Về phương diện điều chỉnh pháp luật,
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân chính thức được
ghi nhận trong Hiến pháp trong lần sửa
đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 vào năm
200122. Trong Hiến pháp hiện hành, nguyên
tắc pháp quyền (Điều 8) được quy định cùng
với các nguyên tắc khác tạo thành hệ thống
các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền.
Đó là các nguyên tắc: tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân (khoản 2 Điều 2);
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp (khoản 3 Điều 2);
phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân (Điều 3); Đảng
Cộng sản lãnh đạo Nhà nước và xã hội (Điều
4); Bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ giữa
các dân tộc (Điều 5); tập trung dân chủ (Điều
6). Thay vì quy định “Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường
pháp chế XHCN” (Điều 12 Hiến pháp năm
1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001),
nội dung Điều 8 Hiến pháp hiện hành “Nhà
nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến
pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến
pháp và pháp luật” đã thể hiện rõ tư tưởng
pháp quyền của Nhà nước. Đây có thể xem
là một trong những bước tiến mới trong việc
chuyển từ nhà nước pháp chế sang nhà nước
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 229 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nguyên tắc pháp quyềntrong hệ thống các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGUYÊN TẮC PHÁP QUYỀN TRONG HỆ THỐNG
CÁC NGUYÊN TẮC CỦA NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN1
1 Bài viết trong khuôn khổ Đề tài cấp Nhà nước “Thực hiện nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo: Thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp”, mã số KX.04.06/16-20.
Tóm tắt:
Nhà nước pháp quyền được thiết lập dựa trên các nguyên tắc nhất
định. Trong các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền có nguyên
tắc pháp quyền. Phân biệt và nhận thức rõ vị trí, vai trò của nguyên
tắc pháp quyền trong hệ thống các nguyên tắc của Nhà nước pháp
quyền góp phần cung cấp luận cứ cho việc đề ra giải pháp phù hợp
cho việc thực hiện nguyên tắc pháp quyền. Bài viết cung cấp thông
tin có tính hệ thống về tính phổ biến của sự ghi nhận nguyên tắc
pháp quyền trong pháp luật quốc tế, trong quy định của một số tổ
chức khu vực và quốc gia và rút ra những gợi mở cho Việt Nam.
Nguyễn Đức Minh*
* PGS.TS. Viện trưởng Viện Nhà nước và Pháp luật
Abstract
The rule of law state is established based on certain principles.
Of the principles, the rule of law one is governed. Distinguishing
and recognizing the position and the role of the rule of law in the
principle system provides the solid ground for appropriate solutions
for the enforcement of the rule of law. This article provides
systematic information about the popularity of the rule of law in
international law, in the provisions of a number of regional and
national organizations and related recomendations for Vietnam.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Nhà nước pháp quyền,
nguyên tắc pháp quyền, nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 03/05/2019
Biên tập : 13/05/2019
Duyệt bài : 20/05/2019
Article Infomation:
Keywords: rule of law state, rule of law,
rule of law socialist state
Article History:
Received : 03 May 2019
Edited : 13 May 2019
Approved : 20 May 2019
1. Nguyên tắc pháp quyền trong một số
văn bản pháp luật quốc tế và khu vực
Trong các nguyên tắc cơ bản của Luật
2 Các nguyên tắc cơ bản của Luật quốc tế thường được nói tới là: Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia;
Nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác; Nguyên tắc dân tộc tự quyết; Nguyên tắc cấm sử
dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế; Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng các phương
pháp hòa bình; Nguyên tắc thiện chí thực hiện các điều ước quốc tế đang có hiệu lực.
quốc tế2, pháp quyền gắn với nguyên tắc
thiện chí thực hiện các điều ước quốc tế
đang có hiệu lực (pacta sunt servanda). Theo
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 9(385) T5/2019
nguyên tắc pacta sunt servanda mọi điều ước
quốc tế đang có hiệu lực ràng buộc các bên
thành viên của điều ước đó và phải được các
bên thực thi một cách thiện chí3. Theo giải
thích của Đại hội đồng Liên hiệp quốc, mọi
quốc gia đều có nghĩa vụ thực hiện tốt các
nghĩa vụ của mình theo các nguyên tắc và
quy tắc chung được công nhận của luật pháp
quốc tế cũng như các nghĩa vụ theo các thỏa
thuận quốc tế có hiệu lực theo các nguyên
tắc và quy tắc chung được công nhận của
luật pháp quốc tế4.
