Đối với phương thức bảo hiến, có thể
áp dụng cơ chế tiền kiểm hoặc hậu kiểm. Cơ
chế tiền kiểm cho phép cơ quan bảo hiến
thẩm tra tính hợp hiến của các văn bản quy
phạm pháp luật trước khi ban hành. Cơ chế
hậu kiểm cho phép cơ quan bảo hiến xem
xét tính hợp hiến của các văn bản pháp luật
sau khi ban hành hoặc tính hợp hiến của các
hành vi của cơ quan nhà nước và nhân viên
nhà nước sau khi những hành vi ấy đã được
thực hiện. Ngoài ra, trong bảo hiến còn có
phương thức thẩm tra cụ thể và thẩm tra
trừu tượng. Thẩm tra cụ thể là trường hợp
cơ quan nhà nước, cá nhân được nhà nước
trao quyền trong quá trình thực hiện pháp
luật phát hiện văn bản pháp luật có dấu hiệu
vi hiến thì đề nghị cơ quan bảo hiến xem xét
và ra phán quyết về tính hợp hiến của văn
bản đó. Thẩm tra trừu tượng là trường hợp
cơ quan bảo hiến chủ động thẩm tra tính hợp
hiến của văn bản quy phạm pháp luật mà
không cần phải xác định văn bản đó đang
được áp dụng vào trường hợp cụ thể nào.
Trên thực tế, Hiến pháp là đạo luật có giá
trị pháp lý cao nhất nên việc càng mở rộng
phạm vi và phương thức bảo hiến sẽ càng
làm cho các quy định của Hiến pháp được
thực hiện đầy đủ trên thực tế.
Tóm lại, kiểm soát quyền lực nhà
nước có liên quan mật thiết đến việc trao
quyền và tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước. Các hoạt động này đều xoay quanh
Hiến pháp, do đó kiểm soát quyền lực nhà
nước không gì khác là kiểm soát Hiến pháp,
làm cho Hiến pháp được ban hành và thực
thi trên cơ sở ý chí của Nhân dân. Muốn vậy,
Nhân dân phải là chủ thể của quyền lập hiến
và là chủ thể giám sát thực hiện quyền lực
nhà nước. Thiết kế vận hành quyền lực nhà
nước cho dù là tập quyền hay phân quyền
đều phải đảm bảo giữa các cơ quan nhà
nước có sự kiểm soát lẫn nhau, tránh kiểm
soát một chiều. Có như vậy mới đảm bảo
cho việc thực hiện quyền lực nhà nước đi
đúng quỹ đạo và trong phạm vi ủy quyền.
Cuối cùng, Nhân dân phải có khả năng thu
hồi quyền lực đã trao nếu người được trao
quyền không còn xứng đáng và không được
tín nhiệm. Những nhân tố này nếu được quan
tâm và nhận thức đầy đủ sẽ góp phần không
nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả kiểm soát
quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 241 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhân tố tác động đến cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Chủ sở hữu quyền lực nhà nước là Nhân dân, chủ thể thực hiện quyền
lực nhà nước là Nhà nước. Do có sự khác biệt về chủ thể nên việc kiểm
soát quyền lực là rất cần thiết vì kiểm soát sẽ đảm bảo cho việc thực
hiện quyền lực của Nhà nước đi đúng quỹ đạo và trong phạm vi đã được
Nhân dân ủy quyền.
NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG
ĐẾN CƠ CHẾ KIỂM SOÁT QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC
Đào Ngọc Báu*
Abstract:
The owner of the state power is the People, the implementing subject
of state power is the State. Due to the difference of the subjects, it is
necessary to control the state power, which ensures that the exercise
of state power is on track and within the scope authorized by the
People.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: kiểm soát quyền lực, quyền
lực nhà nước, Hiến pháp, chủ quyền
nhân dân
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 15/09/2017
Biên tập: 04/10/2017
Duyệt bài: 11/10/2017
Article Infomation:
Keywords: control of power,
state power, constitution, people's
sovereignty
Article History:
Received: 15 Sep. 2017
Edited: 04 Oct. 2017
Appproved: 11 Oct. 2017
* TS. