có tác dụng hạ đường huyết trên chuột nhắt trắng ĐTĐ tương tự với thuốc điều trị ĐTĐ glibenclamide (10 mg / kg thể trọng). Từ khóa: Caesalpinia bonduc (L.) Roxb, ức chế tăng đường huyết (anti-hyperglycaemia), Đái tháo đường (ĐTĐ). ABSTRACT EXPERIMENTAL RESEARCH ON HYPOGLYCEMIC EFFECT OF ETHANOLIC SEED EXTRACT OF CAESALPINIA BONDUC (L.) ROXB Tran Hoang, Nguyen Thi Bay * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 18 - Supplement of No 1 - 2014: 69 - 74 Background and aims: Diabetes mellitus is a major endocrine disorder. Herbal treatments are becoming increasingly popular, as the herbal preparations have no or least side effects than synthetic hypoglycaemic drugs. Hence research has been focused on scientific evaluation of Caesalpinia bonduc (L.) Roxb, a traditional hypoglycaemic herbal drug. Methods: mice (18 – 22g) were purchased from animal house of Pasteur Institute. Streptozotocin was used as the diabetes inducer in mice. The solution was made in distilled water and administered as a single dose (150 mg/kg b.w.i.m). The extract from Caesalpinia bonduc seeds was administered in different dose (250 & 500 mg/kg * Khoa Y học Cổ Truyền – Đại học Y Dược Tp. HCM Tác giả liên lạc: BS. Trần Hoàng ĐT: 0974809369 Email: hoangtran1081986@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 70 b.w) by oral gavages to the mice. Glibenclamide was used to treat diabetes and was administered with the dosage of 10 mg/kg b.w. The mice were divided into 4 groups (n = 6). Group I served as a control distilled water. Group II received standard drug glibenclamide. Group III and IV recived ethanolic extracts of Caesalpinia bonduc (L.)Roxb (250 mg and 500 mg/kg b.w respectively). The standard and test formulations were administered for 15 days using oral gavages once in day. Glucose levels were estimated using an electronic Glucometter (Abbott). Results: In extract-treated groups, blood glucose levels were significantly decreased from day 4 to day 15. All the extract-treated groups showed significant reduction effect (p<0.05) on blood glucose levels when compared with streptozotocin-treated control group. The highest dose of ethanolic seed extract (500 mg/kg) of C. bounduc was found more effective to reduce the blood glucose levels than the dose 250 mg/kg (p.<.0.05). There was no significant difference between glibenclamide-treated group and ethanolic extract-treated group of dose 500 mg/kg from day 4 to day 7. Conclusion: In the present study, administration of the ethanolic extract of C. Bonduc seed effectively reduced the blood glucose level in STZ-induced diabetic mice. In conclusion, the ethanolic extract of the C. bonduc seeds (the dose of 500 mg/kg b.w) has a promising anti - hyperglycemic effects on STZ-induced diabetes mellitus in mice which are comparable with the antidiabetic drug glibenclamide (10 mg/kg b.w). Keywords: Caesalpinia bonduc (L.) Roxb, anti - hyperglycaemia, diabetes mellitus. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong y văn của y học cổ truyền (YHCT) không có bệnh danh đái tháo đường nhưng những triệu chứng lâm sàng của đái tháo đường như: khát nước nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, cảm giác đói, thèm ăn, gầy, tê bì, dị cảm ngoài da, mờ mắt cũng được YHCT mô tả trong một số chứng trạng như tiêu khát, hư lao, ma mộc (5, 10) Hạt Mốc mèo (Caesalpinia bonduc (L.) Roxb) từ lâu được dùng trong dân gian để chữa sốt, làm thuốc bổ trong những trường hợp suy nhược, còn dùng chữa lỵ, tẩy giun và chữa ho(3). Trong đó tác dụng chữa sốt (thanh nhiệt) và làm thuốc bổ khi cơ thể suy nhược tương tự tác dụng dưỡng âm, thanh nhiệt của các vị thuốc dùng trị các chứng tiêu khát, hư lao, ma mộc theo quan điểm của YHCT. Đã có một số công trình nghiên cứu trên thế giới về tác dụng hạ đường huyết trên thực nghiệm của cao chiết hạt Mốc mèo (C. bonduc)(1,2,4,7,8,9,7) Tuy nhiên chưa có công trình trên thực nghiệm về tác dụng hạ đường huyết của hạt Mốc mèo ở Việt Nam được công bố trước đây. Câu hỏi nghiên cứu chúng tôi đặt ra là hạt Mốc mèo C. Bonduc với điều kiện thổ nhưỡng, môi trường ở Việt Nam có tác dụng hạ đường huyết trên thực nghiệm tương tự như ở các nước khác hay không? PHƯƠNG TIỆN Hạt Mốc mèo được đập vỡ, tách vỏ và nhân hạt, xử lý riêng bằng cách sấy khô ở nhiệt độ 40 – 50 °C, tán và rây qua rây để thu được bột mịn đồng nhất. Mô tả các đặc điểm cảm quan bột nhân. Lên tiêu bản bột soi trong nước. Tiến hành làm cao chiết cồn 50% theo tiêu chuẩn. Xác định độ tinh khiết các chất phân lập được. Định tính bằng sắc ký lớp mỏng. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Chuột nhắt trắng gây ĐTĐ bằng streptozotocin (Miura, 1997). Chuột được nuôi trong phòng điều hòa nhiệt độ ở 22 ± 2oC với chu kỳ 12 giờ sáng và 12 giờ tối. Chuột được giữ trong phòng thí nghiệm 7 ngày và được ăn uống tự do để xác định mức đường máu lấy từ xoang hang. Chuột được chia làm hai nhóm: Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 71 Một nhóm được tiêm phúc mô 150 mg/kg thể trọng streptozotocin mới được hòa tan trong dung dịch đệm citrate pH 4,5. Một nhóm chỉ tiêm dung dịch đệm và được dùng làm đối chứng. Tám ngày sau khi tiêm streptozotocin xác định đường máu của tất cả các chuột. Các chuột tiêm streptozotocin có mức glucose máu trên 300mg% được coi là ĐTĐ và dùng trong nghiên cứu. Chuột đưa vào nghiên cứu được chia làm 4 lô, mỗi lô 6 con. Lô 1 (lô chứng): Chuột nhắt trắng được nuôi với chế độ ăn uống bình thường, uống nước cất 20ml/kg 1 lần/ngày. Lô 2: Chuột nhắt trắng được điều trị bằng glibenclamid (10mg/kg) uống 1 lần/ngày. Lô 3: Chuột được cho uống cao chiết cồn 50% từ hạt Mốc mèo 250mg/kg, uống 1 lần/ngày. Lô 4: Chuột được cho uống cao chiết cồn 50% từ hạt Mốc mèo 500mg/kg, uống 1 lần/ngày. Chuột trong cả 4 lô được cho uống với thể tích dùng thuốc là 20ml/kg (lớn nhất là 1ml cho 1 con chuột nặng 20g). Máu được lấy từ đuôi chuột để theo dõi vào thời điểm ngày 1, 4, 7, 11 và 15 từ khi uống thuốc. Mức độ glucose được đo bằng máy Glucometter (Abbott). KẾT QUẢ Trọng lượng của chuột trước, sau tiêm streptozotocin và sau thử nghiệm 15 ngày (biểu diễn số liệu theo M ± SE). Bảng 1. Trọng lượng chuột trước và sau thử nghiệm. Lô Trước tiêm (g) Sau tiêm STZ (g) Sau thử nghiệm 15 ngày (g) 1 22,17 ± 0,48 20,5 ± 0,43 19,0 ± 0,45 2 21,83 ± 0,48 20,33 ± 0,33 19,83 ± 0,31 3 22 ± 0,52 20,5 ± 0,56 20,33 ± 0,42 4 21,67 ± 0,49 20,0 ± 0,58 19,83 ± 0,48 Nhận xét: Trọng lượng của các chuột trong các lô trước tiêm STZ khác biệt không có ý nghĩa thống kê (χ2= 0,192, p = 0,901). Sau khi tiêm STZ với liều 150mg/kg trong phúc mô 8 ngày trọng lượng các chuột có mức đường huyết > 300mg/dl giảm 7, 2% so với trước khi tiêm, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (t = 4,836, p. < 0,001). Vào ngày thứ 15 của nghiên cứu ở nhóm chứng (lô 1) trọng lượng của các chuột tiếp tục giảm 7,3% so với ngày thứ nhất, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (t = 2,423, p < 0,05). Trong khi ở các lô dùng thuốc (lô 2, lô 3, lô 4) sau 15 ngày trọng lượng của các chuột thay đổi không có ý nghĩa thống kê (t = 0,772, p=0,223). Nồng độ đường huyết trong quá trình điều trị Nồng độ đường huyết trung bình của các lô trong quá trình điều trị (n = số chuột, p.<.0,05) (biểu diễn số liệu theo M ± SE). Bảng 2. Nồng độ đường huyết trung bình của các lô thử nghiệm. Glucose (mg/dl) n Ngày 1 Ngày 4 Ngày 7 Ngày 11 Ngày 15 Lô 1 (chứng) 6 362,33 ± 2,91 399,00 ± 4,12 412,00 ± 3,30 416,50 ± 4,45 387,33 ± 2,51 Lô 2 (glibenclamid) 6 367,17 ± 8,28 303,50 ± 4,78 258,17 ± 3,46 199,67 ± 3,36 156,83 ± 3,20 Lô 3 (250mg/kg) 6 353,67 ± 5,19 337,17 ± 5,59* 304,83 ± 6,13* 264,33 ± 3,79* 235,33 ± 2,71* Lô 4 (500mg/kg) 6 348,50 ± 6,69 290,67 ± 4,10 268,50 ± 4,11 246,00 ± 3,87* 209,67 ± 4,96* Vào ngày thử nghiệm thứ 1 nồng độ đường huyết giữa các chuột trong các lô thí nghiệm khác biệt không có ý nghĩa thống kê (χ2= 1,899, p = 1,162). So với lô chứng Vào ngày điều trị thứ 4, 7, 11, 15 các lô chuột thử nghiệm đều có sự giảm mức đường huyết có ý nghĩa thống kê so với lô chứng (p.<.0,001). So với lô đối chứng Vào ngày thứ 4, 7, 11, 15 Lô chuột thử nghiệm dùng cao chiết cồn 50% từ hạt Mốc mèo với liều 250 mg/kg làm giảm glucose máu ít hơn so với lô đối chứng dùng glibenclamid 10mg/kg, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p< 0,05). Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 72 Vào ngày thứ 4,.7 Lô chuột thử nghiệm dùng cao chiết cồn 50% từ hạt Mốc mèo với liều 500 mg/kg làm giảm glucose máu so với lô đối chứng dùng glibenclamid 10mg/kg khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Vào ngày 11, 15 Lô chuột thử nghiệm dùng cao chiết cồn 50% từ hạt Mốc mèo với liều 500 mg/kg làm giảm glucose máu ít hơn so với lô đối chứng dùng glibenclamid 10mg/kg, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê ( p < 0,05). So sánh 2 lô sử dụng cao chiết cồn hạt Mốc mèo 50% trong quá trình điều trị Dùng liều cao chiết cồn hạt Mốc mèo cho uống với liều 500mg/kg gây giảm đường huyết ở chuột thí nghiệm có mức độ cao