Do những bệnh nhân trong nghiên cứu của
chúng tôi có nguy cơ cao bị bệnh tim mạch, hơn
nữa do điều kiện ở phòng khám nên chúng tôi
chỉ phân loại những bệnh nhân bị bệnh tim
thiếu máu cục bộ chủ yếu dựa vào tiền sử nhồi
máu cơ tim, chụp mạch vành trước đó, triệu
chứng khám hiện tại và hình ảnh trên siêu âm
nên có thể còn bỏ sót nhiều trường hợp. Do đó
kết quả nghiên cứu của chúng tôi có thể khác
biệt so với những nghiên cứu của tác giả khác
khi họ giải quyết tốt yếu tố này. Kết quả siêu âm
cũng chịu ảnh hưởng bởi người làm siêu âm. Do
cơ sở chỉ có 1 máy siêu âm có chức năng TDI nên
chúng tôi khó có thể so sánh tính khách quan về
kết quả siêu âm giữa người lấy mẫu và bác sĩ
siêu âm khác. Tuy nhiên, chúng tôi đã cố gắng
tránh sai số do tính chủ quan này bằng cách
chúng tôi đã chọn người có kinh nghiệm làm
siêu âm nhiều năm và đã từng làm nhiều trường
hợp về siêu âm Doppler mô để thực hiện.
7 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 569 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu tỷ lệ và mức độ rối loạn chức năng tâm trương thất trái trên bệnh nhân cao tuổi bị đái tháo đường típ 2, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 164
NGHIÊN CỨU TỶ LỆ VÀ MỨC ĐỘ RỐI LOẠN CHỨC NĂNG
TÂM TRƯƠNG THẤT TRÁI TRÊN BỆNH NHÂN CAO TUỔI
BỊ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2
Nguyễn Văn Tân*, Trần Ngọc Mạnh*
TÓM TẮT
Cơ sở: Rối loạn chức năng tâm trương thất trái là một yếu tố nguy cơ dẫn đến suy tim tâm trương, là một
yếu tố dự báo diễn tiến nặng của bệnh tim mạch và tử vong trong dân số chung. Tỷ lệ bệnh nhân đái tháo đường
(ĐTĐ) ngày càng gia tăng, trong đó có gia tăng theo tuổi. Ở người cao tuổi bị bệnh ĐTĐ, khả năng có ảnh
hưởng trên tim mạch rất cao, trong đó có chức năng tâm trương thất trái. Việt Nam chưa có nghiên cứu nào sử
dụng siêu âm Doppler mô để đánh giá chức năng tâm trương thất trái ở bệnh nhân cao tuổi bị bệnh ĐTĐ típ 2.
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ, mức độ rối loạn chức năng tâm tương thất trái trên bệnh nhân cao
tuổi bị đái tháo đường típ 2.
Phương pháp nghiên cứu: Tiền cứu, cắt ngang mô tả trên 227 bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên đến khám tại
trung tâm y khoa Medic thành phố Hồ Chí Minh từ tháng 11/2010 đến tháng 4/2011 và được chia thành 2
nhóm: nhóm nghiên cứu (n=150, nhóm I) là những bệnh nhân ≥ 60 tuổi được chẩn đoán ĐTĐ típ 2 có hoặc
không có bệnh tăng huyết áp, bệnh tim thiếu máu cục bộ đi kèm; nhóm chứng (n= 77, nhóm II) là những bệnh
nhân ≥ 60 tuổi không có bệnh đái tháo đường và bệnh tim mạch, đồng ý làm siêu âm tim.
Kết quả: Tuổi trung bình trong 2 nhóm nghiên cứu là 67,58 ± 6,6 (nhóm I), 68,16 ± 6,16 (nhóm II). LVMI
(g/m2) trung bình trong nhóm I là 77,30 ± 20,69, nhóm II là 62,64 ± 14,65 (p < 0,001); vận tốc sóng A tăng
(86,91 ± 10,5 ở nhóm I so với 82,92 ± 11,5 ở nhóm II với p = 0,012). Nhóm bệnh có sự giảm vận tốc sóng e’m
(7,39 ± 1,95 so với 8,23 ± 1,95, p = 0,003) và tăng tỷ số E/e’m (9,75 ± 2,74 so với 8,86 ± 2,41, p = 0,013) so với
nhóm chứng; còn e’l (9,68 ± 2,25 so với 10,24 ± 2,18 với p = 0,056) và tỷ số E/e’l (7,35 ± 1,89 so với 7,0 ± 1,6, p =
0,16) thì không có sự khác biệt giữa 2 nhóm. Tỷ lệ rối loạn chức năng tâm trương thất trái qua khảo sát bằng
siêu âm Doppler qua phổ van 2 lá ở nhóm I là 50% (n = 75), nhóm II là 35,1% (n = 27) với p = 0,032; bằng
Doppler mô ở nhóm I là 68,7% (n = 103), nhóm II là 39% (n = 30) với p < 0,001. Tỷ lệ các mức độ rối loạn chức
năng tâm trương ở nhóm I thường gặp nhất là độ I (rối loạn dạng thư giãn) với tỷ lệ 50,3%, trong khi đó ở
nhóm II có rối loạn dạng thư giãn là 33,8%, với p < 0,05. Không ghi nhận rối loạn chức năng tâm trương thất
trái độ III ở cả hai nhóm nghiên cứu.
