Ngoài việc giảng dạy, huấn luyện sinh viên trở thành người tài giỏi,
đóng vai trò như cha mẹ hay anh em nâng đỡ về mặt tinh thần những lúc
các em gặp hoạn nạn hay điều không may, các giáo viên còn luôn chia sẻ
và lắng nghe những nỗi niềm riêng tư, dạy dỗ, khuyên nhủ, động viên,
che chở và giúp đỡ các em vượt thoát qua những hoàn cảnh khốn khó.
Theo cách này, giáo viên như những vị thần hiện thân, những ân nhân
luôn có mặt để giúp các em trưởng thành vững vàng trong cuộc sống.
Phúc báu của hạnh Vô úy thí8 còn gì bằng. Giáo viên có thể thể hiện Vô
úy thí qua việc coi trọng sinh viên, khen thưởng tuyên dương khi các em
học giỏi, an ủi động viên khi các em mất tinh thần học tập. Vô úy thí là
giúp cho người khác không sợ hãi. Ví dụ, khi người khác sợ hãi hay lo
lắng vì gặp một sự cố gì đó, mình vỗ về để họ được an lòng. Những học
trò mồ côi cha mẹ từ nhỏ hiền lành, rụt rè, thường bị bạn bè chọc ghẹo,
thầy cô cần phải đứng ra bảo vệ, an ủi, động viên, khuyến khích học trò
yên tâm học hành tiến bộ, cũng như chia sẻ những khó khăn trong học tập
và trong cuộc sống của các em
7 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 728 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tôn giáo - Bố thí của phật giáo trong đời sống giáo viên đại học ở thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 – 2014 75
NGUYỄN THỊ THANH MAI(*)
BỐ THÍ CỦA PHẬT GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO VIÊN
ĐẠI HỌC Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY
Tóm tắt: Trong Phật giáo, bố thí là giúp đỡ nhân sinh về vật chất
và tinh thần. Đây là một nghĩa cử cao đẹp xuất phát từ tâm từ bi.
Hiểu được giáo lý Phật giáo để hành trì bố thí sẽ mang lại nhiều
lợi lạc cho bản thân và xã hội, nhất là đối với đội ngũ giáo viên
làm công việc trồng người. Khi mỗi giáo viên hiểu được ý nghĩa
cao cả của bố thí sẽ đóng góp nhiều hơn trong việc đào tạo nguồn
nhân lực cho xã hội vừa có chuyên môn vững, vừa có đạo đức tốt.
Dựa trên kết quả phỏng vấn sâu trực tiếp hoặc gửi bảng hỏi qua
email đối với 6 thầy giáo và 16 cô giáo, tuổi từ 28 đến 50, là Phật
tử hiện giảng dạy tại các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh,
bài viết này muốn tìm hiểu việc giáo viên là Phật tử áp dụng giáo
lý Phật giáo vào nghề nghiệp của mình.
Từ khóa: Phật giáo, bố thí, giảng dạy, Thành phố Hồ Chí Minh.
1. Khái quát về bố thí của Phật giáo và ý nghĩa của nó đối với xã hội
Theo Phật giáo Nam tông, bố thí là một trong mười điều lành mà Đức
Phật đã khuyên dạy mọi người nên thực hiện gồm không sát sinh, không
trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không nói thiêu diệt, không nói
hai lời, không nói lời thô ác, không tham lam, không sân hận, không si
mê1. Nếu thực hiện tốt được mười điều lành này, con người trở nên hoàn
thiện hơn.
Kinh Tăng Nhất A Hàm nói: “Nếu có người bần cùng, nghèo khổ
không có tiền bố thí, khi thấy có người khác bố thí thì nên khởi tâm hoan
hỷ phước báu này ngang bằng với kẻ bố thí không khác. Ấy là việc rất dễ
làm”2.
Trong Phật Nói Kinh Phạm Võng đề cập đến việc: “Nếu có vị quốc
vương hay Bà La Môn nào thấy người già cả, tật bệnh ốm đau, phụ nữ
*
NCS., Khoa Đông Phương học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học
Quốc gia Hồ Chí Minh.