hơn so với liều 250mg/kg, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Thể trạng chung của chuột Vào những ngày điều trị đầu tiên mức glucose máu còn cao chuột di chuyển chậm chạp, lông rụng nhiều, dính lại, khô. Sau 15 ngày điều trị chuột linh hoạt hơn nhưng không đạt được tình trạng linh hoạt như ban đầu. So với các thời điểm trước khi điều trị Kết quả cho thấy: Ở lô chứng có nồng độ glucose máu tăng dần đến ngày thứ 11, sau đó thì giảm dần ở ngày thứ 15. Ở lô đối chứng (lô 2, dùng glibenclamid) nồng độ glucose máu giảm từ ngày thứ 4 có ý nghĩa thống kê (p < 0,001). Ở hai lô dùng cao chiết cồn 50% từ hạt Mốc mèo nồng độ glucose máu giảm từ ngày thứ 4 có ý nghĩa thống kê (p < 0,01). BÀN LUẬN Trọng lượng của chuột Trọng lượng của chuột sau tiêm STZ 8 ngày giảm có ý nghĩa thống kê so với trước khi tiêm do STZ là thuốc gây độc tế bào β của tụy, khiến lượng insulin được sản xuất giảm. Vì insulin kích thích sự tổng hợp chất đạm bằng cách tăng sự chuyên chở acid amin cũng như kích thích sự tổng hợp protein ở ribo thể nên hậu quả của giảm insulin là làm giảm tổng hợp protein, đây là lý do khiến chuột giảm cân. Ở lô chứng trọng lượng chuột tiếp tục giảm cho đến ngày 11 do không được điều trị. Ở các lô được điều trị bằng cao chiết cồn từ hạt Mốc mèo, sau 15 ngày trọng lượng của chuột thay đổi không ý nghĩa thống kê, có thể do thuốc có tác dụng trên sự tổng hợp, chế tiết insulin hoặc tăng sử dụng insulin ở mô ngoại vi. Nồng độ đường huyết Vào ngày thử nghiệm thứ 1 nồng độ đường huyết giữa các chuột trong các lô thí nghiệm là tương đương nhau hay các chuột được đưa vào nghiên cứu có tình trạng bệnh đồng nhất. Thuốc đối chứng là glibenclamid là một thuốc đã được chứng minh có tác dụng hạ đường huyết nhằm so sánh hiệu quả hạ đường huyết của cao chiết cồn 50% từ hạt Mốc mèo với thuốc này. Glibenclamid có tác dụng làm hạ đường huyết được ghi nhận từ ngày thứ 4 và liên tục giảm cho tới ngày 15 của thử nghiệm. Cao chiết cồn hạt Mốc mèo dùng với liều 250 mg/kg có tác dụng hạ đường huyết từ ngày thứ 4 và cũng gây hạ đường huyết liên tục cho tới ngày 15 của thử nghiệm, nhưng mức độ giảm đường huyết kém hơn thuốc đối chứng là glibenclamid có ý nghĩa. Cho thấy ở liều dùng 250 mg/kg cao chiết cồn từ hạt Mốc mèo tuy có tác dụng hạ đường huyết rõ nhưng kém hơn so với thuốc đối chứng. Dùng cao chiết hạt Mốc mèo với liều 500 mg/kg từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 7 kết quả cho thấy mức hạ đường huyết so với glibenclamid khác biệt không có ý nghĩa thống kê. Cho thấy hiệu quả hạ đường huyết mạnh hơn khi dùng liều lượng cao hơn của cao chiết cồn từ hạt Mốc mèo. Nhưng đến ngày 11 và 15 thì ghi nhận mức giảm đường huyết ở lô dùng cao chiết từ hạt Mốc mèo kém hơn so với thuốc đối chứng có ý nghĩa. Cho thấy hiệu quả hạ đường huyết của Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 73 cao chiết hạt Mốc mèo khi dùng ở liều 500 mg/kg không mạnh bằng glibenclamid ở những ngày sau (từ ngày 11 trở đi). Trong hai lô dùng cao chiết cồn 