Kết luận: Tỷ lệ rối loạn chức năng tâm trương thất trái ở nhóm bệnh nhân cao tuổi bị đái tháo đường típ 2
cao hơn nhóm bệnh nhân cao tuổi không bị đái tháo đường típ 2 qua đánh giá bằng siêu âm Doppler phổ qua van
2 lá và Doppler mô. Mức độ rối loạn chức năng tâm trương thất trái thường gặp nhất trên bệnh nhân cao tuổi bị
đái tháo đường típ 2 là dạng rối loạn thư giãn. Siêu âm Doppler mô cải thiện khả năng phát hiện rối loạn chức
năng tâm trương thất trái của siêu âm ở bệnh nhân cao tuổi bị bệnh đái tháo đường típ 2.
Từ khóa: siêu âm tim, rối loạn chức năng tâm trương, người cao tuổi, đái tháo đường típ 2.
* Bộ môn Lão khoa – ĐHYD TP.HCM
Tác giả liên lạc: Ths.BS.Nguyễn Văn Tân ĐT: 0903739273 Email: nguyenvtan10@yahoo.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 165
ABSTRACT
THE RATE AND THE LEVEL OF LEFT VENTRICULAR DIASTOLIC DYSFUNCTION ON ELDERLY
TYPE 2 DIABETES PATIENTS
Nguyen Van Tan, Tran Ngoc Manh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3‐ 2013: 164 ‐ 170
Background: Left ventricular diastolic dysfunction is a factor that leads to diastolic heart failure, as well as a
factor that precedes the deterioration of heart disease and death in the population. The prevalence of type 2
diabetes is increasing, in which there is an increase being proportionate to the ageing. In the elderly type 2
diabetes patients, the probability of its having the effects on the heart is very high, in which case the left
ventricular diastolic function is affected. In Viet Nam, there has not been any research using tissue Doppler
ultrasonography to evaluate the left ventricular function on the elderly type 2 diabetes patients.
Objects: To define the rate and level of left ventricular diastolic dysfunction on elderly type 2 diabetes
patients.
Research method: Prospectively, cross description of 227 patients from 60 years of age or above checked up
at the Ho Chi Minh City Medic medical center over the period 11/2010 to 4/2011, divided into 2 groups: research
group (n = 150, group I) was the patients ≥ 60 years old and who were diagnosed as type 2 diabetes with or
without hypertension, ischemic heart disease accompanied; control group (n = 77, group II) was the patients ≥60
years old who were without diabetes and heart disease, and agreed to undergo ultrasonography.
Results: The mean age in the 2 groups was 67.58 ± 6.6 (group I), 68.16 ± 6.16 (group II). Mean LVMI
(g/m2) in group I was 77.30 ± 20.69, in group II being 62.64 ± 14.65 (p < 0.001); increased A wave velocity
(86.91 ± 10.5 in group I compared to 82.92 ± 11.5 in group II, p = 0.012). Group I had the decrease in e’m wave
velocity (7.39 ± 1.95 compared to 8.23 ± 1.95, p = 0.003) and had the increase in E/e’m ratio (9.75 ± 2.74
compared to 8.86 ± 2.41, p = 0.013) compared to the control group; while e’l (9.68 ± 2.25 compared to 10.24 ±
2.18, p= 0.056) and E/e’l ratio (7.35 ± 1.89 compared to 7.0 ± 1.6, p = 0.16) had no significant difference between
2 groups. Left ventricular diastolic dysfunction rate on the investigation by Doppler ultrasonography over mitral
valvular spectrum in the group I was 50% (n = 75), in group II being 35.1% (n = 27) with p = 0.032; by tissue
Doppler ultrasonography in group I was 68.7% (n = 103), in group II being 39% (=30), p < 0.001. The most
prevalent diastolic dysfunction level in group I was level I (relax type dysfunction) with the rate of 50.3%,
meanwhile the rate of relax type dysfunction in group II was 33.8%, p < 0.05. There was no level III ventricular
diastolic dysfunction in 2 groups.
Conclusions: The rate of left ventricular diastolic dysfunction in the elderly type 2 diabetes patients was
higher than those without type 2 diabetes by Doppler ultrasonography over mitral valvular spectrum and tissue
Doppler ultrasonography. The most prevalent level of left ventricular diastolic dysfunction in the elderly type 2
diabetes patients was relax type dysfunction. Tissue Doppler ultrasonography improves the probability of
detection of left ventricular diastolic dysfunction in elderly type 2 diabetes patients.
