Kết luận
Nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển luôn đóng vai
trò trung tâm đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
Đà Nẵng. Do đó, phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng phục vụ kinh tế biển là hết sức cần thiết hiện nay
đối với thành phố. Trong thời gian qua, Đà Nẵng đã có
nhiều quan tâm đến công tác phát triển nguồn nhân lực
phục vụ kinh tế biển. Tuy nhiên, hiện nay, số lượng, cơ
cấu, chất lượng nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển của
thành phố vẫn còn nhiều hạn chế, công tác đào tạo
nguồn nhân lực kinh tế biển gặp nhiều khó khăn. Vì
vậy, trong thời gian sắp tới, Đà Nẵng cần phải tích cực
tận dụng những điều kiện thuận lợi, khắc phục những
khó khăn, thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khả thi
nhằm phát triển hiệu quả nguồn nhân lực có chất lượng
và đảm bảo về số lượng phục vụ cho các ngành kinh tế
biển trên địa bàn thành phố.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 336 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển ở thành phố Đà Nẵng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education – ISSN 1859 - 4603
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC
Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 2 (2017), 41-48 | 41
* Liên hệ tác giả
Nguyễn Thị Hương
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng
Email: nthuong_gdct@ued.udn.vn
Nhận bài:
07– 03 – 2017
Chấp nhận đăng:
28 – 06 – 2017
NGUỒN NHÂN LỰC PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
Ở THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Nguyễn Thị Hương
Tóm tắt: Đà Nẵng là thành phố cảng lớn nhất miền Trung Việt Nam, có nhiều tiềm năng và điều kiện
thuận lợi để phát triển tổng hợp kinh tế biển. Trong số đó, nguồn nhân lực luôn được coi là một nguồn
lực quan trọng và là vấn đề trung tâm, yếu tố cơ bản trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đà
Nẵng nói chung và kinh tế biển thành phố nói riêng. Tuy nhiên, nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển Đà
Nẵng đang đứng trước nguy cơ thiếu cả về số lượng lẫn chất lượng. Bài viết trình bày sự cần thiết phải
phát triển nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển của Đà Nẵng. Từ đó, bài viết đánh giá thực trạng nguồn
nhân lực và đào tạo nhân lực phục vụ kinh tế biển của thành phố thời gian qua và đề xuất một số giải
pháp khả thi nhằm phát triển nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ kinh tế biển của thành phố Đà
Nẵng.
Từ khóa: nguồn nhân lực; kinh tế biển; Đà Nẵng; đào tạo; phát triển.
1. Đặt vấn đề
Thành phố Đà Nẵng là trung tâm kinh tế, chính trị,
văn hóa của khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Hiện
nay, thành phố có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
tổng hợp kinh tế biển, từng bước trở thành trung tâm
kinh tế biển mạnh của vùng. Trong những năm qua,
Đảng bộ Đà Nẵng đã có những chủ trương, chính sách
nhằm đẩy mạnh việc phát triển kinh tế biển của thành
phố và đã thu được những kết quả rất đáng khích lệ.
Tuy nhiên trên thực tế, kinh tế biển ở Đà Nẵng vẫn phát
triển chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế vốn có
của mình. Để phát triển kinh tế biển bền vững trong
điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, nhất là
trong bối cảnh Việt Nam tham gia các hiệp định thương
mại tự do thế hệ mới, thành phố Đà Nẵng đòi hỏi phải
có nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế biển nhằm
đảm bảo khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế biển. Vì
vậy, phát triển nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển đáp
ứng yêu cầu hội nhập quốc tế đang đặt ra rất cấp bách
hiện nay.
2. Nội dung
2.1. Sự cần thiết phải phát triển nguồn nhân
lực phục vụ kinh tế biển ở Đà Nẵng
Thế kỉ XXI là thế kỉ của kinh tế tri thức, của khoa
học công nghệ hiện đại, của xã hội thông tin gắn liền
với thời đại toàn cầu hóa. Trong bối cảnh đó, hầu như
tất cả các nước đều quan tâm đến chiến lược con người,
coi con người và nguồn nhân lực là một “tài nguyên đặc
biệt”, một nguồn lực của sự phát triển kinh tế và là vấn
đề trung tâm, yếu tố cơ bản trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.
Vai trò quyết định của nguồn nhân lực đối với sự
phát triển kinh tế - xã hội có thể khái quát thành những
điểm cơ bản sau: một là, con người vừa là động lực, vừa
là mục tiêu của sự phát triển; hai là, nguồn nhân lực
quyết định việc phát huy các nguồn lực khác; ba là,
nguồn nhân lực - yếu tố quyết định giá trị gia tăng trong
quá trình sản xuất - kinh doanh; bốn là, con người - chủ
thể và khách thể trong chuỗi quản trị phát triển [5].
