Các máy tạo nhịp tái sử dụng thường
được xử lý theo quy trình như sau: sau khi
nhận từ nhà quàn, máy được rửa sạch bằng
bàn chải, ngâm Cidex plus 24 giờ (bảo đảm
tiệt trùng), rửa qua nước máy, kiểm tra với
PSA, ngâm Cidex plus 24 giờ, rửa lại với
dung dịch nước và oxy già, để khô, vô bao,
kiểm tra lại với máy chương trình của công ty
sản xuất máy, khữ ethylene oxide. Không nên
dùng ethanol vì có thể làm hư các nút ở đầu
máy ! Không nên tiệt trùng bằng hơi vì nhiệt
độ cao có thể làm hư pin. Nhiều khi gấp quá,
không có đủ thời gian để khữ ethylene oxide
thì ngâm lại trong Cidex-Plus khoảng ½ giờ,
rồi lấy ra ngâm vào nước muối vô trùng. Nói
chung sau 2 lần ngâm Cidex-Plus 24 giờ, máy
sẽ không còn vi trùng nào của bệnh nhân cũ.
Bất kỳ máy nào còn ở lại trên kệ chưa được sử
dụng trong hơn ba tháng đều phải được mở
ra và xét nghiệm kiểm tra lại vi khuẩn.
Tuy nhiên việc khữ khuẩn chỉ có thể tiêu
diệt vi trùng , còn các protein của bệnh nhân
trước vẫn có thể lây truyền cho bệnh nhân
sau. Vì vậy nên tránh các máy từ các quốc gia
có những bệnh như Creutzfeld-Jacob, thí dụ
Anh quốc. Nói chung nguy cơ truyền bệnh
rất ư là thấp, nhưng không phải là không có.
Nếu đánh đổi nguy cơ này với hệ quả suy
tim nặng và tử vong, thì việc tái sử dụng máytạo nhịp cho các bệnh nhân có hoàn cảnh khó
khăn về tài chính là đánh đổi rất thích đáng.
Tóm lại việc tái sử dụng máy tạo nhịp có
thể được thực hiện mà không làm gia tăng
nguy cơ cho các bệnh nhân miễn là chúng
ta có một quy trình đúng đắn để kiểm soát
kỹ thuật và vô khuẩn. Tái sử dụng máy tạo
nhịp tiết kiệm được chi phí đáng kể và làm
cho điều trị tạo nhịp có thể đến được với mọi
bệnh nhân có chỉ định. Tuy nhiên vấn đề chưa
rõ ràng là làm thế nào để bảo đảm máy hoạt
động an toàn không bị sự cố khi tái sử dụng
nếu chưa được nhà sản xuất kiểm định.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 3 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân 2 trường hợp được tái sử dụng máy tạo nhịp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 58 - 2011 69
Nhân 2 Trường Hợp Được Tái Sử Dụng Máy
Tạo Nhịp
Vĩnh Phương (*); Lê Trần Anh Thi (**)
(*): BS điều trị Khoa Tim Mạch BV Khánh Hòa.
(**): BS điều trị Khoa Hồi Sức Cấp Cứu BV Khánh Hòa.
Một phụ nữ 48 tuổi, tiền sử nhịp chậm và đã bị ngất nhiều lần trong 2 năm qua, vào Bệnh Viện
Khánh Hòa ngày 8/10/2009 với chẩn đoán bloc
nhĩ thất độ 2 Mobitz 2. Bệnh nhân không đáp
ứng với Atropine, Diaphylline; dùng Dopamine
đáp ứng từng lúc, có lúc nhịp tim về xoang 70 ck/
ph, nhưng sau đó chuyển độ phức tạp, có lúc blốc
nhĩ thất hoàn toàn. Ngày 11.10.2009, bà bị ngừng
tim; sau 15 phút hồi sinh tim đập lại, nhưng hôn
mê sâu và phải thở máy. Sáng 12.10.2009: cai máy
thở, rút ống nội khí quản, tiến hành đặt máy tạo
nhịp tạm thời. Ngày 14.10.2009 bà tỉnh táo đi lại
được. Bà là một nông dân nghèo ở Thị Trấn Vạn
Giả, Huyện Vạn Ninh. Gia đình được thông báo
bà cần đặt máy tạo nhịp tim vĩnh viễn, nhưng họ
không có tiền để đặt máy mới, do đó bà tiếp tục
nằm ở Khoa Hồi Sức Cấp Cứu để chờ dàn xếp.