76 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014
sinh sản mà chỉ trong một niệm phát lòng đại bi bố thí thuốc men, ăn
uống, y phục khiến cho họ được an vui, thì phước báu ấy không thể nghĩ
bàn nếu có thể phát tâm đem công đức cúng dường bố thí đó mà hồi
hướng về đạo vô thượng chánh giác, thì tất cả sẽ được thành Phật cả vì
quả báo bố thí ấy vô lượng vô biên”3.
Nội dung Kinh Trung Nhất A Hàm nói: “Đức Thế Tôn bảo các tỳ
khưu rằng, thí cho đúng lúc thì có 5 thời điểm:
1. Cho kẻ từ xa mới tới.
2. Cho kẻ sắp đi xa.
3. Cho kẻ tật bệnh.
4. Cho lúc mất mùa đói kém.
5. Cơm mới hay quả mới chín, trước phải cúng cho người tinh tấn trì
giới, sau cùng mình mới dùng”4.
Trong Kinh Tăng Chi Bộ, Đức Phật dạy: “Này các Tỷ khưu, có ba
phần thuộc về người bố thí và có ba phần thuộc về người nhận phẩm vật
bố thí. Thế nào là ba phần thuộc về người bố thí? Này các Tỷ khưu,
người bố thí, trước khi bố thí, ý được vui lòng; trong khi bố thí, tâm được
tịnh tín; sau khi bố thí, cảm thấy hoan hỷ. Đây là ba phần của người bố
thí. Thế nào là ba phần của người nhận phẩm vật bố thí? Này các Tỷ
khưu, những người nhận phẩm vật bố thí đã được ly tham hay đang thực
hành hạnh ly tham; đã được ly sân hay đang thực hành hạnh ly sân; đã
được ly si hay đang thực hành hạnh ly si. Đây là ba phần của người nhận
phẩm vật bố thí. Này các Tỷ khưu, đây là thí vật có sáu phần.
Này các Tỷ khưu, công đức của thí vật sáu phần thật vô lượng: là
nguồn sanh phước, nguồn sanh thiện, món ăn an lạc, thuộc Thiên giới, là
quả lạc dị thục, dẫn đến cõi Trời, đưa đến khả lạc, khả hỷ, hạnh phúc và
an lạc”5.
Trong Phật giáo Bắc tông, bố thí là một trong sáu Ba La Mật. Ngoài
việc ban phát của cải, thức ăn uống, còn thêm hai cách bố thí nữa là Pháp
thí (dùng lời nói và trí tuệ để giải thích cho mọi người hiểu được mục
đích và ý nghĩa của nhân sinh), và Vô úy thí (làm cho người khác không
sợ hãi). Tóm lại, trong Phật giáo Bắc tông, bố thí là đem tài vật, thể lực,
trí tuệ, v.v cho người khác, vì người mà tích lũy công đức, tạo phúc
thành trí, cuối cùng được giải thoát.
Nguyễn Thị Thanh Mai. Bố thí của Phật giáo 77
Như vậy, bố thí trong Phật giáo Nam Tông cũng như trong Phật giáo
Bắc tông đều là đem tài vật và ân huệ ban phát, đem lại sự an lạc cho
người khác, hầu tích lũy phúc đức cho mình ở kiếp này và kiếp sau.
Trong giáo pháp của Đức Phật, bố thí là pháp đứng đầu. Pháp bố thí dạy
mọi người trong cuộc sống phải biết nương tựa và giúp đỡ lẫn nhau,
người giàu giúp đỡ người nghèo, người trí nâng kiến thức cho người vô
trí, v.v... Người biết kiềm chế sự ham muốn, không lấy của không cho,
nhận những gì được cho mà không lấy cắp, hướng tâm đến những điều
tốt đẹp có trong đời thì sự an nhiên tự tại sẽ lớn mạnh. Đó là nền tảng căn
bản của bố thí trong Phật giáo.
Theo giáo lý Phật giáo, người bố thí trước hết phải xuất phát từ tấm
lòng đại lượng hoan hỷ bằng sự tự giác và sự tự nguyện. Bố thí là đem tài
vật cho người thọ thí với sự quý trọng. Cúng dường là tự tay đem phẩm
vật dâng lên Đức Phật với sự kính trọng. Khi hành động bằng sự tín tâm
để diệt trừ ngã mạn, thì người cho và người nhận sẽ gần nhau hơn.