Thành phố Đà Nẵng là trung tâm kinh tế, chính trị,
văn hóa của khu vực miền Trung và Tây Nguyên. Đà
Nẵng là một thành phố cửa biển, là điểm nối của trục
Nguyễn Thị Hương
42
giao thông Đông - Tây, Nam - Bắc. Đà Nẵng ở vị trí
trung độ của đất nước, nằm trên một trong những tuyến
đường biển và đường hàng không quốc tế, là cửa ngõ
quan trọng của Tây Nguyên, Lào, Campuchia, Thái Lan,
Myanma và các vùng Đông Bắc Á thông qua tuyến
hành lang kinh tế Đông - Tây với điểm kết thúc là cảng
Tiên Sa. Trong giai đoạn hiện nay, vị trí địa lí của thành
phố cảng là một lợi thế quan trọng tạo điều kiện thuận
lợi cho thành phố Đà Nẵng mở rộng giao lưu kinh tế
với các tỉnh trong vùng duyên hải, Tây Nguyên, cả
nước và với nước ngoài, là tiền đề quan trọng góp
phần để các ngành kinh tế của thành phố phát triển, tạo
lực để thành phố trở thành một trong những trung tâm
phát triển của vùng trọng điểm miền Trung. Bên cạnh
đó, Đà Nẵng còn có nhiều tiềm năng, lợi thế quan
trọng khác như văn hóa biển, tài nguyên biển là điều
kiện thuận lợi để phát triển tổng hợp kinh tế biển, từng
bước trở thành trung tâm kinh tế biển mạnh của vùng,
là một trong ba trung tâm kinh tế biển lớn nhất của cả
nước, đồng thời làm bàn đạp để phát triển mạnh khai
thác các vùng biển khơi [2].
Một trong các tiềm năng, nguồn lực quan trọng phát
triển kinh tế biển Đà Nẵng chính là nguồn nhân lực.
Nguồn lực này luôn luôn là yếu tố quyết định, thúc đẩy
sự phát triển và tác động đến toàn bộ nền kinh tế nói
chung và kinh tế biển nói riêng. Hiện nay, thành phố có
tỉ lệ dân cư sống ở khu vực ven biển chiếm hơn 50%
dân số toàn thành phố. Đây vừa là nguồn lực dồi dào
vừa là thị trường tiềm năng để phát triển các ngành kinh
tế biển. Nguồn nhân lực dồi dào cùng với hệ thống đào
tạo các chuyên ngành liên quan đến kinh tế biển đang
được chú trọng phát triển tại các trường đại học, cao
đẳng, trung cấp nghề trên địa bàn thành phố góp phần
tạo ra nguồn nhân lực quan trọng để phát triển kinh tế
biển Đà Nẵng.
Tuy nhiên, ngành kinh tế biển nói chung và lĩnh
vực du lịch biển nói riêng của Đà Nẵng đã, đang và sẽ
thiếu nhân lực có kĩ năng, đặc biệt là kĩ năng ngoại
ngữ. Lĩnh vực kinh tế hàng hải Đà Nẵng hiện cũng
đang thiếu nhân lực có chuyên môn và kĩ năng. Hầu
hết các doanh nghiệp chế biến thủy sản trên địa bàn
thành phố đều gặp khó khăn trong tuyển dụng lao
động, do nghề này có môi trường làm việc khắc nghiệt,
đa số lao động không xác định gắn bó với doanh
nghiệp mà chỉ coi đây là công việc làm tạm thời cho
tới khi tìm được việc làm mới. Đối với ngành khai thác
hải sản, đây là nghề tự phát, chủ yếu dựa vào kinh
nghiệm theo kiểu “cha truyền con nối”, phương tiện
khai thác nhìn chung lỗi thời, lạc hậu và đặc điểm của
ngành đánh bắt hải sản nặng nhọc, luôn tiềm ẩn nhiều
rủi ro, nên đòi hỏi người lao động phải là nam giới, có
sức khỏe. Hầu hết lao động tham gia đánh bắt hải sản là
ngư dân ven biển, trình độ văn hóa chưa học hết phổ
thông, trình độ chuyên môn nghề nghiệp chủ yếu dựa
vào kinh nghiệm, do trình độ thấp nên hạn chế khả năng
tiếp thu kiến thức về quản lí, kĩ thuật đánh bắt và các
khả năng chuyển đổi nghề [4].
Nhìn chung, nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển ở
Đà Nẵng vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế. Trong thời
gian sắp tới, nếu không có giải pháp hữu hiệu thì Đà
Nẵng sẽ phải đối mặt với tình trạng thiếu nhân lực phục
vụ cho ngành kinh tế biển cả về số lượng và chất lượng.
2.2. Thực trạng nguồn nhân lực và đào tạo
nhân lực phục vụ kinh tế biển
Theo Chiến lược xây dựng Đà Nẵng trở thành thành
phố cảng biển vào năm 2020 của Viện Chiến lược phát
triển - Bộ Kế hoạch Đầu tư; kinh tế biển - ven biển Đà
Nẵng với các ngành kinh tế chủ yếu là:
(1) Kinh tế hàng hải: dịch vụ cảng biển, hàng hải và
hỗ trợ;
(2) Du lịch và dịch vụ biển, ven biển: tham quan,
du lịch biển, di tích lịch sử, cảnh quan, khu vui chơi
giải trí...;
(3) Khai thác và chế biến thuỷ hải sản: khai thác hải
sản xa bờ, chế biến xuất khẩu, dịch vụ hậu cần và bảo
vệ, phát triển nguồn lợi thủy sản;
(4) Xây dựng các khu công nghiệp tập trung, khu
chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị ven
biển: Khu công nghiệp thủy sản Thọ Quang, Khu công
nghiệp Liên Chiểu, Hòa Khánh, An Đồn,... gắn với hệ
thống cảng biển, sân bay quốc tế Đà Nẵng [3].