Sau 8 ngày vào viện, bà đã được hiến tặng máy tạo
nhịp của một bệnh nhân đã qua đời ở Mỹ, tuổi thọ
pin ước còn khoảng 5.5 năm. Ngày 16/10/2009 bà
đã được đặt máy tạo nhịp vĩnh viễn thành công:
không có bằng chứng nhiễm trùng nào và máy
vẫn hoạt động tốt sau 9 tháng theo dõi.
Ca bệnh mà chúng tôi trình bày ở trên
không phải là trường hợp hiếm gặp ở các
bệnh viện khác trong toàn quốc. Từ 1995
các bác sĩ ở Bệnh Viện Khánh Hòa đã bắt
đầu thực hiện đặt máy tạo nhịp tái sử dụng
cho bệnh nhân [1]. Một máy tạo nhịp trung
bình có thể có giá hàng ngàn USD, cao hơn
rất nhiều hơn so với thu nhập bình quân đầu
người. Do đó cấy máy tạo nhịp tim vĩnh viễn
là một đề xuất đắt tiền đối với bệnh nhân đa
số nghèo khổ ở nước ta. ở các nước Âu Mỹ,
nhiều bệnh nhân đặt máy tạo nhịp đã chết
sớm do bệnh tật hoặc tình huống không liên
quan đến chức năng của máy. Sẽ có rất nhiều
bệnh nhân ở các nước nghèo được cứu sống
nếu những máy tạo nhịp đó được hiến tặng
thay vì bị ném vào sọt rác.
Một cuộc điều tra đã được thực hiện trên
1.009 đối tượng ở Phòng Khám Nội Khoa của
Trường Đại học Michigan và 100 bệnh nhân
đã đặt máy tạo nhịp để đánh giá kiến thức và
quan điểm sử dụng các máy tạo nhịp được thu
hồi sau khi khám nghiệm tử thi [2]. Kết quả
cho thấy 87% bệnh nhân và 71% công chúng
đều sẵn sàng tặng máy cho những người có
hoàn cảnh khó khăn ở các nước khác, 53%
đồng ý tháo gỡ máy để phân tích cải tiến sản
phẩm, 42% đồng ý để thu hồi máy để các bác
sĩ thú y sử dụng ở các bệnh viện dành cho
động vật. Như vậy đa phần công chúng và
bệnh nhân đều muốn thu hồi máy tạo nhịp
để tái sử dụng ở các nước nghèo vì mục đích
từ thiện.
Tuy nhiên việc hiến tặng này lại mâu
thuấn với khuyến cáo của Hiệp Hội Loạn
Nhịp Hoa Kỳ rằng các máy tạo nhịp phải
được trả lại cho nhà sản xuất để kiểm định.
Mặc dù vậy các nhà sản xuất đã không tái
chế các sản phẩm của mình vì họ chỉ muốn
bán máy mới (!) Theo luật pháp một số nước
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG70
Châu Âu Mỹ, tất cả các máy tạo nhịp đều phải
được thu hồi sau khi bệnh nhân chết để tránh
cháy nổ thiết bị lúc hỏa táng. Tháo gỡ máy tạo
nhịp không được xem là khám nghiệm tử thi
và có thể thực hiện bởi bất kỳ bác sĩ hoặc kỹ
thuật viên nào của Khoa Giải Phẫu Bệnh. Hơn
nữa, bệnh nhân không phải là chủ sở hữu của
máy tạo nhịp tim, mà nó thuộc về Trung Tâm
cấy máy. Do đó, Trung Tâm cấy có quyền thu
hồi máy từ các cơ sở nơi mà bệnh nhân chết
hoặc từ các bác sĩ giải phẫu bệnh để hiến tặng
cho bệnh nhân ở các nước nghèo thông qua
các Tổ Chức Từ Thiện, thí dụ ở Pháp là hội
Stimubank (Nancy, Pháp).