Bố thí và cúng dường là pháp tu phổ biến cho các hàng Phật tử. Bố thí
đúng với chính pháp là việc không đơn giản đối với người thí và người
thọ thí. Phật tử muốn cúng dường trước hết phải xuất phát từ sự hân hoan,
tự giác, tự nguyện và tịnh tín. Nếu thiếu trí tuệ quán xét và tịnh tín thì
việc làm cao cả ấy sẽ lệch hướng, chỉ nuôi lớn lòng ngã mạn và cho rằng
ta là kẻ ban ơn. Vì của cho không bằng cách cho, do vậy chưa hẳn cho
nhiều tiền nhiều bạc mà hành được hạnh tịnh tín vào xã hội. Đem hạnh
bố thí ứng với xã hội, ta cảm thụ được sự vui vẻ khi đem niềm vui đến
cho người. Đó là trọng yếu của Phật pháp về bố thí.
Giáo lý của Đức Phật luôn dạy con người tu dưỡng tâm tính hướng tới
một xã hội tốt đẹp hơn. Ý nghĩa cao đẹp đó được phản ánh qua cuộc sống
hằng ngày nhờ vào ứng dụng với xã hội. Thông qua hoạt động xã hội,
bản chất việc làm từ thiện của con người mới được bộc lộ, những mặt hạn
chế mới được nhìn nhận và tu sửa. Hiểu về Phật pháp, nhất là về nhân
quả, con người sẽ chú trọng làm lành lánh dữ, lợi mình và lợi người. Nếu
mỗi người đều có ý thức sửa mình thì xã hội sẽ giảm bớt tệ nạn trong gia
đình và cộng đồng. Phật giáo là gạch nối giữa đời sống xã hội, đem đạo
vào đời và lấy đời xây dựng đạo.
Trong cuộc sống, các vị tăng ni đều là con Phật, hành đạo theo giáo lý
của Đức Phật đã chỉ dạy. Họ luôn giúp đỡ xã hội về mặt vật chất lẫn mặt
tinh thần. Theo dõi hạnh bố thí của nhiều tăng ni, tiêu biểu như Hòa
78 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014
thượng Thích Thiện Minh6, Thượng tọa Thích Nhật Từ7..., chúng ta mới
hiểu rõ được Phật giáo đã giúp nhiều mặt cho xã hội. Ngoài ra, Phật tử
nhiều đạo tràng ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay như đạo tràng Tùy
Duyên, đạo tràng Bồ Đề, đạo tràng Tịnh Độ, đạo tràng Hoa Sen, đạo
tràng Pháp Hoa,... do hiểu được giáo lý của Đức Phật, họ sẵn sàng hy
sinh lợi ích cá nhân để đem lại lợi lạc cho người khác thông qua các hoạt
động từ thiện xã hội như phát quà cho người nghèo khổ, phát cơm cho
người nghèo ở bệnh viện, phát học bổng cho sinh viên nghèo, cứu trợ
thiên tai,... Hoạt động của họ, lòng hảo tâm của họ đã góp phần giảm bớt
sự khó khăn trong xã hội nước ta hiện nay.
2. Ảnh hưởng bố thí của Phật giáo trong giáo viên đại học ở
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay
Thực hành bố thí có nghĩa là con người vứt đi cái ngã mạn đeo đẳng
suốt cuộc đời, buông bỏ lòng ích kỷ để phát tâm từ bi rộng lớn cứu giúp
người khốn khó qua cơn hoạn nạn, thì phúc báu đạt được quả thật vô
lượng, vô biên. Bố thí với tấm lòng “vì người quên mình” thông cảm và
chia sẻ với mọi người, ban niềm an vui đến mọi người cũng là đem chân
lạc đến cho bản thân mình vậy.
Giáo viên Phật tử các trường đại học ở Thành phố Hồ Chí Minh mà
chúng tôi phỏng vấn đều cho rằng, công việc giảng dạy của họ cũng cần
áp dụng Pháp thí của Phật giáo. Nghĩa là, họ phải dạy học với ý thức,
trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp cao nhất; luôn trau dồi và nâng
cao chuyên môn để đảm bảo truyền đạt kiến thức tốt nhất cho sinh viên.