Theo đó, ba nhóm lĩnh vực chính sử dụng nhiều lao
động trong ngành kinh tế biển ở Đà Nẵng, đó là (1)
Kinh tế hàng hải, (2) Khai thác và chế biến thủy hải sản
và (3) Du lịch biển.
2.2.1. Lao động hoạt động kinh tế hàng hải
Kinh tế hàng hải được thành phố xác định là một
trong bốn lĩnh vực chính của phát triển kinh tế biển.
Theo đó từ năm 2007 đến nay, thành phố đã tập trung
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 2 (2017), 41-48
43
đầu tư nhiều cho phát triển hạ tầng cảng biển và kinh tế
hàng hải1 (xem Bảng 1).
Nhìn chung, trong giai đoạn 2011-2016, sản lượng
hàng hoá thông qua Cảng Đà Nẵng tăng đều qua các
năm và tốc độ tăng trưởng bình quân là 13%/ năm,
trong đó tốc độ tăng trưởng bình quân hàng container là
20%/ năm.
Để đạt được những kết quả đáng khích lệ như trên,
kinh tế hàng hải Đà Nẵng đã có sự đóng góp rất lớn của
đội ngũ cán bộ quản lí, các nhà lãnh đạo, cán bộ công
nhân viên và người lao động đang làm việc liên quan
đến hoạt động hàng hải của thành phố. Tính đến năm
2016, tổng lao động làm việc trong lĩnh vực dịch vụ vận
tải, kho bãi có khoảng 31.410 ngàn lao động chiếm
khoảng 6,06% lao động làm việc trong khu vực dịch vụ
và 6% trong tổng lực lượng lao động của toàn thành
phố. Mặc dù cơ cấu lao động trung bình của ngành vận
tải, kho bãi so với khu vực dịch vụ cũng như toàn bộ
nền kinh tế thành phố dao động không đều nhưng nhìn
chung có xu hướng giảm từ 2011-2013 và tăng dần
trong 3 năm gần đây. Hiện nay, riêng đối với lĩnh vực
vận tải đường thủy trên địa bàn thành phố có 9 doanh
nghiệp đang hoạt động, thu hút 129 lao động, trong đó
14,7% là lao động nữ.
1Chương trình hành động số 13-CT/TU của Thành ủy Đà
Nẵng về thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 [2].
Ngoài ra, số lượng cán bộ viên chức, người lao
động đang làm việc tại cảng Đà Nẵng đang ngày một có
chuyển biến tích cực qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 1. Cơ cấu trình độ nhân lực làm việc tại cảng
Đà Nẵng năm 2010 và năm 2016
Nguồn: Cảng Đà Nẵng năm 2017 [8]
Nhìn chung, đội ngũ nhân lực đáp ứng khá đầy đủ
nhu cầu của các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ vận
tải và kho bãi, từ lao động phổ thông đến lao động có
trình độ chuyên môn kĩ thuật, có tri thức cao. Tuy nhiên,
sự chuyển dịch lao động từ khu vực nông - lâm - thuỷ
sản sang khu vực dịch vụ theo xu thế của chuyển dịch cơ
cấu kinh tế thành phố cũng đang tạo ra những thách thức
đối với các ngành dịch vụ do chất lượng chuyển dịch
chưa bền vững, lao động chưa chủ động trong quá trình
chuyển đổi nên vấn đề đào tạo và đào tạo lại nhằm đáp
ứng yêu cầu công việc còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt
là những công việc đòi hỏi chuyên môn và kĩ năng [4].
Bảng 1. Sản lượng hàng hoá và hành khách thông qua Cảng Đà Nẵng giai đoạn 2011-2016
Năm Sản lượng Nhập khẩu Xuất khẩu Nội địa Container Hành khách
(Tấn) (Teus) (Người)
2011 3.868.545 784.891 1.598.134 1.485.520 114.373 38.190
2012 4.423.388 907.818 1.988.074 1.527.496 144.555 56.746
2013 5.010.238 1.345.060 2.361.018 1.304.160 167.447 115.912
2014 6.022.045 1.576.963 2.285.033 2.160.049 227.367 108.279
2015 6.406.000 1.902.441 2.421.106 2.082.453 258.000 51.891
2016 7.255.000 2.249.948 2.749.704 2.255.348 318.654 136.459
Nguồn: Cảng Đà Nẵng năm 2017 [8]
Nguyễn Thị Hương
44
2.2.2. Lao động khai thác và chế biến thủy, hải
sản và các vùng ven biển, hải đảo
Với mục tiêu trở thành trung tâm nghề cá mạnh của
miền Trung và cả nước, ngành khai thác thuỷ hải sản
của Đà Nẵng có mức tăng trưởng cao về giá trị kim
ngạch xuất khẩu thuỷ sản từ 14-15%/ năm (2011-2016).
Thành phố đã xác định hướng đi của mình mà điểm
nhấn được khẳng định là tăng cường đẩy mạnh khai
thác hải sản xa bờ, hạn chế tối đa vùng ven bờ, nhằm tái
tạo nguồn lợi thủy sản, theo đó, phát triển nhanh số
lượng tàu cá công suất lớn và cải hoán nâng cấp tàu cá
công suất nhỏ để vươn khơi. Khai thác thủy sản tập
trung chủ yếu tại các quận Sơn Trà, Thanh Khê, Liên
Chiểu và Hải Châu. Năm 2015, giá trị sản xuất ngành
nông nghiệp đạt 2.280 tỷ đồng (theo giá so sánh năm
2010), chiếm 2,3% GDP toàn thành phố; thủy sản chiếm
65,25% giá trị ngành nông nghiệp, tổng sản lượng hải
sản khai thác đạt 35.500 tấn2.
