Tràn khí màng phổi
Tràn khí màng phổi do STPXPQ qua
SPQOM đã được nhiều tác giả đề cập đến và tỉ
lệ cần phải dẫn lưu ngực kín thay đổi tùy
nghiên cứu(1,8,23,27,28). Tuy nhiên, trong nghiên cứu
của chúng tôi không xảy ra tai biến này.
Villeneuve(28) qua phân tích 22 nghiên cứu
tiền cứu (từ 1974-1991) thực hiện STPXPQ trên
4252 bệnh nhân (trong đó có 19 nghiên cứu
STPXPQ dưới hướng dẫn X quang), nhận thấy
tràn khí màng phổi 4%, chảy máu 2,1% và tử
vong 0,1%. Theo thống kê của Smyth(24),
STPXPQ dưới hướng dẫn X quang giúp giảm
đáng kể tỉ lệ tràn khí màng phổi cần phải dẫn
lưu so với khi thực hiện kỹ thuật này không
có hướng dẫn X quang. So với sinh thiết hút
xuyên ngực (phương pháp được chọn để thay
thế STPXPQ trong chẩn đoán UPNB), STPXPQ
có độ nhạy thấp hơn nhưng an toàn hơn(29).
Các nghiên cứu trước đây cho thấy sinh thiết
hút xuyên ngực có độ nhạy thay đổi từ 75-
90%(14), nhưng tràn khí màng phổi xảy ra
khoảng 20%(22,30).
Theo dõi sau thủ thuật
Nghiên cứu của Ahmad(1), thực hiện
STPXPQ dưới hướng dẫn X quang cho 148 bệnh
nhân ngoại trú, sau khi kết thúc thủ thuật 1 giờ,
ghi nhận có 4 trường hợp phải nhập viện cấp
cứu: 2 trường hợp ho máu tự cầm, 1 trường hợp
ho máu (> 500 ml) cần phải soi phế quản ống
cứng và 1 trường hợp tràn khí màng phổi can
thiệp bằng thủ thuật Heimlich.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 3
trường hợp (4,8%) ho máu sau thủ thuật mà
không có biến chứng chảy máu lúc sinh thiết
(bảng 5). Lượng máu ít (< 10 ml), xử trí cho
bệnh nhân nằm nghĩ tại giường, giảm ho, 1
bệnh nhân phải thở oxy 3 lít/ phút, hết ho
máu trong ngày. Chúng tôi cũng ghi nhận có
4 trường hợp (6,4%) đau ngực sau thủ thuật
(bảng 5). Các bệnh nhân này đều được chụp X
quang phổi kiểm tra, không ghi nhận trường
hợp nào có tràn khí màng phổi. Xử trí chủ yếu
dùng giảm ho và giảm đau thông thường. Có
ý kiến cho rằng có nên chụp X quang ngực
thường qui sau STPXPQ hay không? Một
nghiên cứu 350 bệnh nhân STPXPQ, chụp X
quang ngực sau 2 giờ phát hiện 10 bệnh nhân
tràn khí màng phổi, 7 bệnh nhân có triệu
chứng. Tác giả kết luận, X quang ngực chỉ
thực hiện khi bệnh nhân có triệu chứng(12).
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 27/01/2022 | Lượt xem: 213 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nghiên cứu vai trò sinh thiết phổi xuyên phế quản dưới hướng dẫn x quang trong chẩn đoán u phổi ngoại biên, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 122
NGHIÊN CỨU VAI TRÒ SINH THIẾT PHỔI XUYÊN PHẾ QUẢN
DƯỚI HƯỚNG DẪN X QUANG TRONG CHẨN ĐOÁN
U PHỔI NGOẠI BIÊN
Ngô Thế Hoàng*, Trần Văn Ngọc**
TÓM TẮT
Mở đầu: Sinh thiết phổi xuyên phế quản (STPXPQ) là kỹ thuật giúp đạt được chẩn đoán bản chất các tổn
thương phổi dạng u ở ngoại biên (bao gồm nốt phổi đơn đôc và khối u không có sang thương nhìn thấy khi soi phế
quản ống mềm).
Mục tiêu: Đánh giá hiệu quả và tính an toàn của STPXPQ dưới hướng dẫn X quang trong chẩn đoán ung
thư phế quản nguyên phát (UTPQ) ở ngoại biên.
Phương pháp: Nghiên cứu tiền cứu trên 62 bệnh nhân được xác định có nốt phổi đơn độc và khối u trên
phim chẩn đoán hình ảnh được thực hiện STPXPQ.
Kết quả: 44 bệnh nhân được chẩn đoán ung thư phế quản, 18 bệnh nhân được chẩn đoán tổn thương
lành tính. STPXPQ đạt chẩn đoán 62,9%. Riêng với nguyên nhân ác tính, STPXPQ có độ nhạy 65,9%, độ
đặc hiệu 100%. Kết quả tốt hơn với các tổn thương có kích thước lớn (độ nhạy trong chẩn đoán nốt phổi
đơn độc là 43,8% và khối u là 78,6% với p < 0,05). Vị trí tổn thương (thùy dưới đạt kết quả cao hơn thùy
trên) và khoảng cách từ rốn phổi ảnh hưởng nhiều đến kết quả (< 2 cm không đạt được chẩn đoán nào, 4-6
cm đạt kết quả 78,6%). Kỹ thuật tương đối an toàn, không tràn khí màng phổi, chảy máu chỉ gặp 4 trường
hợp (6,4%, không cần phẫu thuật).
Kết luận: Hiệu quả của kỹ thuật STPXPQ dưới hướng dẫn X quang chẩn đoán UTPQ ngoại biên
phụ thuộc kích thước, vị trí và khoảng cách từ tổn thương đến rốn phổi. Kỹ thuật này tương đối an
toàn, ít biến chứng.
Từ khóa: Sinh thiết phổi xuyên phế quản, soi phế quản ống mềm, nốt phổi đơn độc, ung thư phế quản
nguyên phát.
ABSTRACT
THE ROLE OF TRANSBRONCHIAL LUNG BIOPSY UNDER FLUOROSCOPIC GUIDEANCE
IN THE DIAGNOSIS OF PERIPHERAL SOLITARY PULMONARY NODULES AND MASSES
Ngo The Hoang, Tran Van Ngoc
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 2 - 2011: 122 - 130
Background: Transbronchial lung biopsy (TBLB) is a well-recognized diagnostic technique in the
investigation of solitary pulmonary nodules (SPN) and peripheral masses (absence of any abnormality in the
visible area of fiberoptic bronchoscope).