Trong một cuộc điều tra 152 nhà kinh do-
anh tang lễ ở Miền Đông Nam Bang Michi-
gan để đánh giá quan điểm sử dụng các máy
tạo nhịp thu hồi sau khám nghiệm tử thi [3];
kết quả cho thấy: 4% máy được trả lại cho nhà
sản xuất để phân tích, 84% đã được bỏ vào
nơi chứa rác thải y tế hoặc được cất giữ không
mục đích. Về phía các nhà kinh doanh lễ tang:
69% trả lời họ cảm thấy khó khăn khi gửi trả
các máy tạo nhịp lại cho nhà sản xuất, 81%
ủng hộ một tổ chức trung ương độc lập để
điều phối, 10% cho biết họ đã hiến tặng máy
tạo nhịp để tái sử dụng ở các nước nghèo ít
nhất một lần trong đời, 89% muốn hiến tặng
máy cho các tổ chức từ thiện nếu có cơ hội.
Như vậy phần đông các nhà kinh doanh tang
lễ ở Hoa Kỳ đều muốn thu hồi máy tạo nhịp
sau khám nghiệm tử thi để tái sử dụng ở các
nước nghèo vì mục đích nhân đạo nếu có cơ
hội. Tuy nhiên có đến 166 máy tạo nhịp hiện
đang được lưu giữ trong các nhà tang lễ đông
nam Michigan không có mục đích (!).
ở nước ta hiện nay, Bảo Hiểm Y Tế chỉ
chi trả một phần cho bệnh nhân có chỉ định
đặt máy tạo nhịp mới, vì vậy gia đình họ
phải gánh chịu tất cả. Chính do các vấn đề
chi phí nên trong lĩnh vực điện sinh lý tim
chỉ có 2 khả năng: hoặc là không tồn tại hoặc
là chịu cảnh kém phát triển như vẫn thường
xảy ra ở các nước có thu nhập thấp. Dựa vào
các kết quả nghiên cứu trên thế giới trước đó
cho thấy việc tái sử dụng máy tạo nhịp có thể
thực hiện mà không có nguy cơ rủi ro nào
cho bệnh nhân [4,5], các bác sĩ ở một số bệnh
viện tại Việt Nam, nhất là ở TP HCM vào cuối
thập niên 90 và cho tới gần đây, khi bảo hiểm
bắt đầu chi trả, đã tiến hành đặt máy tạo nhịp
tái sử dụng cho các bệnh nhân không đủ khả
năng tài chính để đặt máy mới. Tuy nhiên
chưa thấy báo cáo nào được công bố để làm
sáng tỏ câu hỏi liệu việc đặt máy tạo nhịp tái
sử dụng ở nước ta có phù hợp với khuyến cáo
không? Đặt máy tạo nhịp đã dùng rồi có gây
nguy cơ nhiễm trùng, biến chứng sinh lý hoặc
sự cố thiết bị không?
Trong Khuyến Cáo Năm 2008 của Hội Tim
Mạch Học Việt Nam về chỉ định đặt máy tạo
nhịp, không thấy khuyến cáo nào đề cập đến
việc tái sử dụng máy tạo nhịp.[6] Phần đông
các nghiên cứu trong y văn thế giới đều cho
rằng tái sử dụng máy tạo nhịp, miễn là theo
đúng các tiêu chuẩn, không gây thêm nguy
cơ biến chứng cho bệnh nhân. Những phát
hiện này được xác minh trong hai nghiên cứu
từ thập niên 1970’s ở Thụy Điển: Havia và
Schuller năm 1976 đã báo cáo không có biến
chứng nào xảy ra trên 50 bệnh nhân được sử
dụng lại máy tạo nhịp & Munksgaard -Kruse
năm 1984 đã mô tả kinh nghiệm 17 năm sử
dụng lại máy tạo nhịp trên 498 bệnh nhân
đặt máy đã sử dụng so với 1.197 bệnh nhân
đặt máy mới cho thấy tỉ lệ biến chứng giữa 2
nhóm không có sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê (5.9%: máy mới; so với 4.8%: máy sử dụng
lại).