Theo thống kê của Chi cục Thủy sản thành phố Đà
Nẵng, hiện có 87 tổ khai thác hải sản với 567 tàu hoạt
động tại các vùng biển Hoàng Sa, Trường Sa. Thành
phố đã có 4 nghiệp đoàn nghề cá với 461 thành viên là
chủ tàu, thuyền viên tham gia tại các quận Sơn Trà,
Thanh Khê.
Tổng số lao động trên tàu thuyền khai thác hải sản
của thành phố năm 2016 giảm đi 6,6% so với năm 2010
và số lao động ngoại tỉnh chiếm khoảng 21,9% trong
tổng số lao động làm nghề khai thác trên tàu. Một thực
trạng đáng quan tâm đó là hiện nay, lực lượng lao động
trực tiếp làm nghề khai thác hải sản tại thành phố Đà
Nẵng đang rất khan hiếm, nhất là lao động trong nghề
câu mực, giã cào. Do vậy, các chủ tàu gặp nhiều khó
khăn và lúng túng trong việc tuyển lao động làm nghề
khai thác trên biển, gây ảnh hưởng lớn đến việc khai
thác hải sản. Nguyên nhân là do phần lớn các chủ tàu
đang sử dụng lao động từ các địa phương khác đến,
như: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Thừa Thiên - Huế,
Quảng Trị chỉ xuất hiện vào những tháng “trời yên,
biển lặng”. Tình trạng lao động tàu này nhảy sang tàu
khác còn diễn ra liên tục, gây khó khăn cho việc tiếp tục
tổ chức sản xuất. Bên cạnh đó, do đặc thù nghề khai
thác là lao động nặng nhọc, gặp nhiều rủi ro, nguy hiểm,
thu nhập lại phụ thuộc vào hiệu quả khai thác của
chuyến biển, đặc biệt, trong thời gian qua, tình hình
mưa bão thất thường, hiệu quả chuyến biển không cao,
nhiều lao động làm nghề khai thác đã bỏ nghề biển để
lên bờ tìm việc. Ngoài ra, vấn đề tranh chấp biển Đông
khá phức tạp nhưng thành phố chưa có chính sách để hỗ
trợ, đảm bảo an toàn để ngư dân yên tâm, ổn định với
công việc khai thác hải sản của mình. Thu nhập bình
quân của người lao động làm nghề khai thác dao động
từ 1-1,2 triệu đồng/ lao động/ tháng đối với các nghề
tuyến bờ, từ 1,5-2,5 triệu đồng/ lao động/ tháng đối với
các nghề tuyến lộng, tuyến khơi như lưới cản, lưới
vây Mỗi tàu khai thác hải sản của thành phố có bình
quân từ 6 - 7 lao động/ tàu khi đi khai thác trên biển.
Bảng 2. Số lượng lao động làm nghề khai thác hải sản
ở Đà Nẵng năm 2010 và năm 2016
ĐVT: Người
Nội dung Năm 2010 Năm 2016
Lao động trên tàu thuyền
khai thác
7.339 6.882
Lao động ngoại tỉnh làm
nghề khai thác
1.607 1.507
Nguồn: Chi cục Thuỷ sản, Sở NN&PTNT Đà Nẵng [4]
Biểu đồ 2. Cơ cấu trình độ học vấn của lao động khai
thác hải sản ở Đà Nẵng (Giai đoạn 2011 - 2016)
Nguồn: Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn [4]
2Nguồn: Chi cục Thuỷ sản, Sở NN&PTNT Đà Nẵng
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 2 (2017), 41-48
45
Trình độ học vấn của lao động làm nghề khai thác
của thành phố còn rất thấp, chủ yếu là chưa tốt nghiệp
tiểu học và tốt nghiệp tiểu học. Với trình độ học vấn
thấp, lao động khai thác chủ yếu học tập theo lối kèm
cặp, hướng dẫn nhau trong quá trình khai thác trên biển.
Về kinh nghiệm, chuyên môn: các tàu khai thác còn
thiếu thuyền trưởng giỏi và có kinh nghiệm thực tế.
Theo các chủ tàu, hiện nay tìm được một thuyền trưởng
có kiến thức, kinh nghiệm và khả năng điều hành là rất
khó. Điều này gây cản trở đáng kể đối với việc áp dụng
các công nghệ hiện đại vào việc khai thác hải sản cũng
như nhận thức của thuyền trưởng đối với vấn đề bảo vệ
môi trường và nguồn lợi thủy sản. Tuy nhiên, trong thời
gian qua, Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn
thành phố phối hợp với Trường Đại học Thủy sản Nha
Trang tổ chức đào tạo thuyền trưởng, máy trưởng. Tính
đến năm 2016, thành phố đã đào tạo được 615 thuyền
trưởng và 127 máy trưởng. Bên cạnh đó, quận Thanh
Khê hỗ trợ đào tạo thuyền viên cho 60 ngư dân tàu đánh
bắt xa bờ (miễn phí hoàn toàn). Ngoài ra, thành phố còn
tổ chức trên 50 lớp tập huấn liên quan đến khai thác, tìm
kiếm cứu nạn, an toàn hàng hải, sơ cấp cứu, phòng chống
lụt bão, giáo dục kiến thức quốc phòng - an ninh với hơn
4.500 ngư dân tham gia, trong đó, phần lớn là thành viên
của các tổ khai thác hải sản của thành phố [4].