Objective: To evaluate the efficacy and safety of TBLB in the diagnosis of SPN and peripheral masses,
especially diagnosis of lung carcinoma.
Methods: Prospective study was carried out on 62 patients with with chest x-ray finding consistent with
SPN and peripheral masses. All of them were underwent bronchoscopy with TBLB.
Results: Forty-four patients suffered from malignant tumors, while 18 patients had nonmalignant
* Khoa Nội tổng hợp B1 - Bệnh viện Thông nhất Tp Hồ Chí Minh
** Khoa Phổi, BV Chợ Rẫy, Bộ môn Nội, Đại học Y Dược Tp Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: BS. CKII. Ngô Thế Hoàng, ĐT: 0908418109, Email: phuonghmy@gmail.com
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 123
lesions. TBLB achieved overall diagnostic sensitivity of 62.9%. Concerning malignant lesions, TBLB had a
sensitivity of 65.9%, specificity of 100%. TBLB had a significantly better yield for masses than SPN
(sensitivity of 78.6% and 43.8% respectively, p < 0.05). The location of the tumor in the bronchopulmonary
segment was related to the rate of successful diagnosis from TBLB. No diagnosis was obtained when the
lesion was less than 2 cm from the hilum. Complications of TBLB occurred in 4 (6.4%) patients
(hemorrhage, not life threatening and not require surgery).
Conclusions: Success in obtaining diagnosis tissue of TBLB was related to location by bronchopulmonary
segment, size of the tumor and distance of the tumor from the hilum. This is an accurate and safe technique for the
diagnosis of SPN and peripheral masse.
Key words: Transbronchial lung biopsy, bronchoscopy, solitary pulmonary nodule, lung carcinoma.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thực hành lâm sàng hô hấp, cần
phải xác định bản chất của các bóng mờ dạng
u ở phổi, trong đó ung thư phế quản nguyên
phát (UTPQ) là nguyên nhân ác tính hàng
đầu, nếu được chẩn đoán sớm sẽ giúp lựa
chọn phương pháp điều trị thích hợp và cải
thiện được tỉ lệ sống còn. Bộ ba giúp chẩn
đoán gồm lâm sàng - chẩn đoán hình ảnh - soi
phế quản ống mềm (SPQOM). Sinh thiết qua
SPQOM là kỹ thuật giúp chẩn đoán mô bệnh
tin cậy. Tuy nhiên, tỉ lệ chẩn đoán thấp đối
với các tổn thương nhỏ ở ngoại biên. Nhằm
cải thiện hiệu quả chẩn đoán, kỹ thuật sinh
thiết phổi xuyên phế quản (STPXPQ) thường
được áp dụng. Nhiều nghiên cứu cho thấy lợi
ích của STPXPQ không có hướng dẫn X
quang, nhưng với kỹ thuật STPXPQ có hướng
dẫn của X quang cần phải có máy chiếu tia X
2 chiều và màn huỳnh quang tăng sáng.
Chúng tôi thực hiện nghiên cứu này nhằm xác
định giá trị STPXPQ/ X quang chẩn đoán u
phổi ngoại biên, đặc biệt chẩn đoán UTPQ.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Tiền cứu, cắt ngang, thực hiện từ 1/ 7/ 2007 -
31/ 8/ 2008 tại khoa nội soi bệnh viện Chợ Rẫy.
Tiêu chuẩn nhận bệnh
Bệnh nhân nội trú tại bệnh viện Chợ Rẫy
được xác định có u phổi ngoại biên (UPNB,
không có sang thương nhìn thấy khi SPQOM)
không có BK trong đàm, dịch dạ dày hoặc dịch
rửa phế quản.
Tiêu chuẩn loại trừ
Bệnh nhân không đồng ý hoặc đã có chẩn
đoán mô học UTPQ và/hoặc ung thư màng phổi
hoặc có chống chỉ định của SPQOM.
Tiến hành
Thiết bị và dụng cụ nghiên cứu gồm ống soi
phế quản mềm hiệu Olympus FB XT30 dài 550
mm, đường kính ngoài 6,1 mm, đường kính
kênh thủ thuật 3,2 mm. Khả năng quan sát 1200,
uốn cong 1800 lên phía trên và 1300 xuống phía
dưới. Kềm sinh thiết Olympus FB 19C. Nguồn
sáng lạnh, hệ thống camera, màn hình, hệ thống
máy vi tính để ghi và chụp ảnh đường hô hấp.
Máy chiếu tia X hai chiều (C arm) có màn huỳnh
quang tăng sáng. Máy hút, máy phun khí dung.
Monitor theo dõi huyết áp và SpO2 liên tục.
Thuốc và phương tiện cấp cứu gồm adrenalin
0,1%, atropin 0,25 mg, lidocain 2% và 10%,
xylocain gel 5%, ventolin spray, diazepam ống
10 mg, glucose 5% và 20%, ôxy tường, ống nội
khí quản, bóng ambu.
Khám bệnh nhân trước soi: hỏi tiền sử và
bệnh sử kỹ lưỡng, khám lâm sàng hô hấp. Đánh
giá các kết quả về hình ảnh học (X quang ngực
qui ước thẳng và/hoặc nghiêng và cắt lớp điện
toán ngực để xác định vị trí và kích thước của
UPNB). Khoảng cách từ rốn phổi được tính từ
chỗ chia đôi của động mạch phổi (cùng bên
UPNB) đến bờ gần nhất của UPNB trên phim
thẳng. Trên phim nghiêng, khoảng cách được
tính từ bờ gần nhất của UPNB đến phế quản gốc
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 124
trái. Khoảng cách lớn nhất trong hai khoảng
cách này được dùng để tính khoảng cách từ rốn
phổi đến UPNB. Làm các xét nghiệm tiền phẫu
thường quy cơ bản (đông cầm máu, tiểu cầu,
nhóm máu, ion đồ, công thức máu và chức năng
thận). Đo khí máu động mạch nếu có biểu biện
suy hô hấp. Đo điện tim và/hoặc siêu âm tim
nếu có yếu tố nguy cơ tim mạch. Khai thác tiền
sử chảy máu tự nhiên hay chảy máu liên quan
đến các thủ thuật, nếu có phải giải thích nguy cơ
chảy máu khi thực hiện STPXPQ.
Chuẩn bị bệnh nhân và tiến hành soi phế
quản tương tự như bất kỳ cuộc soi phế quản
ống mềm nào.
Kỹ thuật STPXPQ: sau khi xác định được vị
trí STPXPQ trên màn tăng sáng, ống soi được
đưa ra ngoại biên càng gần tổn thương càng tốt,
lặp lại tê tại chỗ để ức chế ho. Giữ ống soi ấn
chặt vào vị trí phế quản có tổn thương, trong khi
đưa kềm sinh thiết qua kênh thủ thuật. Khi kềm
sinh thiết lộ ra ở đầu xa ống soi, đẩy kềm ra xa
hơn nữa. Lúc này, theo dõi trên màn tăng sáng
và hướng kềm về phía tổn thương. Kiểm tra cả 2
chiều của màn tăng để đảm bảo chính xác vị trí
của kềm, mở và đẩy kềm đến gần tổn thương.
Lúc này, yêu cầu bệnh nhân hít sâu và cảm giác
có đề kháng nhẹ, để an toàn, dưới màn tăng
sáng, kềm sinh thiết nên cách màng phổi tạng
tối thiểu 5 mm. Sau đó, yêu cầu bệnh nhân thở
ra hết và khép kềm lại ở cuối thì thở ra. Hỏi
bệnh nhân có cảm giác đau không. Nếu bệnh
nhân ra hiệu có đau, mở và rút kềm ra, rồi thực
hiện lại ở vị trí lỗ phế quản khác. Ngược lại, nếu
bệnh nhân không đau, giữ kềm trong khoảng 6-
8 giây rồi rút kềm nhẹ nhàng nhưng dứt khoát.
Trong lúc rút kềm, đầu xa ống soi vẫn đặt ở vị
trí ấn chặt. Có hai lợi điểm của kỹ thuật này: đầu
xa ống soi vẫn ở vị trí tối ưu để tiến hành sinh
thiết tiếp mà không cần lấy ống soi ra để lau mặt
kính và nếu có chảy máu sau sinh thiết thì vị trí
ấn chặt của ống soi sẽ giới hạn máu chảy chỉ ở
phân thùy hoặc hạ phân thùy phổi. Nếu không
chảy máu, tiến hành sinh thiết tiếp, lấy 3-4 mẫu
mô tùy trường hợp.
Xử trí chảy máu trong khi thủ thuật: chảy
máu nặng (trên 50 ml, đo bằng hút qua nội soi)
xảy ra ngay sau sinh thiết thì giữ đầu xa ống soi
ở vị trí ấn chặt và hút liên tục. Nếu chảy máu
kéo dài, hút liên tục hay ngắt quãng, đầu xa ống
soi vẫn ở vị trí ấn chặt, đồng thời pha 1 ml
Adrénalin (0,1%) vào 10 ml nước muối rồi bơm
nhẹ nhàng qua ống soi. Nếu chảy máu nặng hay
thất bại với cách cầm máu như trên thì tiến hành
cấp cứu như một trường hợp xuất huyết đường
hô hấp (đặt bóng chèn, áp dụng dán bằng fibrin,
hút máu qua ống soi cứng và nêm chặt nội phế
quản của phế quản chảy máu, tách riêng cây
phế quản bằng ống nội khí quản hai nòng,
thuyên tắc mạch và cuối cùng phẫu thuật cắt
phân thùy chảy máu).
Sau thủ thuật, kiểm tra không thấy máu
chảy, rút nhẹ ống soi và yêu cầu bệnh nhân ho
nhẹ xem có chảy máu không. Nếu không, rút
ống soi và kết thúc thủ thuật. Kiểm tra dưới màn
tăng sáng xem có TKMP? X quang ngực nên
thực hiện nếu bệnh nhân ho nhiều, than đau
ngực trở lại trong lúc thủ thuật hoặc có biểu
hiện triệu chứng hô hấp khác (khó thở, nặng
ngực hay đau ngực).
Theo dõi bệnh nhân sau nội soi sinh thiết:
sau thủ thuật, bệnh nhân cần được theo dõi tại
phòng lưu. Nếu tình trạng ổn định sau 30 phút,
bệnh nhân được đưa về khoa và nhịn ăn uống ít
nhất 3 giờ để tránh sặc thức ăn vào đường thở.
Trường hợp nghi ngờ chảy máu hay tràn khí
màng phổi, cần phải theo dõi mạch, huyết áp,
nhịp thở, SpO2 và X quang kiểm tra sau 2 giờ.
Thực hiện phẫu thuật dẫn lưu khí khoang màng
phổi nếu có biến chứng tràn khí màng phổi
nặng hoặc phẫu thuật cầm máu khi có chỉ định.
Xử lý mẫu sinh thiết: mẫu mô được ngâm
vào dung dịch formol 10% và gởi đến khoa Giải
Phẫu Bệnh Lý bệnh viện Chợ Rẫy. Cố định
trong 12-24 giờ, sau đó sẽ được khử nước, vùi
mô, cắt mỏng và nhuộm để xem xét trên kính
hiển vi và được các bác sĩ chuyên khoa Giải
Phẫu Bệnh đọc kết quả.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 125
Tiêu chuẩn chẩn đoán
UTPQ khi có bằng chứng mô học ác tính.
Lao khi có bằng chứng mô học tổn thương lao
đặc hiệu, và/hoặc đáp ứng tốt về lâm sàng và
X quang với điều trị lao. Không là chẩn đoán
xác định khi kết quả mô học: viêm mãn tính
hoặc xơ hóa không đặc hiệu, trừ khi có kết
quả mô học xác định sau phẫu thuật, hoặc
viêm cấp tính, trừ khi có kết quả mô học xác
định sau phẫu thuật hoặc thương tổn biến
mất sau điều trị kháng sinh; hoặc viêm mãn
tính không đặc hiệu, trừ khi được theo dõi ít
nhất 6 tháng - 1năm thương tổn biến mất, xơ
vôi hoặc không thay đổi kích thước.
Các phương pháp chẩn đoán hỗ trợ khác
Sinh thiết hút xuyên ngực; chọc dò dịch
màng phổi và/ hoặc sinh thiết màng phổi; sinh
thiết hạch hoặc vị trí di căn; phẫu thuật cắt thùy
phổi; theo dõi đáp ứng lâm sàng, X quang
và/hoặc cắt lớp điện toán ngực; theo dõi diển
tiến bệnh.
Xử lý và tính toán thống kê
Thu thập số liệu theo biểu mẫu. Xử lý bằng
SPSS 10.0. Ngoài thống kê mô tả, tính độ nhạy,
độ đặc hiệu, giá trị tiên đoán dương, và giá trị
tiên đoán âm theo kích thước và vị trí UPNB.
Các phép so sánh và hệ số tương quan được
xem là có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm dân số nghiên cứu
Giới, tuổi
Từ 01/07/2007 đến 31/08/2008, chúng tôi đã
nhận được 62 bệnh nhân tham gia vào nghiên
cứu, bao gồm: nam 64,5% (40/62 bệnh nhân),
nữ 35,5% (22/62). Tỉ số nam/nữ = 1,8. Tuổi
trung bình: 59,9 13,1, thấp nhất 27 tuổi, cao
nhất 85 tuổi.
Nguyên nhân UPNB
62 bệnh nhân có UPNB tham gia nghiên
cứu đều được STPXPQ dưới hướng dẫn X
quang. Kết quả chẩn đoán cuối cùng gồm 18
UPNB lành tính và 44 UPNB ác tính (UTPQ),
trong đó ung thư biểu mô tuyến (56,5%) và
lao phổi (12,9%) là hai nguyên nhân thường
gặp nhất (bảng 1).
Bảng 1: Nguyên nhân UPNB (n = 62; 100%)
Lành tính 18 (29%) Ác tính 44 (71%)
Lao phổi 8 (12,9) Ung thư biểu mô
tuyến
35 (56,5)
Viêm phổi 4 (6,5) Ung thư tế bào
vảy
6 (9,7)
Harmatoma 2 (3,2) Ung thư tế bào
lớn
1 (1,6)
Viêm xơ mãn tính 2 (3,2) Ung thư không
xác định tế bào
2 (3,2)
U sụn 1 (1,6) Ung thư tế bào
nhỏ
0 (0)
Hội chứng Loeffler 1 (1,6)
Hiệu quả STPXPQ dưới hướng dẫn X
quang chẩn đoán UTPQ ngoại biên
Theo đường kính tổn thương
Bảng 2: Kết quả STPXPQ dưới hướng dẫn X
quang chẩn đoán UTPQ ngoại biên theo đường
kính tổn thương
Đường kính tổn thương (cm)
Nốt phổi
đơn độc
(NPĐĐ)
Khối u ngoại biên
(KUNB)
Tổng
số
Bản chất UPNB
2 2,1- 3 3,1- 4 4,1- 6 6
Lành tính 4 9 3 2 0 18
UTPQ 6 10 10 14 4 44
Sinh thiết (+) 2 5 8 11 3 29
Sinh thiết (-) 4 5 2 3 1 15
10 19 13 16 4 Tổng số
29 33
62
Từ kết quả được trình bày trong bảng 2,
chúng tôi tính được độ nhạy, độ đặc hiệu, giá
trị tiên đoán dương và âm của STPXPQ dưới
hướng dẫn X quang trong chẩn đoán UTPQ
của UPNB theo thứ tự là 65,9%, 100%, 100%,
54,6%, của NPĐĐ là 43,8%, 100%, 100%, 59,1%
và của KUNB là 78,6%, 100%, 100%, 45,5%.
Như vậy, khả năng chẩn đoán NPĐĐ ác tính
và KUNB ác tính có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05).
Độ nhạy và giá trị tiên đoán âm theo thứ
tự đường kính thương tổn 2 cm là 33,3% và
50%, 2,1 - 3 cm là 50% và 64,3%, 3,1 - 4 cm
là 80% và 60%, 4,1- 6 cm là 78,6% và 40%, 6
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 126
cm là 75% và 0%. Như vậy, đường kính UPNB
càng nhỏ, khả năng đạt được chẩn đoán càng
thấp.
Theo vị trí tổn thương
Bảng 3: Kết quả STPXPQ dưới hướng dẫn X quang
chẩn đoán UTPQ ngoại biên theo vị trí tổn thương
Phổi trái Phổi phải
Thùy
trên
Thùy
dưới
Thùy
trên
Thùy
giữa
Thùy
dưới
Bản
chất
UPNB
Nốt U Nốt U Nốt U Nốt U Nốt U
Tổng
số
Lành
tính 4 1 2 0 3 1 1 2 3 1 18
UTPQ 5 4 2 1 1 9 4 6 4 8 44
Sinh
thiết (+) 2 2 2 1 1 5 1 6 1 8 29
Sinh
thiết (-) 3 2 0 0 0 4 3 0 3 0 15
9 5 4 1 4 10 5 8 7 9
14 5 14 13 16
Tổng số
19 43
62
Từ kết quả được trình bày trong bảng 3,
chúng tôi tính được độ nhạy, độ đặc hiệu, giá trị
tiên đoán dương và âm của STPXPQ dưới
hướng dẫn X quang trong chẩn đoán UTPQ ở
phổi phải theo thứ tự là 68,8%, 100%, 100%,
52,4%, ở phổi trái là 58,3%, 100%, 100%, 58,3%.
Khả năng chẩn đoán UTPQ ngoại biên của
STPXPQ dưới hướng dẫn X quang ở phổi phải
(68,8%) và trái (58,3%), cũng như NPĐĐ (57,8%)
và KUNB (60%) ở phổi trái tương tự nhau (p >
0,05). Nhưng có khác biệt có ý nghĩa trong chẩn
đoán NPĐĐ (33,3%) và KUNB (82,6%) ở phổi
phải (p < 0,05). STPXPQ dưới hướng dẫn X
quang chẩn đoán UTPQ ngoại biên ở thùy dưới
cao hơn ở thùy trên, đặc biệt ở phổi trái (100% ở
thùy dưới so với 44,4%) (p < 0,05).
Theo khoảng cách từ rốn phổi
Bảng 4: Kết quả STPXPQ dưới hướng dẫn X
quang chẩn đoán UTPQ ngoại biên theo khoảng
cách từ rốn phổi
Khoảng cách từ rốn
phổi
UTPQ n = 44 Sinh thiết (+) (%)
< 2 cm 4 0 (0.)
2-4 cm 7 4 (5,1)
4-6 cm 14 11 (78,6)
> 6 cm 9 5 (55,6)
Khoảng cách từ rốn
phổi
UTPQ n = 44 Sinh thiết (+) (%)
Không xác định được 10 9 (90)
Bệnh nhân chỉ có X quang ngực thẳng.
Không sinh thiết được trường hợp nào có
khoảng cách từ rốn phổi dưới 2 cm. Kết quả
sinh thiết tương tự khi khoảng cách từ rốn phổi
2-4 cm (57,1%) và trên 6 cm (55,6%). Đạt kết quả
tốt nhất khi khoảng cách này từ 4-6 cm (78,6%).
Biến chứng của STPXPQ dưới hướng dẫn
X quang
Bảng 5: Biến chứng SPQOM và STPXPQ dưới
hướng dẫn X quang
Biến chứng STPXPQ: n = 62
(100%)
Xử trí
Chảy máu 4 (6,4)
Nhẹ 2 (3,2) Cầm máu cơ học
Trung bình 1 (1,6) Cầm máu cơ học + 2
ml Adrénalin 0,1%
Nặng 1 (1,6) Cầm máu cơ học + 4
ml Adrénalin 0,1%
Tràn khí màng phổi 0 (0)
Theo dõi sau STPXPQ: n = 62
(100%)
Xử trí
Ho máu 3 (4,8) Nghĩ ngơi + thở oxy
Đau ngực 4 (6,4) X quang phổi kiểm tra.
Giảm đau, giảm ho
Chảy máu lúc sinh thiết xảy ra 4/62 (6,4%)
trường hợp, xử trí chỉ cầm máu cơ học và
thuốc, ngưng chảy máu trong vòng 10 phút.
Không có chảy máu trầm trọng cần phải can
thiệp qua soi phế quản ống cứng hay ngoại
khoa. Không có trường hợp nào có chảy máu
tái phát. Không xảy ra biến chứng tràn khí
màng phổi. Theo dõi sau STPXPQ: 3/62 (4,8%)
trường hợp ho máu nhẹ tự cầm trong ngày và
4/62 trường hợp đau ngực, kiểm tra không
phát hiện tràn khí màng phổi. Xử trí chỉ dùng
giảm ho và giảm đau thông thường.
BÀN LUẬN
Nguyên nhân UPNB
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, UPNB có
bản chất ác tính nhiều hơn lành tính, theo thứ tự
71% và 29%, sự khác biệt này có ý nghĩa thống
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 127
kê (p < 0,05). Trong đó, chủ yếu là ung thư biểu
mô tuyến (56,5%) và lao phổi (12,9%) (bảng 1),
tương tự với một số nghiên cứu gần đây(10).
Đối với UTPQ ngoại biên, kết quả nghiên
cứu của chúng tôi cho thấy ung thư loại tế bào
tuyến chiếm ưu thế, tương tự với kết quả của
các nghiên cứu gần đây(10,11,15). Điều này phù hợp
với nhận định UTBMT hiện nay là nhóm có tỉ lệ
ngày càng tăng vượt qua nhóm UTTBV và trở
thành nhóm ung thư thường gặp nhất ở phổi(5,6).
Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi
không ghi nhận được trường hợp nào UTTBN,
có lẽ do mẫu nhỏ và lấy mẫu thuận tiện.
Hiệu quả STPXPQ dưới hướng dẫn X
quang trong chẩn đoán UPNB
Một số tác giả cho rằng đối với UPNB, kỹ
thuật STPXPQ chưa phải là phương pháp chẩn
đoán được lựa chọn đầu tiên do những nghiên
cứu trước đây cho thấy độ nhạy của STPXPQ
thay đổi từ 31 - 81%. Lí giải cho sự khác nhau
này: tỉ lệ UPNB lành và ác tính thay đổi tùy theo
nghiên cứu. Mẫu mô đạt được qua STPXPQ nhỏ
chỉ đủ để chẩn đoán mô học đối với các thương
tổn ác tính, trong khi các bệnh lý lành tính (viêm
mạch, viêm mạn tính, nhồi máu phổi) thường
cần mẫu mô lớn(26); kết quả của kỹ thuật
STPXPQ phụ thuộc vào loại tế bào ung thư, vị
trí, kích thước của UPNB và số mẫu sinh thiết có
thể đạt được trên từng bệnh nhân(2, 4,7,23).
Nếu không xét đến liên quan đường kính, vị
trí và loại thương tổn giải phẫu bệnh lý, kết quả
chẩn đoán chung cho cả tổn thương ác tính và
lành tính ở ngoại biên trong nghiên cứu của
chúng tôi có độ nhạy 59,6%. Như vậy, kết quả
nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn so với kết
quả nghiên cứu của Herth(9) là 76%. Tương tự
với kết quả nghiên cứu của Checchani(4) là 57%,
của Bilaceroglu(3) là 45%, của Baaklin(2) là 52%,
nhưng cao hơn so với kết quả nghiên cứu của
tác giả Trần Văn Ngọc(27) là 25%.
Hiệu quả của STPXPQ dưới hướng dẫn X
quang trong chẩn đoán UTPQ ngoại biên
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có độ
nhạy 65,9%, độ đặc hiệu 100%, giá trị tiên đoán
(+) 100%, giá trị tiên đoán (-) 54,6% trong chẩn
đoán UTPQ ngoại biên (bảng 2).
So với các nghiên cứu STPXPQ dưới hướng
dẫn X quang trong chẩn đoán UTPQ ngoại biên
trước đây, kết quả của chúng tôi thấp hơn so với
kết quả nghiên cứu của FJF. Herth(9) là 77,8%,
tương tự kết quả nghiên cứu của Popp(21) là
68,3%, cao hơn so với kết quả nghiên cứu của
Trần Văn Ngọc(27) là 55,6%, của Baaklini(2) là 57%,
của Bilaceroglu(3) là 49%, của Cortese(7) là 46%,
của Milman(17) là 45,5%, của Katis(13) là 38%, của
Lam(14) là 21%.
Hiệu quả chẩn đoán UTPQ theo đường
kính UPNB
NPĐĐ và KUNB
Với kết quả trình bày trong bảng cho thấy
độ nhạy của phương pháp STPXPQ dưới hướng
dẫn X quang qua SPQOM trong chẩn đoán
UTPQ của các tổn thương phổi ngoại biên dạng
NPĐĐ (43,8%) và KUNB (78,6%) trong nghiên
cứu của chúng tôi có sự khác biệt có ý nghĩa
thống kê (p < 0,05). Kết quả này thấp hơn so với
nghiên cứu của Herth(9), chẩn đoán NPĐĐ (57%)
và KUNB (89%).
Theo từng nhóm đường kính của NPĐĐ và
KUNB
Bảng 2 cho thấy đường kính của UPNB càng
lớn, khả năng đạt được chẩn đoán (độ nhạy)
trong nghiên cứu của chúng tôi càng cao và giá
trị tiên đoán âm càng thấp.
Thống kê của Shah(20), NPĐĐ có đường kính
> 2 cm kết quả chẩn đoán là 30-50%, nhưng chưa
đến 10% nếu NPĐĐ < 2 cm. Nghiên cứu của
Stringfield(25) cho kết quả tốt nhất với thương tổn
> 2 cm. Tekavec(26) nhận thấy với NPĐĐ < 2,5 cm
kết quả chẩn đoán là 53% và NPĐĐ ≥ 2,5 cm kết
quả là 87% (p < 0,05). Theo Cortese(7), đối với tổn
thương 2-3,5 cm hiệu quả chẩn đoán là 47%, tổn
thương 4-6 cm là 57%, nhưng chỉ 33% đối với
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 128
tổn thương > 6 cm. Trong nghiên cứu này, tác
giả ghi nhận không có trường hợp nào UTPQ
ngoại biên có đường kính < 2 cm được chẩn
đoán bằng kỹ thuật STPXPQ dưới hướng dẫn X
quang. Lam(14) đạt được hiệu quả chẩn đoán với
KUNB 3-6 cm là 68% và 82% đối với KUNB 6
cm. Tương tự, nghiên cứu của Ellis(8), tỉ lệ chẩn
đoán là 81% khi tổn thương ác tính khu trú > 4
cm và 58% khi tổn thương ác tính khu trú ≤ 4
cm.
Hiệu quả chẩn đoán UTPQ theo vị trí của
UPNB
Kết quả của chúng tôi tương tự với nghiên
cứu của Baaklini(2), hiệu quả chẩn đoán là 59%
đối với UTPQ ở thùy trên phải, 83% ở thùy giữa,
64% ở thùy dưới phải, 60% ở thùy trên trái và
50% ở thùy dưới trái. Nhưng khác với kết quả
nghiên cứu của Cortese(7), hiệu quả chẩn đoán là
31% tổn thương ở thùy trên phải, 38% ở thùy
dưới phải, 62% ở thùy trên trái và 57% ở thùy
dưới trái. Tác giả cho rằng, hiệu quả chẩn đoán
các thương tổn ở thùy trên phải thấp là do khó
thực hiện thao tác đưa kềm sinh thiết vào phế
quản phân thùy. Ngược lại, Shiner(23), cho rằng
các thương tổn ở thùy trên trái rất khó tiếp cận
bằng các kỹ thuật xuyên phế quản. Trong khi
đó, nghiên cứu của Herth(9) cho thấy, hiệu quả
chẩn đoán UTPQ ở thùy trên phải là 89%, thùy
trên trái là 82% cao hơn ở thùy giữa là 50% và
thùy dưới trái cũng 50%. Nghiên cứu chẩn đoán
bản chất các thương tổn phổi 2 cm, Mori(18),
nhận thấy rất khó thực hiện STPXPQ đối với các
thương tổn nhỏ ở thùy trên và phân thùy 6. Như
vậy, vị trí UPNB ảnh hưởng nhiều đến kết quả,
đặc biệt ở thùy trên. Vì khi luồn ống soi lên lấy
bệnh phẩm ở phế quản của thùy trên thường
khó do ống soi cần phải uốn cong gần như tối
đa, nên khi luồn kềm sinh thiết cũng vậy rất khó
để đạt được mẫu mô tốt. Chechani(4) khuyến cáo
nên cân nhắc đến những phương pháp chẩn
đoán khác hơn là SPQOM khi tổn thương 2
cm, đặc biệt nếu tổn thương có đường bờ rõ và/
hoặc nằm ở phân thùy đáy của thùy dưới và
phân thùy đỉnh của thùy trên.
Hiệu quả chẩn đoán UTPQ theo khoảng cách
từ rốn phổi đến UPNB
Ngoài đường kính và vị trí của UPNB, hiệu
quả chẩn đoán UTPQ của STPXPQ dưới hướng
dẫn X quang còn phụ thuộc vào khoảng cách từ
rốn phổi đến UPNB.
Theo Milman(17), kết quả chẩn đoán của
STPXPQ phụ thuộc khoảng cách từ tổn thương
đến cựa khí phế quản. Khoảng cách này này
càng lớn, hiệu quả chẩn đoán càng giảm ( 6 cm
là 70%, 6-10 cm là 52% và > 10 cm là 40%, p <
0.02). Cortese(7) STPXPQ đạt được kết quả tốt
nhất khi tổn thương ở cách rốn phổi > 5 cm
(67%). Nghiên cứu của tác giả không chẩn đoán
được trường hợp nào trong 4 UPNB ở cách rốn
phổi < 1,5 cm. Stringfield(25) đạt kết quả tốt nhất
khi STPXPQ các tổn thương > 2 cm và cách rốn
phổi 2-6 cm (71%). Chỉ 25% (1/4) trường hợp tổn
thương ở cách rốn phổi > 6 cm được chẩn đoán.
Shiner(23) nghiên cứu hiệu quả của SPQOM trong
chẩn đoán UPNB, chẩn đoán dương khi thương
tổn cách rốn phổi < 4 cm là 80% và chỉ 68% khi
thương tổn cách rốn phổi > 4 cm. Baaklini(2), chia
phế trường phổi thành 3 vùng hình ellip quanh
rốn phổi (1/3 trong, 1/3 giữa và 1/3 ngoài). Tác
giả nhận thấy hiệu quả SPQOM trong chẩn
đoán UPNB 2 cm ở 1/3 trong phế trường (14%)
thấp hơn so với UPNB ở 1/3 giữa (31%). Tác giả
cũng khuyến cáo không nên SPQOM thường
qui đối với UPNB < 2 cm ở 1/3 ngoài phế
trường. Naidich(19) cho thấy các thương tổn ở 1/3
trong phế trường, nếu có dấu hiệu khí ảnh thì
kết quả chẩn đoán sẽ cao hơn so với các thương
tổn không có dấu hiệu này.
Nghiên cứu của chúng tôi, chỉ 34/44 trường
hợp UTPQ xác định được khoảng cách từ rốn
phổi đến tổn thương (10 trường hợp còn lại chỉ
có X quang ngực thẳng), kết quả đạt được tương
tự với các tác giả trên. Cả 4 trường hợp UPNB
cách rốn phổi < 2 cm đều không đạt được chẩn
đoán qua STPXPQ dưới hướng dẫn X quang.
Khoảng cách từ tổn thương đến rốn phổi 4-6 cm
đạt được kết quả cao nhất (78%) (bảng 4).
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011 Nghiên cứu Y học
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 129
Biến chứng của STPXPQ dưới hướng dẫn
X quang
Khi thực hiện STPXPQ dưới hướng dẫn X
quang, các biến chứng xảy ra tương tự như bất
kỳ cuộc SPQOM nào bao gồm như: co thắt phế
quản, giảm oxy máu, rối loạn cơ học hô hấp,
tăng huyết áp rối loạn nhịp tim, sốt và nhiễm
khuẩn, tác dụng phụ do thuốc tê...(26,26). Riêng
với kỹ thuật STPXPQ, hai biến chứng quan
trọng nhất là chảy máu và tràn khí màng phổi.
Chảy máu
Tất cả 62 bệnh nhân đều được thực hiện
STPXPQ dưới hướng dẫn X quang qua SPQOM,
chúng tôi ghi nhận 6,4% (4/62) trường hợp có
biến chứng chảy máu, gồm: 3,2% (2/62) chảy
máu nhẹ, 1,6% (1/62) chảy máu trung bình và
1,6% (1/62) chảy máu nặng (bảng 5).
Tai biến chảy máu trong soi phế quản và
STPXPQ đã được đề cập trong y văn(1,27,28). Có tác
giả đưa ra số trường hợp tử vong do chảy máu
trên 50 ml, trong nghiên cứu của chúng tôi
không có trường hợp nào. Dự phòng chảy máu
trong và sau STPXPQ bằng cách: không sinh
thiết ở người có cơ địa chảy máu, duy trì vị trí
ấn chặt sau sinh thiết và tránh hút mạnh sau
sinh thiết, dù vẫn phải hút nhẹ-ngắn để đánh
giá mức độ máu chảy.
Tràn khí màng phổi
Tràn khí màng phổi do STPXPQ qua
SPQOM đã được nhiều tác giả đề cập đến và tỉ
lệ cần phải dẫn lưu ngực kín thay đổi tùy
nghiên cứu(1,8,23,27,28). Tuy nhiên, trong nghiên cứu
của chúng tôi không xảy ra tai biến này.
Villeneuve(28) qua phân tích 22 nghiên cứu
tiền cứu (từ 1974-1991) thực hiện STPXPQ trên
4252 bệnh nhân (trong đó có 19 nghiên cứu
STPXPQ dưới hướng dẫn X quang), nhận thấy
tràn khí màng phổi 4%, chảy máu 2,1% và tử
vong 0,1%. Theo thống kê của Smyth(24),
STPXPQ dưới hướng dẫn X quang giúp giảm
đáng kể tỉ lệ tràn khí màng phổi cần phải dẫn
lưu so với khi thực hiện kỹ thuật này không
có hướng dẫn X quang. So với sinh thiết hút
xuyên ngực (phương pháp được chọn để thay
thế STPXPQ trong chẩn đoán UPNB), STPXPQ
có độ nhạy thấp hơn nhưng an toàn hơn(29).
Các nghiên cứu trước đây cho thấy sinh thiết
hút xuyên ngực có độ nhạy thay đổi từ 75-
90%(14), nhưng tràn khí màng phổi xảy ra
khoảng 20%(22,30).
Theo dõi sau thủ thuật
Nghiên cứu của Ahmad(1), thực hiện
STPXPQ dưới hướng dẫn X quang cho 148 bệnh
nhân ngoại trú, sau khi kết thúc thủ thuật 1 giờ,
ghi nhận có 4 trường hợp phải nhập viện cấp
cứu: 2 trường hợp ho máu tự cầm, 1 trường hợp
ho máu (> 500 ml) cần phải soi phế quản ống
cứng và 1 trường hợp tràn khí màng phổi can
thiệp bằng thủ thuật Heimlich.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, có 3
trường hợp (4,8%) ho máu sau thủ thuật mà
không có biến chứng chảy máu lúc sinh thiết
(bảng 5). Lượng máu ít (< 10 ml), xử trí cho
bệnh nhân nằm nghĩ tại giường, giảm ho, 1
bệnh nhân phải thở oxy 3 lít/ phút, hết ho
máu trong ngày. Chúng tôi cũng ghi nhận có
4 trường hợp (6,4%) đau ngực sau thủ thuật
(bảng 5). Các bệnh nhân này đều được chụp X
quang phổi kiểm tra, không ghi nhận trường
hợp nào có tràn khí màng phổi. Xử trí chủ yếu
dùng giảm ho và giảm đau thông thường. Có
ý kiến cho rằng có nên chụp X quang ngực
thường qui sau STPXPQ hay không? Một
nghiên cứu 350 bệnh nhân STPXPQ, chụp X
quang ngực sau 2 giờ phát hiện 10 bệnh nhân
tràn khí màng phổi, 7 bệnh nhân có triệu
chứng. Tác giả kết luận, X quang ngực chỉ
thực hiện khi bệnh nhân có triệu chứng(12).
KẾT LUẬN
STPXPQ dưới hướng dẫn X quang chẩn
đoán UTPQ ngoại biên có độ nhạy 65,9%, độ
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 2 * 2011
Chuyên Đề Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Thống Nhất 2011 130
đặc hiệu 100%, giá trị tiên đoán (+) 100%, giá trị
tiên đoán (-) 54,6%. Hiệu quả chẩn đoán phụ
thuộc kích thước tổn thương, vị trí của tổn
thương ngoại biên ở từng thùy phổi và khoảng
cách từ tổn thương đến rốn phổi. Kỹ thuật này
tương đối an toàn, ít biến chứng (chủ yếu chảy
máu nhẹ và trung bình), không tràn khí màng
phổi, không có tử vong.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ahmad M, Livingston DR, Golish JA, Mehta AC, Wiedemann
HP (1986). “The safety of outpatient transbronchial biopsy”,
Chest, 90: 403-405.
2. Baaklini WA, Reinoso MA, Gorin AB, Sharafkaneh A, Manian P
(2000). “Diagnostic Yield of Fiberoptic Bronchoscopy in
Evaluating Solitary Pulmonary Nodules”, Chest, 117: 1049-1054.