Liên hiệp quốc coi pháp quyền là
“một nguyên tắc quản trị mà trong đó tất
cả mọi cá nhân, tổ chức, thiết chế, cả công
và tư, bao gồm cả Nhà nước, đều phải tuân
thủ pháp luật được công bố công khai, được
áp dụng bình đẳng và được phán quyết một
cách độc lập, phù hợp với các nguyên tắc và
tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế. Pháp quyền
đòi hỏi các biện pháp để đảm bảo tuân thủ
các nguyên tắc thượng tôn pháp luật, bình
đẳng trước pháp luật, trách nhiệm pháp lý,
công bằng trong áp dụng pháp luật, phân
chia quyền lực, sự tham gia vào việc ra
quyết định, tính tin cậy pháp lý, tránh sự tùy
tiện và tính minh bạch của pháp luật và thủ
tục”5.
Pháp quyền được Liên minh châu
Âu (EU) thừa nhận là giá trị chung và trở
thành nguyên tắc cơ bản, theo đó các quốc
gia thành viên cũng như các tổ chức của
3 So sánh Điều 26 Công ước Viên về Luật Điều ước quốc tế năm 1969.
4 Xem General Assembly, Declaration on Principles of International Law concerning Friendly Relations and Co-operation
among States in accordance with the Charter of the United Nations, Nghị quyết được thông qua tại Hội nghị toàn thể
của Đại hội đồng, Phiên thứ hai mươi lăm, chương trình nghị sự 85 ngày 24/10/1970, tài liệu số A/RES/25/2625, lấy về
từ ngày 16/02/2019.
5 Xem: UN Security Council (2004), The rule of law and transitional justice in conflict and post-conflict societies: report
of the Secretary-General, đoạn 6; nguồn: tml, truy cập ngày 20/7/2017.
6 Laurent Pech, The Rule of Law as a Constitutional Principle of the European Union, Jean Monnet Working Paper Series
No. 4/2009, phần mở đầu, tr. 3.
7 Xem Treaty on European Union trong Official Journal of the European Union số 2012/C 326/01.
8 Hiến chương của ASEAN được những người đứng đầu Nhà nước hoặc Chính phủ các nước Brunei Darussalam, the
Kingdom of Cambodia, Republic of Indonesia, Lao People's Democratic Republic, Malaysia, Myanmar , Republic
of the Philippines, Singapore, Kingdom of Thailand, Socialist Republic of Vietnam thông qua tại Singapore ngày
20/11/2007. Chủ tịch nước đã phê chuẩn Hiến chương ngày 6/3/2008. Hiến chương của ASEAN được công bố trên
Cổng thông tin ASEAN Việt Nam của Ban Chỉ đạo thông tin, tuyên truyền ASEAN
aspx?Page=NewsDetail&NewsId=38179, xem ngày 20/02/2019.
EU luôn phải xem xét hành động của họ
có phù hợp với Hiến pháp và Hiệp ước của
Liên minh6. Khoản 1 Điều 6 Hiệp ước về
Liên minh châu Âu quy định “Liên minh
dựa trên các nguyên tắc của tự do, dân chủ,
tôn trọng quyền con người và tự do cơ bản,
cũng như pháp quyền, những điều có giá trị
chung với các quốc gia thành viên”7.
