Người ta đã khắc câu nói nổi tiếng của I. Kant trên bia mộ của ông:
“Có hai sự kiện làm cho chúng ta càng suy nghĩ càng cảm thấy bàng
hoàng, khiếp sợ, đó là khoảng trống không trên bầu trời và khoảng trống
không về chuẩn mực đạo đức trong tâm của chúng ta”. Hai sự kiện, hai
khoảng trống mà I. Kant nói đến, đối với ông là hoàn toàn thụ động,
nhưng đối với thiền định của Phật giáo thì lại hoàn toàn chủ động.
Khoảng không của thiền định bao giờ cũng tạo điều kiện tối ưu để trí tuệ
và giải thoát thăng hoa.
Thứ hai, giải thoát bắt đầu từ cá nhân chứ không phải từ cộng đồng.
Nếu Tuệ là tự cảm nhận chứ không phải là truyền đạt - tiếp thu. Vậy thì
không có cộng đồng nào có thể làm việc đó thay cho cá nhân cả. Nếu như
sáng tạo bao giờ cũng bắt đầu từ cá nhân thì giải thoát cũng vậy. Giải
thoát là sự sáng tạo của sáng tạo. Trần Thái Tông trong Khóa hư lục
khẳng định rằng, không có thiền định thì không có trí tuệ, không có trí
tuệ thì không có giải thoát.
Tóm lại, đạo đức và tri thức là sản phẩm của con người, không có nó
thì con người không thể tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, nếu đạo đức hòa
tan vào tri thức hay vào chính trị, thì con người trở thành con người kinh
tế hoặc con người chính trị. Phật giáo không phải không bàn đến kinh tế
hay chính trị. Chẳng phải Phật giáo đời Trần đã làm cho kinh tế, chính trị
của đất nước lúc bấy giờ phát triển mạnh mẽ đó sao? Tuy nhiên, kinh tế,
chính trị chỉ là điều kiện chứ không phải là cứu cánh. Nó là ngón tay để
chỉ Mặt Trăng chứ không phải bản thân Mặt Trăng. Giải thoát của Phật
giáo làm cho con người trở thành con người nhân bản. Tam học của Phật
giáo là sự kết hợp giữa đạo đức - trí tuệ và thiền định để giải thoát. Cho
nên giải thoát là tự giải thoát. Tam học và giải thoát của Phật giáo đáng
để cho cuộc sống hiện nay suy ngẫm./.
6 trang |
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 665 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tôn giáo - Giá trị của tam học và giải thoát của phật giáo đối với cuộc sống hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
44 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014
HÀ THÚC MINH*
GIÁ TRỊ CỦA TAM HỌC VÀ GIẢI THOÁT CỦA PHẬT GIÁO
ĐỐI VỚI CUỘC SỐNG HIỆN NAY
Tóm tắt: Bài viết trình bày những nội dung cơ bản của Giới, Định,
Tuệ (Tam học) của Phật giáo trong sự so sánh với quan niệm về
đạo đức, tri thức của một số triết gia Phương Tây như Socrates,
Jean Jacques Rousseau, Immanuel Kant để đưa ra nhận định, Tam
học là sự kết hợp giữa đạo đức và trí tuệ bằng Thiền định đã thể
hiện đặc điểm về giải thoát của Phật giáo.
Từ khóa: Tam học (Giới, Định, Tuệ), giải thoát, Phật giáo.
Kinh điển của Phật giáo dù cho lưu truyền tám vạn bốn nghìn đi nữa
thì cũng không ra ngoài Tam học (Tisrah sikkhah/ Tisrah siksah). Tam
học còn gọi là Tam vô lậu học, gồm Giới, Định và Tuệ, là quá trình tu tập
mà bất cứ ai hướng về Phật giáo, muốn từ bỏ mọi phiền não của thế gian,
dù xuất gia hay tại gia đều không thể không trải qua. Người ta cho rằng,
Tam học là sự quy nạp của Bát chính đạo (Ariyo Atthangiko maggo/
Aryastangamarga). Chẳng hạn như chính kiến, chính tư duy thuộc về Tuệ;
chính ngữ, chính nghiệp, chính mạng, chính tinh tiến thuộc về Giới;
chính niệm, chính định thuộc về Định.