Key words: Doppler ultrasonography, diastolic dysfunction, elderly, type 2 diabetes.
MỞ ĐẦU
Rối loạn chức năng tâm trương thất trái là
một yếu tố nguy cơ dẫn đến suy tim tâm trương,
là một yếu tố dự báo diễn tiến nặng của bệnh
tim mạch và tử vong trong dân số chung(1). Có
nhiều nguyên nhân gây rối loạn chức năng tâm
trương, trong số đó có đái tháo đường và tuổi
cao. Siêu âm tim Doppler là một trong những
công cụ đánh giá chức năng tâm trương khá
chính xác, không xâm lấn, chi phí không cao.
Đặc biệt là siêu âm Doppler mô (đo vận tốc vận
động vòng van 2 lá) đánh giá chức năng tâm
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 166
trương ít phụ thuộc vào tiền tải hơn siêu âm
Doppler qui ước. Ngày nay, các khuyến cáo đã
sử dụng siêu âm Doppler mô để đánh giá chức
năng tâm trương thất trái và kết hợp với siêu âm
Doppler qui ước để phân loại mức độ rối loạn
chức năng tâm trương(2,5). Tỷ lệ bệnh nhân đái
tháo đường (ĐTĐ) ngày càng gia tăng, trong đó
có gia tăng theo tuổi. Ở người cao tuổi bị bệnh
đái tháo đường, khả năng có ảnh hưởng trên tim
mạch rất cao, trong đó có chức năng tâm trương
thất trái. Ở Việt Nam chưa có nghiên cứu nào sử
dụng siêu âm Doppler mô để đánh giá chức
năng tâm trương thất trái ở bệnh nhân cao tuổi
bị bệnh ĐTĐ típ 2. Xuất phát từ những vấn đề
đã nêu trên, chúng tôi sử dụng siêu âm Doppler
mô kết hợp với siêu âm Doppler qui ước để thực
hiện nghiên cứu này nhằm xác định tỷ lệ và
đánh giá mức độ rối loạn chức năng tâm trương
thất trái ở bệnh nhân cao tuổi bị bệnh đái tháo
đường típ 2.
ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu, cắt ngang mô tả.
Dân số nghiên cứu
Bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên đến khám tại
trung tâm y khoa Medic thành phố Hồ Chí
Minh từ tháng 11/2010 đến tháng 4/2011 và
được chia thành 2 nhóm: nhóm nghiên cứu (n
= 150, nhóm I) là những bệnh nhân ≥ 60 tuổi
được chẩn đoán ĐTĐ típ 2 có hoặc không có
bệnh tăng huyết áp, bệnh tim thiếu máu cục bộ
đi kèm; nhóm chứng (n = 77, nhóm II) là
những bệnh nhân ≥ 60 tuổi không có bệnh đái
tháo đường và bệnh tim mạch, đồng ý làm
siêu âm tim. Chúng tôi loại ra khỏi nghiên cứu
những trường hợp thỏa tiêu chuẩn chọn bệnh
nhưng có bệnh van tim nặng, bệnh cơ tim phì
đại, bệnh màng ngoài tim, rối loạn nhịp tim
(nhịp tim nhanh, rung nhĩ, cuồng nhĩ), phân
suất tống máu (EF) < 50%, những bệnh nhân
có cửa sổ siêu âm quá kém.
Cỡ mẫu
77 bệnh nhân khỏe mạnh không bệnh ĐTĐ
và bệnh tim mạch, 150 bệnh nhân ĐTĐ típ 2 có
hoặc không có bệnh tăng huyết áp, bệnh tim
thiếu máu cục bộ đi kèm.
Phương pháp thu thập số liệu
Những bệnh nhân thỏa tiêu chuẩn đồng ý
tham gia nghiên cứu sẽ được thăm khám lâm
sàng, đo điện tâm đồ và làm siêu âm tim. Về
siêu âm, chúng tôi sử dụng máy siêu âm
ALOKA PROSOUND £6 với các số liệu cần thu
thập như chỉ số siêu âm tim TM: EF, khối lượng
cơ thất trái (LVM), chỉ số Doppler xung đánh giá
lưu lượng qua van hai lá: VE, VA, E/A, thời gian
giảm tốc sóng E (DT), thời gian giãn đồng thể
tích (IVRT), chỉ số Doppler mô sóng xung cơ
tim: e’m, e’l (e’: vận tốc cơ tim đầu thời kỳ tâm
trương; e’m: e’ medial = e’ septal, e’l: e’ lateral).
Định nghĩa các biến số
Tuổi là một biến số liên tục, được tính bằng
cách lấy năm bệnh nhân tham gia nghiên cứu
trừ đi năm sinh, đơn vị tính là năm. Người cao
tuổi là người từ 60 trở lên (theo WHO 1998). Cân
nặng là một biến số liên tục, được xác định tại
thời điểm khám, đơn vị đo là kilogram (kg). Chỉ
số khối cơ thể (BMI) là một biến số liên tục, được
tính bằng công thức: cân nặng x 10000/(chiều
cao)2, đơn vị đo là kg/m2.
Tăng huyết áp (THA) là một biến số không
liên tục, có 2 giá trị là có và không. Một người bị
bệnh THA khi có tiền căn chẩn đoán bị bệnh
THA và đang dùng thuốc hạ áp hoặc có huyết
áp tâm thu (HATThu) ≥ 140 mmHg và hoặc
huyết áp tâm trương (HATTr) ≥ 90 mmHg ở 2
lần đo cách nhau ít nhất 30 phút và không có
dùng chất kích thích thần kinh trước đó (JNC
VII). Huyết áp tâm thu, huyết áp tâm trương là
những biến số liên tục, được đo lúc khám, đơn
vị đo là mmHg. Đái tháo đường là một biến số
không liên tục, có 2 giá trị là có hoặc không. Một
người bị bệnh ĐTĐ típ 2 khi đã được chẩn đoán
bị ĐTĐ típ 2 trước đó và đang dùng thuốc hạ
đường huyết hoặc có đường huyết đói ≥ 126
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 167
mg/dl ở 2 lần đo khác nhau và có những đặc
điểm của ĐTĐ típ 2(6).
Bệnh tim thiếu máu cục bộ là một biến số
không liên tục, có 2 giá trị là không và có.
Những bệnh nhân được xem là có bệnh tim
thiếu máu cục bộ khi có triệu chứng đau ngực
điển hình (đau sau xương ức với tính chất và
thời gian điển hình và xảy ra khi gắng sức hoặc
stress và giảm khi nghỉ hoặc khi sử dụng
nitroglycerine) hoặc có triệu chứng đau ngực
không điển hình và có thay đổi đoạn ST‐T trên
điện tim (ST chênh lên ≥ 2 mm ít nhất 2 chuyển
đạo liên tiếp ở chuyển đạo trước ngực, ≥ 1 mm ít
nhất 2 chuyển đạo ở chuyển đạo ngoại biên hoặc
ST chênh xuống > 0,5 mm kiểu ngang hoặc lõm
xuống trong cơn đau, và/ hoặc T đảo trên 3mm
ở ít nhất 5 chuyển đạo), và/ hoặc có sóng Q của
NMCT cũ (rộng ≥ 0,4 giây hoặc cao > 1/4 sóng R
cùng chuyển đạo) và/hoặc bệnh nhân có tiền sử
NMCT phải nằm viện và hoặc có bằng chứng bị
thiếu máu cơ tim qua siêu âm tim gắng sức, điện
tâm đồ gắng sức, chụp mạch vành, siêu âm tim
có hình ảnh của NMCT cũ(8).
Phân suất tống máu là một biến số liên tục,
có đơn vị đo là %. Vận tốc sóng đổ đầy tâm
trương sớm (VE), vận tốc sóng đổ đầy tâm
trương muộn (VA) là những biến số liên tục, có
đơn vị đo là cm/s. Tỷ số E/A là một biến số liên
tục, được tính bằng công thức VE/VA. Vận tốc
của sóng vận động thành cơ tim trong kỳ tâm
trương sớm (e’m, e’l) là những biến số liên tục,
có đơn vị đo là cm/s. Tỷ số E/e’ là một biến số
liên tục, được tính bằng công thức VE/Ve’.
Khối lượng cơ thất trái (LVM) là một biên số
liên tục, được tính theo công thức qui ước Penn:
LVM = 1,04 [(Dd+IVSd+LPWP)3‐Dd3]‐13,6 đơn vị
tính bằng gram (g). Chỉ số khối lượng cơ thất
trái (LVMI) là một biến số liên tục, được tính
theo công thức: LVMI = LVM/BSA, đơn vị tính
bằng g/m2. Dày thất trái là một biến số không
liên tục, có 2 giá trị là có và không. Bệnh nhân có
dày thất trái khi LVMI >95 g/m2 ở nữ, LVMI
>115 g/m2 ở nam(6).
Phân độ rối loạn chức năng tâm trương dựa
vào siêu âm tim Doppler(9): Độ I: rối loạn thư
giãn (impaired relaxation), e’m <8 cm/s và E/A <
0,8 hoặc DT > 200 ms; Độ II: giả bình thường
(pseudonormal), e’m < 8 cm/s và 0,8 ≤ E/A ≤ 2
hoặc 160 ≤ DT ≤200 ms; Độ III: đổ đầy hạn chế
(restrictive filling), e’m 2 hoặc
DT < 160 ms.