Pháp quyền cũng được Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) thừa nhận
là một trong những giá trị hình thành, là mục
tiêu, là nguyên tắc hành động của tổ chức
này. Hiến chương của ASEAN8 (khoản 7
Điều 1) quy định các mục tiêu của ASEAN,
trong đó có mục tiêu thúc đẩy quản trị
tốt và pháp quyền. Lời mở đầu của Hiến
chương ASEAN thể hiện cam kết tuân thủ
các nguyên tắc về dân chủ, pháp quyền và
quản trị tốt, tôn trọng và bảo vệ nhân quyền
và các quyền tự do cơ bản. Tuân thủ pháp
quyền với nghĩa là một trong các nguyên
tắc hoạt động của ASEAN và của các quốc
gia thành viên được tái khẳng định ở khoản
2(h) Điều 2 Hiến chương của ASEAN. Khi
pháp quyền đã được ASEAN quy định là
mục tiêu, nguyên tắc thì các quốc gia thành
viên phải có nghĩa vụ chấp hành, thực hiện.
Tuy nhiên, bản Hiến chương ASEAN đã
không quy định cụ thể nội dung, phương
thức thực hiện, các tiêu chí đánh giá mức độ
đạt được mục tiêu và các chế tài khi không
tuân thủ nguyên tắc (trong đó có nguyên tắc
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 9(385) T5/2019
pháp quyền9. Vì thế, mức độ tác động của
ASEAN (với tư cách là một tổ chức) đối
với từng quốc gia thành viên trong việc yêu
cầu thực thi các nguyên tắc bị hạn chế hơn
so với Liên minh châu Âu (EU). Ở EU, để
gia nhập EU thì các quốc gia gia nhập phải
chấp nhận các nguyên tắc của EU, trong đó
có nguyên tắc pháp quyền. Mô hình thể chế
của EU đã tác động rất lớn đến việc thiết lập
chế độ pháp quyền ở một số nước ở Trung
Âu và Đông Âu. Các nước gia nhập EU đã
phải điều chỉnh cách thức thực hiện quyền
lực nhà nước và quản trị quốc gia theo các
nguyên tắc của EU, trong đó có nguyên tắc
pháp quyền.
2. Nguyên tắc pháp quyền trong hệ thống
các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền
theo Hiến pháp của một số nước
Nhà nước pháp quyền không phải là
phạm trù chỉ một nhà nước cụ thể, một kiểu
nhà nước, một hình thức nhà nước hay bộ
máy nhà nước. Nhà nước pháp quyền là
phương thức tổ chức quyền lực nhà nước
dựa trên cơ sở pháp luật. Nhà nước pháp
quyền là thể chế, là chế độ mà ở đó, mọi
chủ thể như nhà nước, cơ quan nhà nước,
công chức, viên chức nhà nước, cá nhân hay
mọi chủ thể khác trên lãnh thổ đều phải chấp
hành, thực hiện, tuân thủ pháp luật đã được
ban hành. Nếu như trong các chế độ phi
pháp quyền, pháp luật là công cụ được nhà
nước sử dụng để cai trị xã hội theo ý muốn
của nhà nước, thì trong chế độ pháp quyền,
pháp luật là công cụ để giới hạn, kiểm soát
quyền lực nhà nước, là cơ sở bảo vệ các giá
trị xã hội tiến bộ10.
Nhà nước tổ chức và hoạt động theo
phương thức nhà nước pháp quyền cần phải
tuân thủ các nguyên tắc của nhà nước pháp
quyền. Nhìn chung trên thế giới, như sẽ dẫn
9 Xem thêm Phạm Duy Nghĩa, Hiến chương ASEAN và nền pháp quyền Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, số 1
(162) tháng 1/2010, tr. 15.