Hơn nữa, họ còn phải giúp sinh viên hoàn thiện nhân cách, mong sao khi
ra trường, các em không chỉ có kiến thức rộng, tay nghề giỏi, mà còn biết
đối nhân xử thế.
Thấm nhuần Pháp thí, các giáo viên đã đem hết kiến thức tích lũy
được truyền đạt cho sinh viên. Hơn thế, họ còn luôn ý thức là tấm gương
cho sinh viên theo tinh thần người đi trước dẫn bước người đi sau, người
đi sau nối gót người đi trước. Bố thí mang đậm nét nhân bản của Phật
giáo, là chất keo sơn giữa con người và con người bằng tình thương bao
la rộng lớn mà không có dụng ý cá nhân.
Tính cần mẫn trong giảng dạy của giáo viên là một hành động cho các
sinh viên noi theo. Họ khen thưởng sinh viên đạt nhiều thành tích học tập
khả quan. Hành động Pháp thí giáo dục này đóng vai trò quan trọng cho
Nguyễn Thị Thanh Mai. Bố thí của Phật giáo 79
Phật pháp nói riêng và xã hội nói chung. Ủng hộ tiền bạc, còn gọi là Tài
thí, cho sinh viên trong các hoạt động ngoại khóa với mức lương khiêm
tốn và tùy vào khả năng của mỗi giáo viên là một động lực góp phần giúp
các em giữ vững tinh thần trên bước đường học tập. Bên cạnh đó, các
giáo viên còn in tài liệu học tập, chỉ dạy cho sinh viên phương pháp
nghiên cứu, chia sẻ kiến thức cuộc sống khi các em còn đang ngồi ở ghế
nhà trường.
Ngoài việc giảng dạy, huấn luyện sinh viên trở thành người tài giỏi,
đóng vai trò như cha mẹ hay anh em nâng đỡ về mặt tinh thần những lúc
các em gặp hoạn nạn hay điều không may, các giáo viên còn luôn chia sẻ
và lắng nghe những nỗi niềm riêng tư, dạy dỗ, khuyên nhủ, động viên,
che chở và giúp đỡ các em vượt thoát qua những hoàn cảnh khốn khó.
Theo cách này, giáo viên như những vị thần hiện thân, những ân nhân
luôn có mặt để giúp các em trưởng thành vững vàng trong cuộc sống.
Phúc báu của hạnh Vô úy thí8 còn gì bằng. Giáo viên có thể thể hiện Vô
úy thí qua việc coi trọng sinh viên, khen thưởng tuyên dương khi các em
học giỏi, an ủi động viên khi các em mất tinh thần học tập. Vô úy thí là
giúp cho người khác không sợ hãi. Ví dụ, khi người khác sợ hãi hay lo
lắng vì gặp một sự cố gì đó, mình vỗ về để họ được an lòng. Những học
trò mồ côi cha mẹ từ nhỏ hiền lành, rụt rè, thường bị bạn bè chọc ghẹo,
thầy cô cần phải đứng ra bảo vệ, an ủi, động viên, khuyến khích học trò
yên tâm học hành tiến bộ, cũng như chia sẻ những khó khăn trong học tập
và trong cuộc sống của các em.
Tóm lại, các giáo viên được chúng tôi phỏng vấn đều cho rằng, trước
khi biết được Phật pháp thì giảng dạy đúng nghề nghiệp chuyên môn là
hài lòng rồi, nhưng khi biết được Phật pháp thì thấy việc đào tạo, rèn
luyện nghề nghiệp cho sinh viên là chưa đủ, mà còn phải dạy thêm cho
các em đạo đức làm người để khi các em ra trường có kiến thức tay nghề
giỏi và nhân cách tốt.