Tuy nhiên, những pháp môn quan trọng khác như Lục độ, Tứ niệm xứ
cũng chỉ là những con đường khác nhau nhưng đều hướng về mục tiêu
chung. Kinh Dịch gọi đó là “đồng quy nhi thù đồ”. Giải thoát (Moksha/
Vimoksha/ Vimukti/ Mukti) là điểm đồng quy của mọi con đường khác
nhau đó.
Bố thí, trì giới, nhẫn nại trong Lục độ (Paramita1) thuộc về Giới, còn
lại thuộc về Định và Tuệ.
Tứ niệm xứ (Satipatthana/ Satyupasthana) là niệm Thân vô tịnh, Thọ
khổ, Tâm vô thường, Pháp vô ngã. Thân và Thọ thuộc về Giới, Tâm và
Pháp thuộc về Tuệ. Định (Niệm) xuyên suốt cả Thân, Thọ, Tâm, Pháp.
*
Nhà nghiên cứu, Thành phố Hồ Chí Minh.
Hà Thúc Minh. Giá trị của tam học 45
Như vậy, Tam học không chỉ là sự quy giản của Bát chính đạo, mà
còn là sự quy giản của toàn bộ Phật giáo.
Giới (Sila) là giới luật Phật giáo, gồm nhiều loại: Ngũ giới, Bát giới,
Thập giới, Cụ túc giới, Bồ tát giới2. Giới có thể chia thành hai loại: Chỉ
trì giới và Tác trì giới. Chỉ trì giới là ngăn chặn những điều ác, Tác trì
giới là thực hành những điều thiện. Nhưng giới luật ở đây có nghĩa là tự
kiềm chế bản thân (luật kỷ) chứ không phải luật tha. Cho nên, Giới thuộc
về đạo đức hơn là pháp luật. Thực ra, đạo đức và pháp luật cũng là anh
em cùng cha khác mẹ đấy thôi. Platon chẳng đã cho rằng, luật pháp là
đạo đức không có tình cảm đó sao? Đạo đức và pháp luật là sản phẩm của
con người. Nó là chiếc phao giúp con người tồn tại và phát triển trong
sóng gió cuộc đời, đồng thời cũng là sợi dây ràng buộc của con người đối
với con người.
Định (Dhyana) là thiền định, tĩnh lự. Phật giáo Nam tông có Tứ thiền
và Tứ vô sắc định, Phật giáo Bắc tông có Niệm Phật thiền và Thực tướng
thiền.
Tuệ là trí tuệ bát nhã, là sự giác ngộ sâu sắc đạo lý của vũ trụ và nhân
sinh. Tuệ (Prajna, tiếng Anh là Wisdom) khác với tri thức (Vijnana, tiếng
Anh là Knowledge). Tri thức không những không bao hàm Tuệ, mà còn
bị liệt vào một trong ngũ uẩn (sắc, thụ, tưởng, hành, thức). Tuệ là sự
thăng hoa của tri thức. Tri thức có thể truyền đạt từ người này sang người
khác, nhưng Tuệ là sự tự cảm nhận.
Trong Tam học, đạo đức và trí tuệ đã chiếm hai phần ba. Định là thiền
định, thiền định không phải là sáng tạo của Phật giáo, nhưng Định được
dùng để nối kết giữa đạo đức và trí tuệ lại là điểm độc đáo chỉ có ở Phật
giáo. Hơn nữa, cần lưu ý rằng, trong Tam học chỉ có thuật ngữ trí tuệ
(Wisdom) chứ không phải là thuật ngữ tri thức (Knowledge).
Ở Phương Tây, từ thời cổ đại Hy Lạp, Socrates thường nói đến quan
hệ giữa tri thức (chứ không phải trí tuệ) và đạo đức. Tuy nhiên, Socrates
lại đồng nhất đạo đức và tri thức, nói đúng hơn là hòa tan đạo đức vào tri
thức. Ông đã đặt giá trị của tri thức ở hàng đầu của mọi giá trị. Theo ông,
không có gì tốt hơn tri thức và cũng không có gì tệ hại hơn là ngu dốt.