10 Tham khảo Nguyễn Như Phát, Thực trạng và giải pháp thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân
làm chủ theo yêu cầu của nguyên tắc pháp quyền trong Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo, Báo cáo chuyên đề của Đề tài cấp Nhà nước “Thực hiện nguyên tắc pháp quyền trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo: Thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp”, mã số KX.04.06/16-20.
chứng dưới đây, bằng các quy định của Hiến
pháp một số quốc gia, ở cấp trung ương, bộ
máy nhà nước ở nhiều nước được tổ chức và
hoạt động dựa trên các nguyên tắc cơ bản
như: chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân,
phân quyền, pháp quyền, xã hội, dân chủ, đa
nguyên, tôn trọng các quyền con người và
quyền công dân. Tuy nhiên, không có các
nguyên tắc của nhà nước pháp quyền chung,
áp dụng thống nhất cho mọi nhà nước nhà
nước pháp quyền cụ thể. Chẳng hạn, không
phải nhà nước nào cũng tổ chức thực hiện
quyền lực nhà nước theo chiều ngang với
nguyên tắc phân quyền (ví dụ, Việt Nam,
Trung Quốc). Ở một số nhà nước tổ chức
thực hiện quyền lực nhà nước theo thuyết
“tam quyền phân lập” cũng có mức độ phân
quyền khác nhau. Chẳng hạn, mức độ phân
quyền ở Hoa Kỳ mạnh hơn phân quyền ở
Đức. Tương tự như vậy, mức độ dân chủ ở
các nhà nước pháp quyền tư sản cũng không
giống nhau. Ngoài các nguyên tắc cơ bản
nêu trên, ở một số quốc gia, do các yếu tố
đặc thù về kiểu, hình thức nhà nước, chế độ
chính trị, truyền thống lịch sử mà có thêm
một số nguyên tắc đặc thù khác của nhà
nước pháp quyền như: nguyên tắc liên bang
(Hoa Kỳ, Đức), nguyên tắc quân chủ lập
hiến (Anh, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Đan
Mạch, Na Uy, Canada, Úc, Nhật Bản, Thái
Lan, Campuchia) .v.v.
Nguyên tắc chủ quyền nhân dân xác
định nhân dân là người chủ của quyền lực
nhà nước. Theo đó, Hiến pháp như là cơ sở
chính trị - pháp lý của một nhà nước được
xây dựng dựa trên ý chí của người dân.
Nguyên tắc phân quyền được xem là
“hòn đá tảng” trong tổ chức và hoạt động
của bộ máy nhà nước ở trung ương và trong
mối quan hệ giữa chính quyền trung ương
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 9(385) T5/2019
và chính quyền địa phương của nhiều nhà
nước tư sản. Theo chiều ngang, quyền lực
nhà nước được phân thành ba nhánh lập
pháp, hành pháp và tư pháp và ba nhánh này
kiểm soát, kiềm chế lẫn nhau. Theo chiều
dọc, quyền lực nhà nước được phân định rõ
ràng giữa chính quyền trung ương và chính
quyền địa phương.
Nguyên tắc nhà nước xã hội được quy
định trong Hiến pháp của một số quốc gia
như Pháp (Điều 1), Đức (Điều 20 Luật Cơ
bản), Thụy Điển (Chương 1 Điều 2 Luật về
công cụ chính quyền). Nguyên tắc nhà nước
xã hội yêu cầu nhà nước phải tạo được bình
đẳng về cơ hội và công bằng xã hội.
Nguyên tắc dân chủ được ghi nhận
trong Hiến pháp của một số quốc gia như
Pháp (Điều 1 Hiến pháp), Đức (Điều 20
Luật Cơ bản), Thụy Điển (Điều 1 Chương 1
Luật về công cụ chính quyền). Với nguyên
tắc dân chủ, có thể hiểu là toàn bộ quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân. Người
dân thực hiện quyền lực nhà nước của mình
trực tiếp thông qua bầu cử hoặc các dạng bỏ
phiếu kín khác.