Phân tích số liệu
Các số liệu sẽ được mã hóa, nhập và xử lý
bằng phần mềm SPSS 11.5. Các số liệu thu thập
được trình bày dưới dạng trung bình ± độ lệch
chuẩn đối với biến số liên tục. Biến số không liên
tục được trình bày dưới dạng tỷ lệ phần trăm.
Những biến số liên tục có phân phối chuẩn sử
dụng phép kiểm T, ANOVA để so sánh các
trung bình, các biến số có giá trị phân phối
không chuẩn thì sử dụng phép kiểm MANN‐
WHITNEY WILCOXON, KRUSKAL‐WALLIS
để so sánh. Những biến số không liên tục thì
dùng phép kiểm χ2 để so sánh. Các phép kiểm
có ý nghĩa khi p < 0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu
Từ tháng 11/2010 đến tháng 04/2011 chúng
tôi thu thập được 150 bệnh nhân đái tháo đường
típ 2 từ 60 tuổi trở lên thỏa tiêu chuẩn nhóm
nghiên cứu (nhóm I = nhóm bệnh) và 77 người
không bị bệnh tim mạch và ĐTĐ từ 60 tuổi trở
lên thỏa tiêu chuẩn nhóm chứng (nhóm II). Một
số đặc điểm về dịch tễ và lâm sàng của hai
nhóm được trình bày trong bảng 1.
Bảng 1. Đặc điểm dịch tễ, lâm sàng của 2 nhóm
nghiên cứu:
Nhóm chứng
n=77
Nhóm ĐTĐ
n=150
p
Tuổi (năm) 68,16±6,16 67,58±6,6 p > 0,05
Giới (nam/nữ) 33/44 12/26 p > 0,05
BMI (kg/m2) 20,45±2.8 22,89±2.4 p < 0,001
BSA (m2) 1,49±0.12 1,56±0.14 p = 0,009
HATThu (mmHg) 121,06±10.1 123,24±9.6 p > 0,05
Thời gian ĐTĐ
(năm)
3,66±0.63
Tỷ lệ bệnh nhân
thừa cân (%)
3,9 15,8 p = 0,026
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 168
Nhóm chứng
n=77
Nhóm ĐTĐ
n=150
p
Tỷ lệ dày thất trái
(%)
0 2,6 p > 0,05
BMI trung bình và tỷ lệ thừa cân ở nhóm I
cao hơn nhóm II một cách có ý nghĩa thống kê.
Tỷ lệ dày thất trái ở nhóm I cao hơn nhưng
không có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, tỷ lệ dày
thất trái ở phân nhóm ĐTĐ là 2,6%, phân nhóm
ĐTĐ+THA là 14,7% và phân nhóm ĐTĐ + THA
+ bệnh tim thiếu máu cục bộ là 30%.
Đặc điểm siêu âm tim của hai nhóm
nghiên cứu
Bảng 2. Giá trị các thông số siêu âm Doppler phổ qua
van 2 lá giữa 2 nhóm:
Nhóm chứng
n = 77
Nhóm ĐTĐ
n = 150
p
LVM (g) 93±22,9 104±24,7 0,15
LVMI (g/m2) 62,64± 14,65 77,30± 20,69 <0,001
EF (%) 70,57± 7,02 72,51± 7,30 >0,05
VE (cm/s) 69,13±11,2 67,96±10,2 0,44
VA (cm/s) 82,92±11,5 86,91±10,5 0,012
E/A 0,84±0,13 0,80±0,11 0,18
DT (ms) 199,12±31,45 206,47±26,98 0,1
IVRT (ms) 96,88±17,22 97,73±16,67 0,71
Kết quả phân tích cho thấy chỉ có vận tốc
sóng A tăng và tỷ lệ E/A giảm ở nhóm bệnh so
với nhóm chứng là có ý nghĩa thống kê. Các
thông số VE, DT, IVRT không khác biệt giữa 2
nhóm (bảng 2). Nhóm bệnh của chúng tôi có sự
giảm vận tốc sóng e’m và tăng tỷ số E/e’m so với
nhóm chứng có ý nghĩa thống kê, còn e’l và tỷ số
E/e’l thì không có sự khác biệt giữa 2 nhóm
(bảng 3).