Do đó việc sử dụng lại máy tạo nhịp đã
là chủ đề của một Hội nghị về chính sách của
Hiệp Hội Tạo Nhịp & Điện Sinh Lý Bắc Mỹ
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 58 - 2011 71
(NASPE: North American Society of Pacing
and Electrophysiology) được tổ chức năm
1985. Sau Hội Nghị đó người ta đã đưa ra các
khuyến nghị : (a) luật pháp quốc gia không
nên cấm sử dụng lại máy tạo nhịp, (b) so với
việc sử dụng máy tạo nhịp tim mới, máy tái
sử dụng phải được chứng minh không làm
tăng nguy cơ hoặc tác dụng có hại cho bệnh
nhân (c) cần phải phân tích chi phí-lợi ích để
chứng minh việc tái sử dụng mang lại lợi ích
lâu dài về kinh tế [7].
Năm 1986, Mugica & cọng sự [8] đã điều tra
151 bệnh nhân được đặt máy tạo nhịp và nhận
thấy không có sự khác biệt đáng kể về tỉ lệ sống
giữa các bệnh nhân sử dụng máy mới so với
máy đã sử dụng. Năm 1996, Panja & cọng sự [9]
theo dỏi 642 bệnh nhân tái sử dụng máy tạo nhịp
với một thời gian trung bình 7.5 năm đã kết luận
rằng tỷ lệ tử vong & nhiễm trùng không khác
biệt so với những người đặt máy tạo nhịp mới.
Năm 1998, trong một nghiên cứu bệnh chứng
bao gồm 200 bệnh nhân, Linde & cọng sự đã
không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê
về tỷ lệ nhiễm khuẩn hoặc các biến chứng khác
giữa những người đặt máy tạo nhịp mới so với
máy đã được sử dụng. [10]
Gần đây nhất, trong một tổng phân tích đã
được báo cáo ngày 20/5/2010 tại các phiên họp
khoa học thường kỳ của Hội Tim Mạch Hoa
Kỳ, tác giả Joshua Romero (Đại học Michigan,
Ann Arbor) và cộng sự đã truy tìm ở các cơ
sở dữ liệu y học từ 1/1/1975 – 1/7/2009 những
nghiên cứu so sánh máy tạo nhịp tái sử dụng
với máy tạo nhịp mới mà tiêu chí chính là tỉ lệ
biến chứng toàn bộ. Có 4 thử nghiệm kết nạp
603 bệnh nhân đã được đưa vào tổng phân
tích. Kết quả cho thấy so với máy tạo nhịp
mới, máy sử dụng lại không kết hợp với gia
tăng có ý nghĩa các biến chứng toàn bộ (OR:
0.98 [0.64 - 1.49]; p= 0.914). Ngoài ra, nguy cơ
cũng không gia tăng đối với nhiễm trùng (OR:
0.81 [0.41 - 1.62]; p=0.552), các biến chứng sinh
lý (OR: 1.06 [0.54 - 2.07]; p= 0.868), hoặc máy
bị sự cố (OR: 1.29 [0.51 - 3.29]; p=0.590). Tử
vong có liên quan đến thiết bị đều không thấy
ở cả hai nhóm. (Biểu đồ 1)
Biểu đồ 1: Biểu đồ forest minh họa nguy cơ biến chứng toàn bộ với tỉ số chênh & khoảng tin
cậy 95%
Nguồn: Joshua Romero, Univ of Pennsylvania, Philadelphia, PA; Pacemaker Reutilization is a Safe and Eff ective
Means of Delivering Electrophysiological Healthcare in Third World Countries a Meta-Analysis
NGHIÊN CỨU LÂM SÀNG72
Bảng 1: Tiêu chuẩn tái sử dụng máy tạo nhịp ở Bệ nh việ n Karolinska [10]