Nguyên tắc đa nguyên có nghĩa là tồn
tại trong đa dạng. Sự đa dạng này có thể
thấy ở nhiều lĩnh vực như đa nguyên về tư
tưởng, đa đảng và đa lợi ích11. Sự đa đảng
được thừa nhận ở Pháp (Điều 4 Hiến pháp);
Đức (Điều 21 khoản 1 Luật Cơ bản); Thụy
Điển (Điều 1 Chương 2 Đạo luật về công cụ
chính quyền), Liên bang Nga (khoản 3 Điều
13 Hiến pháp), ở Hàn Quốc (khoản 1 Điều 8
Hiến pháp). Ở Trung Quốc chế độ hợp tác đa
11 Giải thích chi tiết từ đa nguyên: xem Từ điển chính trị dành cho thanh niên (của Áo), trên
at/pluralismus/ ngày 10/02/2019.
12 Bản Hiến pháp năm 1958 dẫn chiếu đến Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền ngày 26/8/1789 và các quy định tại văn
bản này có giá trị áp dụng như Hiến pháp.
13 Về khái niệm pháp quyền, xem Nguyễn Đức Minh, Một số quan niệm về pháp quyền trên thế giới, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 10/2018, trang 3-15. Về khái niệm pháp quyền, xem Nguyễn Đức Minh, Khái niệm, nội dung của nguyên
tắc pháp quyền, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 6/2018, trang 3-21, 29.
14 Ghi nhận của Hiến pháp một số nước Đông Nam Âu: Stefanie Ricarda Roos, The “Rule of Law” as a Requirement for
Accession to the European, Union, https://www.kas.de/c/document_library/get_file?uuid=8279dfa9-5d97-fb5e-1015-
d5b82483170c&groupId=252038, truy cập ngày 12/02/2018.
15 Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ và chú thích, bản dịch tiếng Việt của Hội Luật gia Việt Nam và xuất bản bằng tiếng
Việt bởi Nxb. Hồng Đức, Hà Nội 2014.
đảng và hiệp thương chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc được
ghi ở phần cuối đoạn 10 trong lời tựa Hiến
pháp (theo Điều 4 Luật sửa đổi Hiến pháp
năm 1993).
Nguyên tắc tôn trọng các quyền con
người và quyền công dân được phản ánh
trong Hiến pháp của nhiều quốc gia như
Pháp12, Đức (Điều 1 Luật Cơ bản), Thụy
Điển (Điều 2 Chương 1, Điều 1 đến Điều
23 Chương 2 Luật về công cụ chính quyền).
Nguyên tắc pháp quyền với nội dung
cốt lõi là chính quyền thực thi quyền lực
một cách hợp pháp theo Hiến pháp và theo
các luật đã được ban hành theo thủ tục luật
định13. Nguyên tắc pháp quyền được quy
định trong Hiến pháp hiện hành của một
số nước như Ba Lan (Điều 2 Hiến pháp),
Hungary (khoản 1 Điều B trong chương đầu
của Luật Cơ bản), Liên bang Nga (khoản
1 Điều 1 Hiến pháp), Thụy Điển (Điều 18
Chương 8 Luật về công cụ chính quyền).
Nguyên tắc pháp quyền phản ánh trong tinh
thần của Hiến pháp nhiều nước như Pháp,
Đức. Trong Hiến pháp hiện hành của nhiều
quốc gia ở Đông Nam Âu, pháp quyền được
nhìn nhận hoặc như là điều kiện cơ bản, hoặc
là một trong những giá trị cao nhất /giá trị
cơ bản của thể chế Hiến pháp (như Croatia,
Macedonia, Serbia) hoặc bằng cách tuyên
bố nhà nước đó hoạt động dựa trên luật pháp
(như Bosnia và Herzegovina; Montenegro),
hoặc tuyên bố đó là nhà nước pháp quyền
(như Bulgaria; Romania)14. Theo Hiến pháp
năm 1787 của Hoa Kỳ15, các đạo luật do
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 9(385) T5/2019
Quốc hội ban hành phải hợp hiến, hoạt động
của cơ quan lập pháp và cơ quan hành pháp
phải tuân thủ các đạo luật.