Bảng 3. Các thông số siêu âm Doppler mô giữa 2
nhóm
Nhóm bệnh
(n = 150)
Nhóm chứng
(n = 77)
p
e’m 7,39±1,95 8,23±1,95 0,003
e’l 9,68±2,25 10,24±2,18 0,056
E/e’m 9,75±2,74 8,86±2,41 0,013
E/e’l 7,35±1,89 7,0±1,6 0,16
Đặc điểm rối loạn chức năng tâm trương
Bảng 4. Tỷ lệ rối loạn chức năng tâm trương thất
trái ở 2 nhóm
Nhóm bệnh
(n = 150)
Nhóm chứng
(n = 77)
p
Siêu âm Doppler
phổ qua van 2 lá
50% (n = 75) 35,1% (n = 27) 0,032
Siêu âm Doppler
mô
68,7% (n =
103)
39% (n = 30) <0,001
Tỷ lệ rối loạn chức năng tâm trương ở nhóm
bệnh cao hơn nhóm chứng dù sử dụng tiêu
chuẩn siêu âm Doppler phổ qua van 2 lá (50% so
với 35,1%) hay siêu âm Doppler mô (68,7% so
với 39%). Từ kết quả này cũng cho thấy siêu âm
Doppler mô phát hiện rối loạn chức năng tâm
trương nhiều hơn siêu âm Doppler phổ qua van
2 lá ở cả nhóm bệnh (68,7% so với 50%) và nhóm
chứng (39% so với 35,1%).
Bảng 5. Tỷ lệ các mức độ rối loạn chức năng tâm
trương
Nhóm bệnh
(n = 150)
Nhóm chứng
(n = 77)
p
Bình thường 31,6% 61% <0,05
Độ I 50,3% 33,8%
Độ II 18,1% 5,2%
Độ III 0 0
Qua số liệu trên cho thấy, ở cả 2 nhóm mức
độ RLCNTTr chủ yếu là nhẹ (rối loạn thư giãn),
không có ghi nhận trường hợp nào có RLCNTTr
mức độ nặng.
BÀN LUẬN
Độ tuổi trung bình của nhóm nghiên cứu là
68,85 ± 7,41, thấp nhất là 60 tuổi, cao nhất là 91
tuổi. Độ tuổi trung bình trong nghiên cứu của
chúng tôi hơi thấp hơn nghiên cứu của tác giả
Châu Trần Phương Tuyến (70,3 ± 7,2) và tác giả
Russo C (70,4 ± 9,6)(9,3), cao hơn tác giả Boyer JK
(46,63 ± 7,7)( ). Điều này có thể do sự khác biệt ở
địa điểm lấy mẫu. Nghiên cứu của tác giả Châu
Trần Phương Tuyến và Russo, dân số chọn mẫu
là những bệnh nhân nằm viện, những bệnh
nhân này có tuổi cao hơn nhóm nghiên cứu của
chúng tôi có thể là vì tuổi càng cao thì tỷ lệ mắc
nhiều bệnh và bị biến chứng của những bệnh
mạn tính nhiều hơn nên tỷ lệ nằm viện cao hơn.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 169
Nghiên cứu của chúng tôi cao hơn tác giả Boyer
vì tác giả chỉ nghiên cứu ở những người <60
tuổi.
LVMI của nhóm nghiên cứu trung bình là
77,3 ± 20,6 thấp hơn nghiên cứu của tác giả
CTPTuyến( ).(110 ± 31,45) và tác giả Russo() (95,2
± 22,2). Sự khác về LVMI sẽ làm ảnh hưởng đến
sự khác biệt về tỷ lệ dày thất trái giữa các tác giả.
Tỷ lệ dày thất trái trong nhóm nghiên cứu của
chúng tôi là 12,67%. THA là nguyên nhân
thường gặp gây phì đại thất trái. Thời gian THA
càng dài, tỷ lệ dày thất trái càng cao. Trong
nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ dày thất trái ở
phân nhóm ĐTĐ là 2,6%, phân nhóm
ĐTĐ+THA là 14,7% và phân nhóm ĐTĐ + THA
+ bệnh tim thiếu máu cục bộ là 30%. Tỷ lệ dày
thất trái ở nhóm nghiên cứu của chúng tôi thấp
hơn so với nghiên cứu của tác giả CTPTuyến
(39,8%) điều này có thể do sự khác biệt về thời
gian bị ĐTĐ, mức độ kiểm soát đường huyết,
mức độ kiểm soát huyết áp, do kỹ thuật và chủ
quan của người làm siêu âm.
Các chỉ số VE, VA, E/A, DT là kết quả của
siêu âm Doppler phổ qua van 2 lá, phản ánh
chức năng tâm trương thất trái, sự thay đổi của
những chỉ số này phản ảnh sự thay đổi chức
năng tâm trương theo các mức độ. Ở giai đoạn
rối loạn chức năng tâm trương nhẹ (rối loạn thư
giãn), khi thất trái thư giãn chậm làm cho lưu
lượng đổ đầy tâm trương sớm chậm hơn bình
thường, biểu hiện trên siêu âm là VE giảm, DT
kéo dài. Do sự chậm trễ trong pha tâm trương
sớm làm cho máu ứ lại nhĩ trái ở pha nhĩ thu
nhiều hơn bình thường, tim sẽ bù trừ bằng cách
tăng co bóp nhĩ để tống lượng máu dư về thất,
kết quả này cho thấy trên siêu âm là VA tăng.