Phương Tây quan tâm giải quyết vấn đề quan hệ giữa con người và tự
nhiên hơn là vấn đề quan hệ giữa con người và con người. Socrates đề
cao giá trị của tri thức cũng chẳng có gì là lạ. Bởi vì, tri thức, lý tính,
46 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014
khoa học là chìa khóa để con người nhận thức, khai thác tự nhiên, phát
triển kinh tế đem lại cho con người đời sống vật chất đầy đủ hơn. Đạo
đức là luật kỷ, kinh tế là lợi kỷ. Lợi kỷ xem ra có phần hấp dẫn hơn là
luật kỷ. Cho nên, đạo đức có hòa tan vào tri thức hay biến mất đi nữa
cũng chẳng quan trọng lắm đâu! Chẳng trách, J. J. Rousseau than thở
rằng, nền giáo dục nước Pháp thế kỷ XVIII đã đi sai đường, vì ra sức đào
tạo trẻ em khôn lên chứ không phải tốt lên. Thậm chí, Friedrich Nietzche
còn muốn từ giã vị Thượng Đế luôn hứa hẹn sẽ bù lại một cuộc sống
Thiên Đường ở thế giới bên kia nếu con người chấp nhận một cuộc sống
lầm than ở thế giới bên này. Ông tuyên bố: “Thượng Đế đã chết”. Khi
Thượng Đế đã ra đi thì đạo đức luật kỷ kia ở lại làm gì: “Đạo đức tốt nhất
là không có đạo đức”. Đạo đức luật kỷ đã ra đi thì luật pháp, cho dù là
luật tha đi nữa, cũng sẽ được thay thế. Nhưng dẫu sao, luật pháp cũng chỉ
quản lý cái tối thiểu chứ không quản lý cái tối đa như đạo đức. Cho nên,
Phương Tây cho dù hòa tan đạo đức vào tri thức, để rồi tri thức, lý tính,
khoa học trở thành đôi đũa thần đem lại đời sống vật chất, kinh tế đầy đủ
cho con người, nhưng đồng thời cũng biến con người thành con người
kinh tế. Đạo đức là luật kỷ, kinh tế là lợi kỷ, luật và lợi bắt tay nhau làm
cho con người kinh tế dẫu sao cũng có được không gian tự do nào đó.
Tuy nhiên, cái gọi là tự do hay giải thoát thực sự thì e rằng còn lâu. Nếu
không phải vậy thì tại sao ngay ở trang mở đầu của tác phẩm Khế ước xã
hội, J. J. Rousseau đã phải thốt lên: “Con người sinh ra vốn tự do nhưng
đâu đâu cũng bị kìm kẹp”. Tuy vậy, con người kinh tế xem ra vẫn còn dễ
thở hơn con người chính trị ở Phương Đông.
Nói đến con người chính trị không thể không nói đến Nho giáo. Bởi vì,
con người chính trị là sản phẩm không phải của ai khác mà chính là của
Nho giáo. Nho giáo ra đời vào thế kỷ VI trước Công nguyên, ảnh hưởng
đến nhiều nước Phương Đông, hình thành ra cái gọi là khu vực văn hóa
Nho giáo. Nho giáo là học thuyết về đạo đức, nói đúng hơn là học thuyết
về chính trị - đạo đức. Nho giáo nguyên thủy xem đạo đức là mục đích,
chính trị là phương tiện. Nhưng 1.500 năm sau, Tống Nho đã làm một
cuộc đảo lộn ngoạn mục. Đạo đức không còn là mục đích nữa mà chỉ là
phương tiện, chính trị mới là mục đích. Cũng như Nho giáo nguyên thủy,
Tống Nho đặt đạo đức cao hơn cả sinh mệnh con người: “Chết đói là việc
nhỏ, thất tiết mới là việc lớn” (Nga tử sự tiểu, thất tiết sự đại/ 饿 死 事 小
失 节 事 大, Trình thị di thư). Đạo đức được đặt cao hơn sinh mệnh con
Hà Thúc Minh. Giá trị của tam học 47
người, nhưng lại được đặt dưới chính trị. Nho giáo nguyên thủy luôn
đứng về phía đạo đức nếu như đạo đức và chính trị mâu thuẫn, nhưng
Tống Nho lại khác. “Đại nghĩa diệt thân” (tiểu nghĩa là đạo đức, đại
nghĩa là chính trị) là chiêu bài của Tống Nho dùng để giải quyết khi mâu
thuẫn xảy ra giữa đạo đức và chính trị. Chiêu bài “đại nghĩa diệt thân”
càng được giương cao bao nhiêu thì phụ tử, huynh đệ càng tương tàn bấy
nhiêu. Trong xã hội mà Nước là sự mở rộng của Nhà, Nhà là sự thu hẹp
của Nước, thì khi chính trị đối đầu với đạo đức cũng là lúc đạo đức và vô
đạo đức trở thành những từ đồng nghĩa trong xã hội gọi là văn minh.