Như vậy, nguyên tắc pháp quyền là
một nguyên tắc trong hệ thống các nguyên
tắc của nhà nước pháp quyền. Nguyên tắc
pháp quyền không đồng nghĩa với nguyên
tắc của nhà nước pháp quyền. Nguyên tắc
pháp quyền được diễn đạt cả ở nghĩa là một
nguyên tắc và với nghĩa là các nguyên tắc
(các yêu cầu về nội dung của nguyên tắc
pháp quyền). Một số yếu tố cấu thành mang
tính nguyên tắc trong nội dung của nguyên
tắc pháp quyền như quyền lực được thực
hiện, giới hạn, kiểm soát bằng pháp luật. Bảo
đảm quyền bình đẳng trước pháp luật giao
thoa với một số nguyên tắc của nhà nước
pháp quyền nhưng điều đó chỉ cho thấy các
nguyên tắc pháp quyền là phạm trù hẹp hơn
các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền.
Nguyên tắc pháp quyền thuộc nhóm
các nguyên tắc chung trong hệ thống các
nguyên tắc của nhà nước pháp quyền.
Nguyên tắc pháp quyền cùng với các nguyên
tắc khác của nhà nước pháp quyền tạo thành
nền tảng tư tưởng của nhà nước pháp quyền.
Các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền,
trong đó có nguyên tắc pháp quyền thường
được quy định ở chương thứ nhất, thậm chí
ở những điều khoản đầu tiên của Hiến pháp
quốc gia. Các nguyên tắc của nhà nước pháp
quyền có tính hiến định, tạo thành nền tảng
hiến định của chế độ nhà nước pháp quyền,
điều chỉnh các mối quan hệ giữa nhà nước
với các chủ thể khác và áp dụng đối với tổ
chức, hoạt động của tất cả các cơ quan trong
bộ máy nhà nước. Các nguyên tắc chung của
nhà nước pháp quyền có phạm vi áp dụng
rộng và được phân biệt với các nguyên tắc
cụ thể trong tổ chức, hoạt động của từng
nhóm cơ quan nhà nước hoặc trong từng
lĩnh vực pháp luật cụ thể.
16 Tiếp tục xây dựng và từng bước hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân, quản lý mọi mặt đời sống xã hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát triển theo định hướng XHCN. Nhà
nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh
giữa giai cấp công nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo.
Ngoài các nguyên tắc chung nêu trên,
ở các quốc gia, các cơ quan thực thi quyền
lập pháp, quyền hành pháp, quyền tư pháp
còn phải tuân thủ các nguyên tắc cụ thể đặc
thù. Chẳng hạn, cơ quan hành pháp phải tuân
thủ Hiến pháp và các đạo luật do Quốc hội
ban hành và thường có sự phân quyền giữa
chính quyền trung ương và chính quyền địa
phương. Quyền tư pháp cũng được thực thi
theo một số nguyên tắc không giống nguyên
tắc áp dụng cho thực thi quyền lập pháp và
quyền hành pháp. Các tòa án thường hoạt
động theo các nguyên tắc phổ biến như: độc
lập xét xử; chế độ xét xử hai cấp (sơ thẩm,
phúc thẩm); xét xử tập thể; xét xử kịp thời,
công bằng, công khai; bảo đảm quyền bình
đẳng trước tòa án; bảo đảm quyền tranh
tụng trong xét xử, v.v.. Đối với nguyên tắc
độc lập của tòa án cũng có nội dung và mức
độ thể hiện sự độc lập không giống nhau giữa
các quốc gia. Lĩnh vực tư pháp đòi hỏi tính
nguyên tắc và tính thủ tục chặt chẽ nên trong
hoạt động tố tụng, chẳng hạn tố tụng hình sự,
các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải tuân
thủ các nguyên tắc cụ thể như: pháp quyền;
tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân; bảo đảm
quyền bình đẳng trước pháp luật; suy đoán
vô tội; không ai bị kết án hai lần vì một tội
phạm; bảo đảm quyền bào chữa của người bị
buộc tội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của bị hại, đương sự v.v..