1. Máy không bị sự cố trong lần sử dụng trước.
2. Không có dấu hiệu hư hỏng bộ phận hiển thị của máy.
3. Các thông số đo lường đều bình thường khi kiểm tra bằng máy phân tích hệ thống tạo
nhịp PSA (*)
4. Dự kiến máy có thể hoạt động > 1/3 tổng số tuổi thọ bình quân, (**) hoặ c
5. Máy đã được sử dụng trước đó <3 năm (**)
Các tác giả đã đưa ra kết luận rằng sử
dụng lại máy tạo nhịp là chọn lựa thay thế
an toàn, hiệu quả và phù hợp với đạo lý cho
những bệnh nhân ở các nước nghèo không đủ
khả năng để chi trả cho điều trị .
Một vấn đề được đặt ra là làm thế nào
để đảm bảo rằng máy tạo nhịp tái sử dụng
sẽ hoạt động tốt và an toàn cho bệnh nhân.
Muốn đạt được yêu cầu đó thì máy tạo nhịp
phải đáp ứng được các tiêu chuẩn cho sử việc
dụng lại. Tại Bệ nh việ n Karolinska ở Thụy
Điển người ta đã đưa ra tiêu chẩn sử dụng lại
máy tạo nhịp như sau:
(*) PSA = pacemaker system analyzer
(**) Bệnh nhân đủ điều kiện để tái sử dụng máy tạo nhịp là những người mà tuổi thọ ước tính của họ thấp hơn so với tuổi thọ máy tạo nhịp.
Tiêu chuẩn này chỉ phù hợp với bệnh nhân ở Thụy Điển, khó có thể áp dụng đối với bệnh nhân ở các nước nghèo.
Việc kiểm tra máy tạo nhịp đã sử dụng
thường trải qua 2 đợt. Đợt 1 : dung PSA để
kiểm soát các máy tạo nhịp đã được thu hồi
sau khi khám nghiệm tử thi để chọn ra những
máy có đủ điều kiện để đưa vào kiểm tra đợt
2. Đợt 2 : phải dùng máy chương trình của
chính công ty sản xuất mới biết tuổi thọ của
máy và dự đoán thời gian hoạt động còn lại
của máy.
Các máy tạo nhịp tái sử dụng thường
được xử lý theo quy trình như sau: sau khi
nhận từ nhà quàn, máy được rửa sạch bằng
bàn chải, ngâm Cidex plus 24 giờ (bảo đảm
tiệt trùng), rửa qua nước máy, kiểm tra với
PSA, ngâm Cidex plus 24 giờ, rửa lại với
dung dịch nước và oxy già, để khô, vô bao,
kiểm tra lại với máy chương trình của công ty
sản xuất máy, khữ ethylene oxide. Không nên
dùng ethanol vì có thể làm hư các nút ở đầu
máy ! Không nên tiệt trùng bằng hơi vì nhiệt
độ cao có thể làm hư pin. Nhiều khi gấp quá,
không có đủ thời gian để khữ ethylene oxide
thì ngâm lại trong Cidex-Plus khoảng ½ giờ,
rồi lấy ra ngâm vào nước muối vô trùng. Nói
chung sau 2 lần ngâm Cidex-Plus 24 giờ, máy
sẽ không còn vi trùng nào của bệnh nhân cũ.
Bất kỳ máy nào còn ở lại trên kệ chưa được sử
dụng trong hơn ba tháng đều phải được mở
ra và xét nghiệm kiểm tra lại vi khuẩn.
Tuy nhiên việc khữ khuẩn chỉ có thể tiêu
diệt vi trùng , còn các protein của bệnh nhân
trước vẫn có thể lây truyền cho bệnh nhân
sau. Vì vậy nên tránh các máy từ các quốc gia
có những bệnh như Creutzfeld-Jacob, thí dụ
Anh quốc. Nói chung nguy cơ truyền bệnh
rất ư là thấp, nhưng không phải là không có.