Bên cạnh đó, theo số liệu cung cấp của Chi cục
Thống kê Đà Nẵng, tính đến 2016, tổng số lao động làm
việc trong các doanh nghiệp chế biến thủy sản có
khoảng 4.561 người, trong đó, lao động nữ chiếm tỉ lệ
lớn 73,98%. Trình độ tay nghề người lao động qua đào
tạo trong các doanh nghiệp chế biến thủy hải sản Đà
Nẵng nhìn chung có tỉ lệ thấp, trung bình chiếm 49,7%
tổng số lao động. Cụ thể, ở một số doanh nghiệp như
sau: công ty kinh doanh chế biến hàng xuất nhập khẩu
53%, công ty Thủy sản và Thương mại Thuận Phước
63%, công ty Cổ phần Thủy sản Đà Nẵng 67%, công ty
Cổ phần Thủy sản Nhật Hoàng 48%, công ty Cổ phần
Thủy sản Nam Ô 48%, công ty TNHH Thương mại
Tổng hợp Phước Tiến 36%, công ty TNHH Hải Thanh
52%, công ty TNHH Đại Thuận 41%, công ty TNHH
Hải Vy 45%, công ty TNHH Sản xuất Thương mại Hải
Dương 44%,
2.2.3. Lao động phục vụ du lịch biển
Du lịch là một ngành kinh tế mang tính đa ngành,
liên vùng và xã hội hoá cao. Do vậy, sự phụ thuộc, lan
toả về du lịch giữa các nước trong cùng khu vực, giữa các
địa phương trong vùng là một tất yếu. Với những nỗ lực
tập trung phát triển để du lịch thực sự trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn của thành phố, tổng thu du lịch giai
đoạn 2011-2015 tăng bình quân hàng năm đạt 32,84%
(tăng gấp 3,9 lần so với giai đoạn 2006-2010). Năm 2011,
tổng thu du lịch đạt 4.600 tỉ đồng, đến năm 2015 đạt
12.817 tỉ đồng, tăng gấp 3 lần so với năm 2011.
Trong thời gian qua, công tác đào tạo phát triển
nguồn nhân lực du lịch trong những năm qua đã và đang
được quan tâm. Tốc độ tăng của lực lượng lao động có
trình độ tham gia vào lĩnh vực du lịch đang ngày càng
tăng lên. Tính đến năm 2015, thành phố có 24.975 lao
động trực tiếp3 (tăng gấp 4 lần so với năm 2011) làm
việc trong các hoạt động du lịch, trong đó tỉ lệ lao động
có trình độ trên cao đẳng, đại học tăng lên là 45%.
Trong tổng số lao động trực tiếp, đội ngũ hướng dẫn
viên chiếm từ 13-14%. Đây là lực lượng nòng cốt, trực
tiếp tổ chức và tiếp xúc với khách du lịch nhưng số
lượng quá ít nên cường độ làm việc của họ trong mùa
du lịch khá cao, ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng
phục vụ. Trong tổng số 24.975 lao động làm việc trong
lĩnh vực du lịch, 50% là lao động trong khối khách sạn
và 25% là lao động khối nhà hàng.
Theo kết quả khảo sát nguồn nhân lực du lịch của
Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng,
cụ thể:
Về trình độ chuyên môn của lao động: ở khối khách
sạn có 60-80% nhân viên ở hầu hết các chức danh đều
đáp ứng yêu cầu công việc, khoảng 10% nhân viên được
đánh giá xuất sắc với hiệu quả công việc tốt hơn kì
vọng. Tuy nhiên, vẫn có khoảng 10-20% nhân viên
được đánh giá chưa đáp ứng được yêu cầu công việc.
Các vị trí khó tuyển dụng nhất tại các cơ sở lưu trú là
Quản lí bộ phận lễ tân, Quản lí bộ phận buồng, Bếp
trưởng và Quản lí bộ phận nhà hàng [4]. Ở khối lữ hành,
khu điểm du lịch có khoảng 50-70% nhân viên ở hầu hết
các chức danh đáp ứng yêu cầu công việc, khoảng 10%
nhân viên được đánh giá xuất sắc. Tuy nhiên, có 25%
nhân viên được đánh giá chưa đáp ứng được yêu cầu
thực tế công việc. Hầu hết các đơn vị lữ hành gặp khó
khăn nhất trong tuyển dụng 2 vị trí Giám đốc Xây dựng
sản phẩm và Giám đốc Marketing và kinh doanh.