3. Nguyên tắc pháp quyền trong hệ thống
các nguyên tắc của nhà nước pháp quyền
ở Việt Nam
Ở Việt Nam, thuật ngữ “nhà nước
pháp quyền” với một số nét cơ bản lần đầu
tiên được chính thức sử dụng trong văn kiện
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khoá VII (1994) của Đảng Cộng sản Việt
Nam16. Một số thành tố của Nhà nước pháp
quyền được nhận thức rõ hơn ở Hội nghị
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 9(385) T5/2019
lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khóa VII) năm 1995 với năm quan điểm cơ
bản về Nhà nước pháp quyền17. Các quan
điểm của Hội nghị lần thứ 8 về Nhà nước
pháp quyền tiếp tục được khẳng định tại Đại
hội lần thứ VIII của Đảng (năm 1996)18. Tuy
nhiên, đến năm 2005, thuật ngữ “nguyên tắc
pháp quyền XHCN” mới chính thức được sử
dụng trong Nghị quyết số 48-NQ/TW19 của
Bộ Chính trị và được tái khẳng định trong
phần phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN
trong Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa XI được trình bày
tại Đại hội lần thứ XII của Đảng20. Cùng với
thuật ngữ “nguyên tắc pháp quyền XHCN”,
thuật ngữ “nguyên tắc của Nhà nước pháp
quyền” cũng được nói đến trong Báo cáo
chính trị của Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI được trình bày tại Đại hội lần
thứ XII của Đảng21. Tuy đến nay không có
sự giải thích của Đảng về nội hàm khái niệm
“nguyên tắc pháp quyền XHCN”, “nguyên
tắc của Nhà nước pháp quyền” nhưng cách
sử dụng đồng thời các thuật ngữ này trong
văn kiện của Đảng cho thấy “nguyên tắc
pháp quyền XHCN” đã được phân biệt với
“nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền”.
Về phương diện điều chỉnh pháp luật,
Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
17 Nghị quyết số 08-NQ/HNTW Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII về tiếp tục xây dựng
và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, trọng tâm là cải cách một bước nền hành chính, ngày 23/1/1995
nêu ra những quan điểm cơ bản sau đây: (1) Xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. (2) Quyền lực nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập
pháp, hành pháp, tư pháp. (3) Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam. (4) Tăng cường pháp chế XHCN; xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng
pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức XHCN. (5) Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước.
18 Xem mục X của Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII của Đảng về tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
19 Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
20 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016,
tr. 175.
21 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, tlđd, tr. 174.
22 Theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25/12/2001 của Quốc hội khóa 10 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của
Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1992.
do nhân dân, vì nhân dân chính thức được
ghi nhận trong Hiến pháp trong lần sửa
đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 vào năm
200122. Trong Hiến pháp hiện hành, nguyên
tắc pháp quyền (Điều 8) được quy định cùng
với các nguyên tắc khác tạo thành hệ thống
các nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền.
Đó là các nguyên tắc: tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về Nhân dân (khoản 2 Điều 2);
quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp (khoản 3 Điều 2);
phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công
nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền
con người, quyền công dân (Điều 3); Đảng
Cộng sản lãnh đạo Nhà nước và xã hội (Điều
4); Bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ giữa
các dân tộc (Điều 5); tập trung dân chủ (Điều
6). Thay vì quy định “Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường
pháp chế XHCN” (Điều 12 Hiến pháp năm
1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001),
nội dung Điều 8 Hiến pháp hiện hành “Nhà
nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến
pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến
pháp và pháp luật” đã thể hiện rõ tư tưởng
pháp quyền của Nhà nước. Đây có thể xem
là một trong những bước tiến mới trong việc
chuyển từ nhà nước pháp chế sang nhà nước
(Xem tiếp trang 23)
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 9(385) T5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nguyen_tac_phap_quyentrong_he_thong_cac_nguyen_tac_cua_nha_n.pdf