VE giảm, VA tăng kéo theo tỷ lệ E/A giảm (giai
đoạn I). Với tiến triển của rối loạn chức năng
tâm trương làm cho độ chênh áp lực giữa nhĩ
trái và thất trái ngày càng tăng lên, kết quả làm
tăng lưu lượng qua van 2 lá đầu thời kỳ tâm
trương, biểu hiện trên siêu âm là tăng vận tốc
sóng E, điều này làm cho tỷ lệ E/A tăng dần trở
lại giống với lúc chức năng tâm trương bình
thường, DT cũng trở về bình thường (giai đoạn
II hay giai đoạn giả bình thường). Kết quả
nghiên cứu trình bày ở bảng 2, chúng tôi nhận
thấy ở nhóm nghiên cứu có sự tăng vận tốc sóng
A, tỷ lệ E/A giảm, điều này cho thấy bệnh nhân
ĐTĐ có RLCNTTr kiểu rối loạn thư giãn.
Ở phân nhóm ĐTĐ, chúng tôi nhận thấy có
sự giảm vận tốc sóng E, tăng vận tốc sóng A và
tỷ lệ E/A giảm, DT kéo dài (kiểu rối loạn thư
giãn) so với nhóm chứng. Tuy nhiên sự khác
biệt này không có ý nghĩa (bảng 2), có lẽ do cỡ
mẫu ở phân nhóm ĐTĐ của chúng tôi còn thấp,
cũng có thể là ĐTĐ không làm thay đổi các
thông số siêu âm Doppler phổ qua van 2 lá so
với người cao tuổi. Do đó cần cỡ mẫu lớn hơn để
xác định giả thuyết này. Kết quả của nghiên cứu
chúng tôi cũng tương tự tác giả Russo.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
siêu âm Doppler mô phát hiện RLCNTTr nhiều
hơn Doppler phổ qua van 2 lá ở cả 2 nhóm
(bảng 4). Kết quả nghiên cứu của tác giả Boyer
JK cũng đã cho thấy điều này (63% so với 46%).
Ở nhóm nghiên cứu thì e’m và tỷ lệ E/e’m giảm
hơn nhóm chứng có ý nghĩa. Điều này cho thấy
rằng dù tuổi cao thì ĐTĐ, THA vẫn có ảnh
hưởng lớn trên các thông số siêu âm Doppler
mô đánh giá chức năng tâm trương. Kết quả
nghiên cứu của tác giả Russo cũng tương tự
chúng tôi().
Hiện nay các khuyến cáo về siêu âm hướng
dẫn đánh giá chức năng tâm trương đều sử
dụng siêu âm Doppler mô để chẩn đoán và kết
hợp với siêu âm Doppler phổ qua van 2 lá để
phân loại mức độ RLCNTTr, điều này đã khẳng
định lợi ích của siêu âm Doppler mô trong đánh
giá chức năng tâm trương thất trái.
Tỷ lệ RLCNTTr của nhóm nghiên cứu là
68,7%. Nhìn chung, kết quả nghiên cứu của
chúng tôi tương tự so với tác giả C.T.PTuyến()
(68,7% so với 71%). Kết quả của chúng tôi cao
hơn tác giả Russo (68,7% so với 60%) do sự khác
biệt ở tiêu chuẩn chẩn đoán RLCNTTr. Tác giả
chọn mốc e’m <7 cm/s để chẩn đoán RLCNTTr
còn chúng tôi chọn mốc e’m < 8 cm/s. Kết quả
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Nội Khoa Toàn Quốc năm 2013 170
phân nhóm ĐTĐ của chúng tôi tương tự kết quả
nghiên cứu của tác giả Boyer JK (63,2% so với
63%) phải chăng tỷ lệ RLCNTTr ở bệnh nhân
ĐTĐ típ 2 ở người cao tuổi không khác biệt so
với người trẻ tuổi. Để khẳng định điều này cần
có cỡ mẫu lớn hơn để so sánh.
Về mức độ RLCNTTr, trong nhóm nghiên
cứu chúng tôi tỷ lệ bệnh nhân rối loạn thư giãn
(độ I) chiếm 50,3% dân số, những bệnh nhân
RLCNTTr độ II chiếm 18,1% dân số, không có
bệnh nhân nào bị rối loạn kiểu hạn chế, điều này
phù hợp với những thay đổi của các thông số
đánh giá chức năng tâm trương như đã phân
tích ở trên chủ yếu là rối loạn thư giãn.