Phật giáo không phải không nói đến kinh tế và chính trị. Dẫu sao kinh
tế và chính trị cũng chỉ là điều kiện chứ không phải là cứu cánh của giải
thoát. Phật giáo cũng không chủ trương “ly thế mịch Bồ Đề”. Nhưng tự
do hay giải thoát của Phật giáo cũng có những sắc thái riêng không phải
giáo lý nào cũng có. Tam học là sự kết hợp giữa đạo đức và trí tuệ (chứ
không phải tri thức) bằng thiền định đã thể hiện đặc điểm về giải thoát
của Phật giáo. Có thể kể ra hai đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, giải thoát không phải bắt đầu từ bên ngoài mà bắt đầu từ
bên trong. Thiên hạ thường nói với nhau rằng, hoàn cảnh tạo ra con
người và con người cũng tạo ra hoàn cảnh. Có thể thay đổi hoàn cảnh,
thay đổi thế giới bên ngoài để từ đó thay đổi bản thân con người. Cũng có
thể thay đổi bản thân con người để từ đó thay đổi thế giới bên ngoài.
Trong hai cách đó, có lẽ giải thoát của Phật giáo theo cách thứ hai. Cần
nói thêm rằng, thay đổi thế giới không nhất thiết chỉ bằng hoạt động thực
tiễn, mà là thay đổi nhận thức của con người về thế giới. Chẳng hạn như,
hôm qua tôi nhìn núi là núi, nhìn sông là sông, hôm nay tôi nhìn núi
không phải núi, nhìn sông không phải sông. Ngày mai, tôi lại nhìn núi là
núi, nhìn sông là sông. Không phải tôi thay đổi núi sông mà chính là thay
đổi nhận thức của tôi về núi sông. Đào núi ngăn sông hay là chinh phục
tự nhiên là chuyện dài nhiều tập của khoa học. Còn chuyện thay đổi nhận
thức của tôi về thế giới là chuyện của tôi, nằm trong tầm với của tôi.
Chẳng trách Hội nghị Phật giáo Thế giới vẫn thường nhắc lại giáo lý giải
thoát đặc biệt này của Phật giáo: “A harmonious World begins in the
Mind” (Thế giới hài hòa bắt đầu từ trong Tâm), hay “Harmony in Society
begins from the Mind” (Sự hài hòa trong xã hội bắt đầu từ Tâm).
Chúng ta còn nhớ đến nhà triết học I. Kant của Đức thế kỷ XVIII
tuyên bố rằng, ông đã làm cuộc cách mạng về nhận thức luận theo kiểu
48 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 11 - 2014
Nicolas Copernic đã làm trong thiên văn học. I. Kant cho rằng, không
phải nhận thức của chủ thể phải phù hợp với khách thể mà ngược lại.
Không biết I. Kant chịu ảnh hưởng của Phật giáo nhiều hay ít, nhưng
điều mà ông tuyên bố về nhận thức luận không hẹn mà trở thành bạn
đồng hành với giải thoát của Phật giáo.
Người ta đã khắc câu nói nổi tiếng của I. Kant trên bia mộ của ông:
“Có hai sự kiện làm cho chúng ta càng suy nghĩ càng cảm thấy bàng
hoàng, khiếp sợ, đó là khoảng trống không trên bầu trời và khoảng trống
không về chuẩn mực đạo đức trong tâm của chúng ta”. Hai sự kiện, hai
khoảng trống mà I. Kant nói đến, đối với ông là hoàn toàn thụ động,
nhưng đối với thiền định của Phật giáo thì lại hoàn toàn chủ động.
Khoảng không của thiền định bao giờ cũng tạo điều kiện tối ưu để trí tuệ
và giải thoát thăng hoa.
Thứ hai, giải thoát bắt đầu từ cá nhân chứ không phải từ cộng đồng.