50% từ hạt Mốc mèo thì lô dùng liều cao gấp 2 lần là 500 mg/kg có hiệu quả hạ đường huyết cao hơn có ý nghĩa so với lô dùng với liều 250 mg/kg từ ngày thứ 4 cho tới khi kết thúc thử nghiệm. Từ đó mở ra hướng nghiên cứu tăng liều thuốc thử nghiệm để tìm được liều điều trị hiệu quả hơn của cao chiết hạt Mốc mèo trên chuột gây ĐTĐ bằng STZ. Nghiên cứu đã bước đầu chứng minh hiệu quả hạ đường huyết của cao chiết cồn 50% từ hạt Mốc mèo có xuất xứ ở Việt Nam với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng tại Việt Nam cũng có hiệu quả tương tự như ở một số nghiên cứu khác tại nước ngoài, từ đó mở ra những nghiên cứu tiếp theo về tác dụng và độ an toàn của thuốc trên thực nghiệm cũng như trên người, cho ra sản phẩm mới từ thảo dược góp phần vào quá trình điều trị bệnh nhân ĐTĐ tại Việt Nam. Theo YHCT những biểu hiện của bệnh ĐTĐ khi đường huyết không được kiểm soát tốt thường biểu hiện tương tự chứng tiêu khát với ăn nhiều, uống nhiều, tiểu nhiều, gầy hay chứng Hư lao với mệt mỏi, uể oải, kém linh hoạt, da lông khô thưa do tân dịch nuôi dưỡng giảm... Trên biểu hiện của các chuột được gây ĐTĐ bằng STZ, các chuột sau tiêm STZ 8 ngày có trọng lượng giảm, hay chuột gầy hơn, đồng thời có những biểu hiện kém linh hoạt, lông khô rụng nhiều. Những biểu hiện ở chuột gây ĐTĐ bằng STZ có nhiều điểm tương đồng với các chứng Tiêu khát, Hư lao của YHCT. Tuy nhiên cụ thể biểu hiện bệnh lý chứng Tiêu khát có liên quan với các tạng phủ chủ yếu là Phế, Vị, Thận thì trên mô hình thực nghiệm chưa phân biệt được. Chứng tiêu khát theo YHCT có cơ chế bệnh sinh chung là do chân âm hao tổn, bệnh lý biểu hiện thiên về nhiệt chứng, hư chứng. Những vị thuốc, bài thuốc trước đây từng được nghiên cứu trên thực nghiệm và lâm sàng đa phần đều tác động đến cơ chế này, nghĩa là có tác dụng bồi bổ chân âm (thuốc tư âm, bổ huyết) và/hoặc thanh trừ hư nhiệt (thuốc thanh nhiệt). Theo Đông Y hạt cây Mốc mèo (Mang quả đinh) có vị đắng, tính mát vào kinh Tỳ, Vị, Thận; tác dụng khu ứ, chỉ thống, thanh nhiệt, trừ thấp. Dùng trong các trường hợp như ho ngược, lỵ tật, niệu huyết, lâm trọc, chấn thương té ngã hay trong dân gian từ lâu hạt Mốc mèo được dùng để chữa sốt (thuốc thanh nhiệt), làm thuốc bổ (thuốc dưỡng âm) với liều 0,5-1g một lần, còn dùng chữa lỵ (trừ thấp nhiệt), tẩy giun và chữa ho. Tuy chưa thấy tài liệu nào ghi nhận dùng hạt Mốc mèo phối hợp với các vị thuốc khác để điều trị. Từ đó cho thấy tác dụng dưỡng âm, thanh nhiệt từ hạt Mốc mèo đã được dân gian sử dụng và YHCT đề cập đến từ lâu theo nghiên cứu của chúng tôi thì có tác dụng hạ đường huyết (trên chuột gây ĐTĐ bằng streptozotocine) tương tự như một số vị thuốc có tác dụng dưỡng âm, thanh nhiệt khác. Như vậy cơ chế tác dụng của hạt Mốc mèo theo YHCT phù hợp với việc ứng dụng trên bệnh nhân ĐTĐ type 2 tương tự như cơ chế của các vị thuốc khác đã được chứng minh có tác dụng hạ đường huyết. KẾT LUẬN Sau 15 ngày thử nghiệm: Cao chiết cồn 50% từ hạt Mốc mèo Caesalpinia bonduc có tác dụng hạ đường huyết trên chuột nhắt trắng đái tháo đường gây bằng streptozotocin ở cả hai liều điều trị là 250 mg/kg và 500 mg/kg. Tác dụng hạ đường huyết của liều 250 mg/kg cao chiết từ hạt Mốc mèo C.bonduc yếu hơn glibenclamid với liều 10mg/kg. Tác dụng hạ đường huyết của liều 500 mg/kg cao chiết từ hạt Mốc mèo C.bonduc so với glibenclamid với liều 10mg/kg từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 7 là tương đương, nhưng từ ngày 11 đến ngày 15 thì yếu hơn. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 18 * Phụ bản của Số 1 * 2014 Chuyên Đề Y Học Cổ Truyền 74 KIẾN NGHỊ Thời gian 15 ngày nghiên cứu chưa đủ để đánh giá hiệu quả kéo dài và ổn định của thuốc từ Cao chiết cồn 50% hạt Mốc mèo C. bonduc nên cần có những nghiên cứu về sau với thời gian dài hơn. Với hai liều thử nghiệm đều có hiệu quả gây hạ đường huyết nhưng chưa tìm được liều tối đa có hiệu quả, cần có nghiên cứu rộng hơn để tìm được liều hiệu quả gây hạ đường huyết tốt nhất. Để xác định tính an toàn của thuốc cần làm nghiên cứu xác định độc tính cấp và bán trường diễn của thuốc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Arayne MS, Sultana N, Mirza AZ, Zuberi MH, Siddiqui FA. (2007). In vitro hypoglycemic activity of methanolic extract of some indigenous plants, Pak.J. Pharm. Sci, vol.20, pp 268- 272. 2. Chakrabarti S, Biswas KT, Rokeya B, Ali L, Mosihuzzama M, Nahar N,. Khan AKA Mukherjee B. (2002). Advanced studies on the hypoglycemic effect of Caesalpinia bonducella F. in type 1 and 2 diabetes in Long Evans rats, Journal of Ethnopharmacology, pp. 41- 46. 3. Đỗ Tất Lợi (2006). Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. NXB Khoa học kỹ thuật, tr.696-697. 4. Karpagam T and Barani M (2011). Caesalpinia Bonduc (L.) Roxb as a novel drug having hypoglycemic effect on alloxan induced diabetic rats, International Journal of Pharma and Bio Sciences, pp. 384-390. 5. Lê Hữu Trác (1987). Hải Thượng Y Tông Tâm Lĩnh tập III, V. Hội Y học dân tộc Tp. HCM, tr.1049-1147, 2432-2515. 6. McPhee SJ and Hammer GD (2010). Diabetes mellitus, Pathophysiology of disease, page 14 of 43- page 7. Moon K, Khadabadi S.S., Deokate U.A., Deore S.L. (2010). Caesalpinia bonducella F. Report and Opinion, pp. 13, 2 8. Rajathi R and Ananthi T (2010). Potential hypoglycemic effects of Caesalpinia Bonduc (L.) Rox. In alloxan induced diabetic rats. Pharmacol Toxicol, pp. 131- 135. 9. Shukla S, Mehta A, Mehta P, Bajpai VK (2011). Evaluation of comparative antidiabetic effects of ethanolic extracts of Caesalpinia bouncucella and Stevia rebaudiana in normal and alloxan-induced experimental rats. Romanian Biotechnological Letters, pp. 6187- 6198. 10. Trần Thúy và cs (2005). Bài giảng y học cổ truyền tập II. NXB Y học, tr.168-169. Ngày nhận bài báo: 28/09/2013 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 15/10/2013, 17/10/2013 Ngày bài báo được đăng: 02/01/2014

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnghien_cuu_tac_dung_ha_duong_huyet_cua_hat_moc_meo_tren_thuc.pdf
Tài liệu liên quan