Hạn chế của nghiên cứu
Do những bệnh nhân trong nghiên cứu của
chúng tôi có nguy cơ cao bị bệnh tim mạch, hơn
nữa do điều kiện ở phòng khám nên chúng tôi
chỉ phân loại những bệnh nhân bị bệnh tim
thiếu máu cục bộ chủ yếu dựa vào tiền sử nhồi
máu cơ tim, chụp mạch vành trước đó, triệu
chứng khám hiện tại và hình ảnh trên siêu âm
nên có thể còn bỏ sót nhiều trường hợp. Do đó
kết quả nghiên cứu của chúng tôi có thể khác
biệt so với những nghiên cứu của tác giả khác
khi họ giải quyết tốt yếu tố này. Kết quả siêu âm
cũng chịu ảnh hưởng bởi người làm siêu âm. Do
cơ sở chỉ có 1 máy siêu âm có chức năng TDI nên
chúng tôi khó có thể so sánh tính khách quan về
kết quả siêu âm giữa người lấy mẫu và bác sĩ
siêu âm khác. Tuy nhiên, chúng tôi đã cố gắng
tránh sai số do tính chủ quan này bằng cách
chúng tôi đã chọn người có kinh nghiệm làm
siêu âm nhiều năm và đã từng làm nhiều trường
hợp về siêu âm Doppler mô để thực hiện.
KẾT LUẬN
Tỷ lệ rối loạn chức năng tâm trương thất trái
ở nhóm bệnh nhân cao tuổi bị đái tháo đường
típ 2 cao hơn nhóm bệnh nhân cao tuổi không bị
đái tháo đường típ 2 qua đánh giá bằng siêu âm
Doppler phổ qua van 2 lá và Doppler mô. Mức
độ rối loạn chức năng tâm trương thất trái
thường gặp nhất trên bệnh nhân cao tuổi bị đái
tháo đường típ 2 là dạng rối loạn thư giãn. Siêu
âm Doppler mô cải thiện khả năng phát hiện rối
loạn chức năng tâm trương thất trái của siêu âm
ở bệnh nhân cao tuổi bị bệnh đái tháo đường típ
2.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Aurigemma GP, Gottdiener JS, Shemanski L , Gardin J,
Kitzman D (2001), ʺPredictive value of systolic and diastolic
function for incident congestive heart failure in the elderly:
the Cardiovascular Health Studyʺ. J Am Coll Cardiol (37), pp.
1042‐1048.
2. Boyer JK, Thanigaraj S, et al. (2004). ʺPrevalence of Ventricular
Diastolic Dysfunction in Asymptomatic, Normotensive
Patients With Diabetes Mellitusʺ. American Journal of
Cardiology, 93(1), pp. 870‐874.
3. Châu Trần Phương Tuyến (2008). Khảo sát hình thái và chức
năng tâm trương thất trái bằng siêu âm tim ở bệnh nhân đái
tháo đường týp 2. Luận văn tốt nghiệp bác sĩ nội trú, Đại Học
Y Dược TP.Hồ Chí Minh.
4. Ho YC (2007), ʺEchocardiographic Assessment of Diastolic
Function. In: Solomon D Scott, ed. Essential
Echocardiographyʺ. New Jersey: Humana Press, pp. 119‐131.
5. Hunt SA, Baker DW, Chin MH (2001), ʺACC/AHA guidelines
for the evaluation and management of chronic heart failure in
the adult: executive summary. A report of the American
College of Cardiology/American Heart Association Task
Force on Practice Guidelines (Committee to Revise the 1995
Guidelines for the Evaluation and Management of Heart
Failure); developed in collaboration with the International
Society for Heart and Lung Transplantation; endorsed by the
Heart Failure Society of Americaʺ. Circulation, (104), pp. 2996‐
3007.
6. Lang RM, Bierig M, et al (2005). ʺRecommendations for
chamber quantification: a report from the American Society of
Echocardiographyʹs Guidelines and Standards Committee
and the Chamber Quantification Writing Group, developed
in conjunction with the European Association of
Echocardiography, a branch of the European Society of
Cardiologyʺ. J Am Soc Echocardiogr, 18, p. 1440‐1463.
7. Mai Thế Trạch , Nguyễn Thy Khuê (2003). Bệnh Đái Tháo
Đường. Nội Tiết Học Đại Cương. Nxb Y Học, tr. 375‐376.
8. Phạm Nguyễn Vinh (2002). Siêu Âm Tim và Bệnh Học Tim
Mạch. Nxb Y Học, tr. 161.
9. Russo C, Zhezhen J (2010). ʺEffect of diabetes and
hypertension on left ventricular diastolic function in a high‐
risk population without evidence of heart diseaseʺ. European
Journal of Heart Failure, 12, pp. 454‐461.
10. Sherif F, Nagueh MD, et al (2009). ʺGuidelines And
Standards: Recommendations for the Evaluation of Left
Ventricular Diastolic Function by Echocardiographyʺ. Journal
of the American Society of Echocardiography, 22(2), p. 127.
Ngày nhận bài báo 01‐7‐2013
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10‐7‐2013
Ngày bài báo được đăng: 01‐8‐2013
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_ty_le_va_muc_do_roi_loan_chuc_nang_tam_truong_tha.pdf