Nếu Tuệ là tự cảm nhận chứ không phải là truyền đạt - tiếp thu. Vậy thì
không có cộng đồng nào có thể làm việc đó thay cho cá nhân cả. Nếu như
sáng tạo bao giờ cũng bắt đầu từ cá nhân thì giải thoát cũng vậy. Giải
thoát là sự sáng tạo của sáng tạo. Trần Thái Tông trong Khóa hư lục
khẳng định rằng, không có thiền định thì không có trí tuệ, không có trí
tuệ thì không có giải thoát.
Tóm lại, đạo đức và tri thức là sản phẩm của con người, không có nó
thì con người không thể tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, nếu đạo đức hòa
tan vào tri thức hay vào chính trị, thì con người trở thành con người kinh
tế hoặc con người chính trị. Phật giáo không phải không bàn đến kinh tế
hay chính trị. Chẳng phải Phật giáo đời Trần đã làm cho kinh tế, chính trị
của đất nước lúc bấy giờ phát triển mạnh mẽ đó sao? Tuy nhiên, kinh tế,
chính trị chỉ là điều kiện chứ không phải là cứu cánh. Nó là ngón tay để
chỉ Mặt Trăng chứ không phải bản thân Mặt Trăng. Giải thoát của Phật
giáo làm cho con người trở thành con người nhân bản. Tam học của Phật
giáo là sự kết hợp giữa đạo đức - trí tuệ và thiền định để giải thoát. Cho
nên giải thoát là tự giải thoát. Tam học và giải thoát của Phật giáo đáng
để cho cuộc sống hiện nay suy ngẫm./.
Hà Thúc Minh. Giá trị của tam học 49
CHÚ THÍCH:
1
Parami trong tiếng Pali có nghĩa là hoàn thiện, hoàn mỹ, dịch sang tiếng Anh là
Perfection.
2
Ngũ giới là năm điều cấm, gồm sát sinh, trộm cắp, nói dối, tà dâm, uống rượu.
Bát giới là tám điều cấm, gồm năm điều cấm nói trên cộng thêm ba điều: không tô
son trát phấn, xức dầu thơm, nhảy múa ca hát; không nằm giường quá cao rộng;
không ăn ngoài giờ quy định.
Thập giới là mười điều cấm, gồm tám điều cấm nói trên cộng thêm hai điều:
không tàng trữ của cải, không ăn quá ngọ.
Cụ túc giới (Upasampada) còn gọi là Cận viên giới, giới luật của Tỳ kheo và Tỳ
kheo ni. Đối với Tỳ kheo gồm có 250 điều, đối với Tỳ kheo ni gồm có 348 điều.
Nhưng giới luật cơ bản vẫn không ngoài sát (sát sinh), dâm (tà dâm), vọng (nói
dối), đạo (trộm cắp) và tửu (uống rượu).
Bồ tát giới là giới luật của Phật giáo Đại thừa cho nên còn gọi là Đại thừa giới,
Phật tính giới, Phương đẳng giới, Thiên Phật giới. Bồ tát giới khác với ngũ giới,
bát giới, thập giới ở chỗ, các giới đều giữ về “sự”, tức là không được để sự việc
xảy ra, còn Bồ tát giới là giới về “tâm”, có nghĩa là ngay tại tâm cũng không có
những ý nghĩ sai phạm giới luật quy định. Bồ tát giới có ba giới tịnh gọi là Tam tụ
tịnh giới, gồm: nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới.
Abstract
THE VALUES OF TRISIKSA AND MOKSA
IN THE BUDDHISM TOWARDS THE LIFE AT PRESENT
This text presented the basic contents of the Trisiksa or three studies
included Sila (rule), Samadhi (concentrating on Buddha), Study of
wisdom in comparison with the notion of morality, knowledge of the
western philosophers such as Socrates, Jean Jacques Rousseau, Immanuel
Kant in order to propose an assessment that the Trisiksa is a combination
of morality and knowledge by Dhyana (meditation) to show
characteristics of deliverance of the Buddhism.
Keywords: Trisiksa (rule, concentrating on Buddha, study of wisdom),
Moksa (deliverance), Buddhism.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- gia_tri_cua_tam_hoc_va_giai_thoat_cua_phat_giao_doi_voi_cuoc_song_hien_nay_4489.pdf