3. Kết luận
Thực hành bố thí là một hành động mang ý nghĩa cao cả, đem lại lợi
lạc cho bản thân và cộng đồng. Bố thí không cao xa mà rất gần gũi. Mỗi
người hiểu được Phật pháp và ứng dụng bố thí trong công việc sẽ có
thêm nhiệt huyết, tận tâm cống hiến cho công việc, hiểu thêm giá trị của
việc mình làm cho mọi người. Nghề dạy học là một nghề cao quý, mỗi
thầy giáo, cô giáo đã, đang và sẽ tiếp tục cống hiến cho xã hội thông qua
80 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 4 - 2014
việc đào tạo những chủ nhân tương lai của đất nước. Hiểu được bố thí
của Phật giáo, họ sẽ vượt qua được những khó khăn trước mắt của cá
nhân để tiếp tục công cuộc trồng người. Người giáo viên ứng dụng Phật
pháp vào công việc sẽ tạo môi trường sư phạm lành mạnh, mọi người
chan hòa, giúp đỡ lẫn nhau, tình cảm thầy trò, đồng nghiệp sẽ thêm bền
chặt. Xây dựng các mối quan hệ gắn kết sẽ làm cho xã hội ngày một
vững mạnh, mọi người cùng chung tay góp sức để tiến tới xã hội tốt đẹp
hơn trong tương lai./.
CHÚ THÍCH:
1
song-tai-gia-thich-thien-bao.html
2 Thích Thanh Từ (1997), Kinh Tăng Nhất A Hàm, XXII, Viện Nghiên cứu Phật
học Việt Nam: 14.
3
4
5 Thích Minh Châu dịch (1996), Kinh Tăng Chi Bộ, Sài Gòn ấn hành.
6
7
cung-duong-Thich-Nhat-Tu.html.
8 Tỳ khưu Tăng Định biên soạn (2009), Trích Kinh Nhật tụng cư sĩ, Nxb. Tôn giáo: 430.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thích Trí Siêu (2011), Bố thí Ba La Mật, Nxb. Phương Đông.
2. Nhã Tịnh dịch (2013), “Ý nghĩa và giá trị của việc bố thí”, trong Đạo Phật ngày
nay, tập 34, Nxb. Phương Đông.
3. Tỳ khưu Trung Thiện biện soạn (2013), Không có thiện pháp nhỏ, Nxb. Tôn giáo.
4. 3.Thích Minh Châu (2000), Kinh Tương Ưng Bộ, tập 1,
Co-Ke.html.
5. Thích Minh Châu dịch (1996), Kinh Tăng Chi Bộ, Sài Gòn ấn hành.
6. Thích Quảng Độ dịch (1999), Phật Quang đại từ điển, quyển 1, Hội Văn hóa
Linh Sơn Đài Bắc xuất bản.
7. Thích Trí Tịnh (2006), Kinh Địa Tạng bồ tát bổn nguyện, Nxb. Tôn giáo.
8. Thích Thanh Từ (1997), Kinh Tăng Nhất A Hàm, XXII, Viện Nghiên cứu Phật
học Việt Nam.
9. Tỳ kheo Tăng Định (biên soạn (2009,) Trích Kinh Nhật tụng cư sĩ, Nxb. Tôn
giáo.
10. Thích Trí Tịnh dịch (2005), Kinh Hoa Nghiêm, trọn bộ 4 tập, Nxb. Tôn giáo.
Nguyễn Thị Thanh Mai. Bố thí của Phật giáo 81
Abstract
ALMS IN BUDDHISM APPLIED THE TEACHING IN HO CHI
MINH CITY UNIVERSITIES TODAY
In Buddhism, alms are human help in materially and spiritually. This
is a magnanimous deep comes from the mind of compassion. To
understand the Buddhist teachings to conduct alms will bring more useful
for oneself and society, especially for the teacher doing people growing.
When every teacher understood the lofty significance of alms, he/she
would give more in the training of human resources for social by both
firmly professional knowledge and good morals. Basing on the results of
in-depth interviews in person or send questionnaires via email for 6 male
teachers and 16 female teachers, aged from 28 to 50, as Buddhists
teaching at the universities in Ho Chi Minh City, this article shown the
result of learning about how the teacher as Buddhist applied Buddhist
teachings to their careers.
Key words: Buddhism, alms, teaching, university, Ho Chi Minh City.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 24323_81360_1_pb_1874.pdf