Nếu đánh đổi nguy cơ này với hệ quả suy
tim nặng và tử vong, thì việc tái sử dụng máy
TẠP CHÍ TIM MẠCH HỌC VIỆT NAM - SỐ 58 - 2011 73
tạo nhịp cho các bệnh nhân có hoàn cảnh khó
khăn về tài chính là đánh đổi rất thích đáng.
Tóm lại việc tái sử dụng máy tạo nhịp có
thể được thực hiện mà không làm gia tăng
nguy cơ cho các bệnh nhân miễn là chúng
ta có một quy trình đúng đắn để kiểm soát
kỹ thuật và vô khuẩn. Tái sử dụng máy tạo
nhịp tiết kiệm được chi phí đáng kể và làm
cho điều trị tạo nhịp có thể đến được với mọi
bệnh nhân có chỉ định. Tuy nhiên vấn đề chưa
rõ ràng là làm thế nào để bảo đảm máy hoạt
động an toàn không bị sự cố khi tái sử dụng
nếu chưa được nhà sản xuất kiểm định.
TAØI LIEÄU THAM KHAÛO:
Mai Đình Trung, Trần Văn Huy. Bước đầu cấy 1.
máy tạo nhịp lâu dài tại tuyến tỉnh. Y học thực
hành. 1995; 40, 21-22.
David C. Lange, BA, James N. Kirkpatrick, 2.
MD, Hakan Oral, MD, Edward B. Goldman,
JD, Kim A. Eagle, MD, Timir S Baman, MD..
University of Michigan, Ann Arbor, MI,
United States; University of Pennsylvania,
Philadelphia, PA, United States. Post-Mortem
Cardiac Device Retrieval for Re-Use in Third
World Nations: Views of the General Pub-
lic and Patient Population [AB20-4]. Heart
Rhythm Society Scientifi c Sessions, May 13-
16, 2009, Boston, Massachusett s, USA.
Timir Baman, MD, James N Kirkpatrick, MD, 3.
David C. Lange, BA, Hakan Oral, MD, Edward
B. Goldman, JD, Kim A. Eagle, MD.. Universi-
ty of Michigan, Ann Arbor, MI, United States;
University of Pennsylvania, Philadelphia, PA,
United States. Post-Mortem Cardiac Device
Retrieval for Re-Use in Third World Nations:
Views of Funeral Directors [AB20-5] Heart
Rhythm Society Scientifi c Sessions, May 13-
16, 2009, Boston, Massachusett s, USA
Boal BH. World experience in pacemaker re-4.
use. Clin Progress 1985; 3: 30–2.
Havia T, Schuller H. The re-use of previously 5.
implanted pacemakers. Scand J Thor Cardio-
vas Surg 1976; (Suppl 22): 33–4.
Hội Tim Mạch Học Việt Nam. Khuyến Cáo 6.
Năm 2008 về các bệnh lý tim mạch & chuyển
hóa. Trang 217-232.
Munksgaard-Kruse I. Experience from the 7.
reuse of implantable pulse generators, a sev-
enteen year material. In: Clinical progress in
electrophysiology and pacing, vol. 3, no. 1.
Mount Kisco, New York: Futura publ com-
pany, 1985: 925–9.
Mugica J, Duconge R, Henry L. Survival and 8.
mortality in 3,701 pacemaker patients: Argu-
ments in favor of pacemaker reuse. Pacing
Clin Electrophysiol 1986; 9:1282–1287.
Panja M, Sarkar CN, Kumar S, Kar AK, Mitra 9.
S, Sinha DP, Chatt erjee A, et al. Reuse of pace-
maker. Indian Heart J 1996; 48:677– 680.
Linde CL, Bocray A, Jonsson H, Rosenqvist M, 10.
Radegran K, Ryden L. Re-used pacemakers–
as safe as new? A retrospective case-control
study. Eur Heart J 1998; 19:154–157.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
nhan_2_truong_hop_duoc_tai_su_dung_may_tao_nhip.pdf