Về trình độ ngoại ngữ, có khoảng 54,2% đã qua
đào tạo về ngoại ngữ trong tổng số lao động ngành du
Nguyễn Thị Hương
46
lịch của thành phố (không tính số hướng dẫn viên tự
do và lái xe), tuy nhiên số lao động có trình độ đại học
về ngoại ngữ còn khá thấp: tại các khách sạn chỉ có
11,04% lao động có trình độ đại học ngoại ngữ, nhà
hàng - 0,48%, lữ hành - 21,19% (chủ yếu tập trung ở
nhóm hướng dẫn viên), khu điểm du lịch - chỉ có
3,19%. Tuy vậy, tỉ lệ lao động chưa qua đào tạo ngoại
ngữ chung là 45,8% - mức này là khá cao. Đây là một
trở ngại lớn cho việc phát triển du lịch thành phố, cần
có biện pháp mạnh mẽ để khắc phục; vì ngoại ngữ -
đặc biệt là ngoại ngữ chuyên ngành là yêu cầu tối quan
trọng và không thể thiếu trong phục vụ du lịch. Đối
với ngoại ngữ khác, số lượng lao động có thể sử dụng
ngoại ngữ khác ngoài tiếng Anh còn rất thấp, chỉ có
2,3% tổng số lao động toàn ngành (không tính số
hướng dẫn viên tự do và lái xe), chưa đáp ứng được sự
phát triển của thị trường khách quốc tế đến với Đà
Nẵng. Ngoài những thị trường truyền thống như Trung
Quốc, Hàn Quốc và Nga, ngành du lịch thành phố còn
tìm kiếm những thị trường mới như Nhật Bản, Thái
Lan và thị trường Bắc Âu. Trong khi đó tỉ trọng lao
động có khả năng sử dụng tiếng Trung, tiếng Pháp,
tiếng Hàn, tiếng Nga và các thứ tiếng khác (Thái, Lào,
Nhật, Đức, Ý) theo kết quả khảo sát lại rất thấp lần
lượt là 1,2%; 0,4%; 0,2%; 0,2% và 0,3% [4].
Bảng 3. Lao động trực tiếp làm việc
trong lĩnh vực du lịch
(ĐVT: Người)
Nguồn: Sở Du lịch năm 2016 [4]
3Lao động trong ngành du lịch được chia thành hai nhóm:
nhóm gián tiếp và nhóm trực tiếp. Nhóm gián tiếp bao gồm
lãnh đạo, quản lí, các nhà nghiên cứu, giảng viên. Nhóm trực
tiếp bao gồm: lễ tân, phục vụ buồng, bàn, đại lí lữ hành, hướng
dẫn viên du lịch những người trực tiếp tiếp xúc với khách
hàng.
2.2.4. Đào tạo lao động kinh tế biển
Về đào tạo, trên địa bàn thành phố Đà Nẵng hiện
nay có 08 trường đại học, 14 trường cao đẳng trung
ương và địa phương, 07 trường trung cấp chuyên
nghiệp; các trường đại học và cao đẳng trên địa bàn
thành phố có khuynh hướng đào tạo đa cấp, 100% các
trường cao đẳng tham gia đào tạo hệ trung cấp, một số
tham gia đào tạo nghề. Đối với dạy nghề, hiện nay thành
phố có 52 cơ sở dạy nghề trong đó có 04 trường cao
đẳng, 08 trường trung cấp, 16 trung tâm dạy nghề và 24
cơ sở khác có tham gia đào tạo nghề. Đào tạo nghề của
Đà Nẵng có thế mạnh trong các lĩnh vực kĩ thuật, vận
tải, chế biến, dịch vụ, du lịch, công nghiệp tàu thủy
Riêng trong lĩnh vực du lịch, hiện nay trên địa bàn
thành phố có 26 cơ sở đào tạo (CSĐT) về du lịch. Theo
số liệu từ Sở Lao động Thương binh và Xã hội, từ năm
2013 đến nay, trung bình mỗi năm tổng số tuyển sinh
đầu vào ngành du lịch khoảng gần 4.500 sinh viên, số
lượng tốt nghiệp khoảng 3.450 sinh viên, đạt tỉ lệ 72-
76%. Đáng chú ý, tỉ lệ sinh viên tốt nghiệp bậc cao đẳng
nghề năm 2014 tăng gần gấp 2 lần so với năm 2013 và tỉ
lệ sinh viên tốt nghiệp sơ cấp nghề luôn giữ ở mức cao
trong 2 năm, chiếm tỉ lệ gần 60% tổng số sinh viên tốt
nghiệp ngành du lịch. Trong khi đó, tỉ lệ sinh viên tốt
nghiệp bậc đại học vẫn giữ nguyên ở mức 10% trên
tổng số sinh viên tốt nghiệp. Điều đó cho thấy, có sự
chuyển dịch trong cơ cấu bậc học của sinh viên trong 2
năm trở lại đây, đặc biệt trong năm 2014. Các học sinh
lựa chọn bậc cao đẳng hoặc sơ cấp nghề để phù hợp với
nhu cầu lao động hiện nay hơn là bậc đại học, trung cấp.
Hiện nay, toàn thành phố có tổng số 71 chương trình
đào tạo về du lịch đang được tổ chức tại 19 CSĐT tham
gia khảo sát, không có bậc thạc sỹ. Nhìn chung, các
chương trình đào tạo về du lịch chưa cập nhật và áp
dụng bộ tiêu chuẩn kĩ năng nghề du lịch VTOS, bộ tiêu
chuẩn kĩ năng nghề quốc gia. 73,2% giảng viên bộ môn
Quản lí Khách sạn và 67,9% giảng viên bộ môn Tiếng
Anh du lịch - khách sạn có bằng thạc sĩ. Trong khi đó,
chỉ có 6% giảng viên bộ môn Tiếng Anh và 20% giảng
viên bộ môn Quản lí Khách sạn có chứng chỉ VTOS. Số
lượng giảng viên trung bình của mỗi bộ môn chỉ có
khoảng 2-5 người. Đội ngũ giảng viên không có nhiều
kinh nghiệm thực tế và chuyên môn và dự kiến sẽ không
tăng nhiều trong vòng 05 năm tới [4].
Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại, nguồn nhân
lực phục vụ cho kinh tế biển của Đà Nẵng chủ yếu được
ISSN 1859 - 4603 - Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn & Giáo dục, Tập 7, số 2 (2017), 41-48
47
đào tạo từ 3 đại học lớn trong khu vực là Đại học Đà
Nẵng (ĐHĐN), Đại học Huế và Đại học Nha Trang.
Riêng địa bàn thành phố có Đại học Đà Nẵng là một đại
học vùng trọng điểm quốc gia, đa ngành, đa cấp và đóng
vai trò trọng yếu trong đào tạo đội ngũ nhân lực và
nghiên cứu khoa học phục vụ cho sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội ở khu vực miền Trung - Tây Nguyên nói
riêng và cho cả nước nói chung. Liên quan đến nguồn
lực phục vụ phát triển kinh tế biển, Đại học Đà Nẵng đã
chủ động mở ngành và tăng quy mô đào tạo cho một số
ngành nghề quan trọng. Mỗi năm, số lượng sinh viên tốt
nghiệp từ các chuyên ngành này khoảng 6.000 kĩ sư/ cử
nhân, hàng chục tiến sĩ và hàng trăm thạc sĩ. Đây là
nguồn nhân lực quan trọng góp phần vào phát triển kinh
tế - xã hội của các tỉnh miền Trung nói riêng và của cả
nước nói chung.
Đặc biệt, Đại học Đà Nẵng đã phối hợp với các
trường đại học của Cộng hòa Pháp (Đại học Toulon de
Var, Đại học Paris VI, Viện Công nghệ Dầu và Khí
Paris) để mở chuyên ngành Công nghệ lọc và hóa dầu.
Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành này, số lượng sinh
viên hiện nay là nguồn lao động đóng vai trò chủ lực
tại Nhà máy lọc và hóa dầu Dung Quất (Quảng Ngãi),
Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam. Đồng thời, Đại
học Đà Nẵng là nơi đầu tiên ở Việt Nam đào tạo thạc
sĩ chuyên ngành Logistics khi hợp tác với Đại học
Liege của Vương quốc Bỉ (bằng thạc sĩ do Đại học
Liege cấp). Số lượng học viên này đang phát huy hiệu
quả năng lực chuyên môn tại các công ty cảng biển,
công ty kho vận tại miền Trung và cả nước. Ngoài ra,
Đại học Đà Nẵng cũng đã mạnh dạn mở các chuyên
ngành đào tạo mới, như Công trình thủy, Phát triển
nguồn nước, Sinh thái học đáp ứng kịp thời nhu cầu
nguồn nhân lực cho đất nước [4].
2.3. Một số giải pháp chủ yếu
Nguồn nhân lực luôn luôn là yếu tố quyết định,
thúc đẩy sự phát triển và tác động đến toàn bộ nền kinh
tế nói chung và kinh tế biển nói riêng.
Hiện nay, Đà Nẵng có lực lượng lao động vùng ven
biển rất dồi dào nhưng việc sử dụng lực lượng lao động
này của thành phố chưa hiệu quả. Mặt khác, thành phố
hiện đang thiếu nguồn nhân lực có chất lượng cho các
ngành trong kinh tế thành phố nói chung và kinh tế biển
ở thành phố nói riêng. Vì vậy, vấn đề đào tạo và phát
triển nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế - xã hội và
kinh tế biển là vấn đề hết sức quan trọng đối với Đà
Nẵng. Trong thời gian tới, thành phố cần thực hiện tốt
những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, xây dựng và thực hiện các chương trình
đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, công chức các
cấp, sớm xây dựng một đội ngũ cán bộ viên chức có
trình độ và năng lực cao để đáp ứng yêu cầu phát triển
của khu vực ven biển trong bối cảnh hợp tác và hội
nhập. Chú trọng đào tạo các cán bộ giỏi trong đàm phán
về hợp tác kinh tế thương mại song phương và đa
phương, cũng như các cán bộ quản lí chuyên ngành, các
doanh nhân và lao động kĩ thuật cao để kịp thời nắm bắt
những kĩ thuật - công nghệ tiên tiến, hiện đại.
Thứ hai, đa dạng hóa các hình thức đào tạo, dạy
nghề cả chính quy, tại chức, ngắn hạn và dài hạn; trong
đó, tập trung vào các ngành nghề có lợi thế trong vành
đai kinh tế như: đóng tàu, cơ khí chế tạo, hàng hải (cả
thuyền trưởng, thợ máy và thủy thủ), du lịch, khai thác
và nuôi trồng thủy sản Mở rộng dạy nghề, truyền
nghề bằng nhiều hình thức thích hợp. Khuyến khích các
doanh nghiệp lớn trên địa bàn tham gia dạy nghề cho
lực lượng lao động của các địa phương trong vành đai
kinh tế và hỗ trợ cho công tác giáo dục và đào tạo của
các địa phương.