3. Bilaceroglu S, Kumcuoglu Z, Alper Hormone, et al (1998). “CT
bronchos sign-guided bronchoscopic multiple diagnostic
procedure in carcinomatous solitary pulmonary nodules and
masses”, Respiration, 65(1): 49-55.
4. Chechani V (1996). “Bronchoscopic diagnosis of solitary
pulmonary nodules and lung masses in the absence of
endobronchial abnormality”, Chest, 109: 620-625.
5. Chhajed PN, Athavale AU, Shah AC (1999). “Clinical and
pathological prifile of 73 patients with lung carcinoma: Is the
picture changing?”, J Assoc Physicians, 47(5): 83-487.
6. Chiao CJ, Tang CC, Hui-Chen, et al (2000). “The value of trans-
bronchial lung biopsie in the diagnosis of peripheral lung tumors
accoding to cell type”, Changgeng Yi Xue Zi, 23(10):584-589.
7. Cortese DA, McDougall JC (1979). “Biopsy and brushing of
peripheral lung cancer with fluoroscopic guidance”, Chest, 75 (2):
141-145.
8. Ellis JH (1975). “Transbronchial Lung Biopsy via the Fiberoptic
Bronchoscope. Experience with 107 Consecutive Cases and
Comparison with Bronchial Brushing”, Chest, 68(4): 523-531.
9. Herth FJF, Ernst A, Becker HD (2002). “Endobronchial
ultrasound-guided transbronchial lung biopsy in solitary
pulmonary nodules and peripheral lesions”. Eur Respir J; 20, pp.
972–974.
10. Huang HY, Lee YC, Perng RP (2007). “The Factors Affecting the
Diagnostic Yield of Fiberoptic. Bronchoscopy in Evaluating
Peripheral Solitary Pulmonary Nodules or Masses”, Tzu Chi Med
J,19: 21-27.
11. Iyoda A, Suzuki M, Chiyo M, Moriya Y (2003). “A new thin-type
bronchoscope improves diagnostic accuracy of peripheral
pulmonary carcinoma”, Oncology Reports, 10: 387-389.
12. Izbicki G, Shitrit D, Yarmolovsky A, et al (2006). “Is Routine
Chest Radiography After Transbronchial Biopsy Necessary?: A
Prospective Study of 350 Cases”, Chest, 129: 1561-1564.
13. Katis K, Inglesos E, Zachariadis E, Palamidas P, Paraskevopoulos
I, et al (1995). “The role of transbronchial needle aspiration in the
diagnosis of peripheral lung masses or nodules”, Eur Respir J, 8:
963-966.
14. Lam WK, So SY, Hsu C, Yu DY (1983). “Fiberoptic
bronchoscopy in the diagnosis of bronchial cancer: Comparison
of washings, brushings and biopsies in central and peripheral
tumors”, Clinical Oncology, 9(1): 35-42.
15. Lê Tiến Dũng (2000). “Ung thư phế quản: một số đặc điểm lâm
sàng và vai trò chụp cắt lớp điện toán trong chẩn đoán”, Luận án
tiến sĩ y học, Đại học Y Dược TP.HCM.
16. Mark JBD, Marglin SI, Castellino RA (1978). “The role of
bronchoscopy and needle aspiration in the diagnosis of
peripheral lung masses”, J Thorac Cardiovasc Surg, 76: 266-268.
17. Milman N, Faurschou P, et al (1994). “Transbronchial
lungbiopsy through the fibreoptic bronchoscope. Results and
complications in 452 examinations”, Respiratory Medicine, 88
(10): 749-753.
18. Mori K, Yanase N, Ono R, Ikeda S (1989). “Diagnosis of
peripheral lung cancer in cases of tumors 2 cm or less in size”.
Chest; 95, pp. 304-308.
19. Naidich DP, Sussman R, Kutcher WL (1988). “Solitary
pulmonary nodules. CT-bronchoscopic correlation”. Chest; 93,
pp. 595-598.
20. Pallav LS (2006). “The Role of Bronchoscopy in the Diagnosis
and the Staging of Lung Cancer. Tumor of the Chest - Biology,
Diagnosis and Management”. Spinger Berlin Heidelberg; pp. 121-
125.
21. Popp W, Rauscher H, Ritschka L (1991). “Diagnostic sensitivity
of different techniques in the diagnosis of lung tumors with the
flexible fibreoptic bronchoscope. Comparison of brush biopsy,
imprint cytology of forceps biopsy, and histology of forceps
biopsy”. Cancer; 61, pp. 72-75.
22. Richardson CM, Pointon KS, et al (2002). “Percutaneous lung
biopsies: a survey of UK practice based on 5444 biopsies”. British
Journal of Radiology; 75, pp. 731–735.
23. Shiner RJ, Rosenman J, Katz I (1988). “Bronchoscopic evaluation
of peripheral lung tumours”. Thorax; 43, 887-889.
24. Smyth CM, Stead RJ (2002). “Survey of flexible bronchoscopy in
the United Kingdom”. Eur Respir J; 19, pp. 458-463.
25. Stringfield JT, Markowitz DJ, Bentz RR, Welch MH, Weg JG
(1977). “The effect of tumor size and location on diagnosis by
fiberoptic bronchoscopy”. Chest; 72, pp. 474-476.
26. Tekavec J, Grozdek D (2003). “The Role of Transbronchial Lung
Biopsy in the Diagnosis of Solitary Pulmonary Nodule”. Coll.
Antropol; 27 (2) pp. 669-675.
27. Trần Văn Ngọc (1999). “Sinh thiết phế quản và xuyên phế quản
qua soi phế quản ống mềm trong chẩn đoán bệnh lý hô hấp”,
Luận án tiến sĩ y học, Đại học Y Dược TPHCM.
28. Villeneuve MB, Kval P (1997). Transbronchial lung biopsy.
Textbook of Fiberoptic Bronchoscopy, Philadelphia; pp. 58-83.
29. Wahidi MM, Rocha AT, Hollingsworth JW, et al (2005).
“Contraindications and Safety of Transbronchial Lung Biopsy
via Flexible Bronchoscopy”. Respiration; 72, pp. 285–295.
30. Westcott JL (1998). “Percutaneous Transthoracic Needle
Biopsy”. Radiology; 169, pp. 593-601.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nghien_cuu_vai_tro_sinh_thiet_phoi_xuyen_phe_quan_duoi_huong.pdf