Thứ ba, tập trung đào tạo, cải thiện kĩ năng cho lao
động trong lĩnh vực kinh tế biển, cấp kinh phí mở các
khóa tập huấn, đào tạo ngắn hạn nhằm nâng cao về
chuyên môn, nghiệp vụ và cập nhật thông tin về lĩnh
vực đang hoạt động; quy định nghiêm ngặt về cấp
chứng chỉ hành nghề; tăng cường các hình thức đào tạo
vừa học vừa làm; thực hiện các hình thức đào tạo ngắn
hạn phù hợp với trình độ, tập quán của lao động nghề
cá, phấn đấu mọi lao động nghề cá đều được huấn
luyện, đào tạo về tay nghề, có khả năng đáp ứng yêu cầu
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và yêu
cầu của thị trường xuất khẩu lao động.
Thứ tư, liên kết, phối hợp với các viện, trường đại
học để mở rộng, đa dạng hóa các lĩnh vực đào tạo về
kinh tế biển, mở rộng ngành nghề, quy mô đào tạo các
ngành trọng điểm như: kinh tế vận tải biển, công nghiệp
tàu biển, nuôi trồng thủy sản, quản lí môi trường, bệnh
học thủy sản, chế biến thủy sản, v.v. nhằm đào tạo đội
ngũ cán bộ nghiên cứu, cán bộ kĩ thuật phục vụ cho phát
triển kinh tế biển để có nhân lực thay thế cho đội ngũ
lao động “tay ngang” của ngành hiện nay.
Nguyễn Thị Hương
48
Thứ năm, tăng cường phối hợp, liên kết với các
trường đại học để tập huấn, hội thảo chuyên đề, đa dạng
hóa các loại hình đào tạo để nâng cao tay nghề cho người
lao động, kết hợp đào tạo tay nghề cho người lao động.
Thứ sáu, phối hợp với các tổ chức trong và ngoài
nước hình thành các trung tâm, các trường đại học, cao
đẳng, trung cấp đào tạo ngắn hạn, trung hạn và dài hạn
liên quan đến dịch vụ, xu hướng phát triển mới dịch vụ,
kĩ năng quản lí doanh nghiệp, dự án, ngoại ngữ, khai
thác tài nguyên và hỗ trợ cho nhiều doanh nghiệp
dịch vụ địa phương tham gia.
3. Kết luận
Nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển luôn đóng vai
trò trung tâm đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của
Đà Nẵng. Do đó, phát triển nguồn nhân lực có chất
lượng phục vụ kinh tế biển là hết sức cần thiết hiện nay
đối với thành phố. Trong thời gian qua, Đà Nẵng đã có
nhiều quan tâm đến công tác phát triển nguồn nhân lực
phục vụ kinh tế biển. Tuy nhiên, hiện nay, số lượng, cơ
cấu, chất lượng nguồn nhân lực phục vụ kinh tế biển của
thành phố vẫn còn nhiều hạn chế, công tác đào tạo
nguồn nhân lực kinh tế biển gặp nhiều khó khăn. Vì
vậy, trong thời gian sắp tới, Đà Nẵng cần phải tích cực
tận dụng những điều kiện thuận lợi, khắc phục những
khó khăn, thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp khả thi
nhằm phát triển hiệu quả nguồn nhân lực có chất lượng
và đảm bảo về số lượng phục vụ cho các ngành kinh tế
biển trên địa bàn thành phố.
Tài liệu tham khảo
[1] Phạm Văn Quang (2017), “Phát triển nguồn nhân
lực kinh tế biển đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế
ở tỉnh kiên giang hiện nay”, Tạp chí Kinh tế châu
Á - Thái Bình Dương, số 3.
[2] Ủy ban Nhân dân thành phố Đà Nẵng (2007),
Quyết định số 9763/QĐ-UBND về việc ban hành
Kế hoạch thực hiện Chương trình hành động của
Thành ủy Đà Nẵng về Chiến lược biển Việt Nam
đến năm 2020, Đà Nẵng.
[3] Viện Chiến lược Phát triển - Bộ Kế hoạch Đầu tư
(2001), Tài liệu phục vụ công tác nghiên cứu Quy
hoạch Kinh tế - Xã hội dải ven biển miền Trung,
Hà Nội.
[4] Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà
Nẵng (2016), Dự thảo Báo cáo nghiên cứu đề án
Phát triển ngành kinh tế biển thành phố Đà Nẵng
đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025, Đà Nẵng.
[5]
Chinh-tri-va-Truyen-thong/ThS-Nguyen-Van-
Bay-Vai-tro-cua-nguon-nhan-luc-doi-voi-phat-
trien-kinh-te-xa-hoi/19492.ajc
[6] www.cucthongke.danang.gov.vn
[7] www.danang.gov.vn
[8] www.danangportvn.com
HUMAN RESOURCES FOR MARINE ECONOMIC DEVELOPMENT
IN DA NANG CITY
Abstract: Danang is the largest port city in Central Vietnam, with much potential and favourable conditions for the overall
development of its marine economy. Among them, human resources have always been regarded as an important drive, a key issue, a
basic element in Da Nang’s socio-economic development strategy in general and marine economy in particular. However, Da Nang’s
marine economy is facing the risk of human resources shortage in both quantity and quality. This article presents the necessity of
developing human resources for the marine economy of Da Nang, thereby evalutating the status quo of human resources and training
of human resources for the city’s marine economy over the past time and proposes some feasible solutions to the development of
quality human resources for the marine economy of Da Nang city.
Key words: human resources; marine economy; Da Nang; training; development.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguon_nhan_luc_phuc_vu_phat_trien_kinh_te_bien_o_thanh_pho_d.pdf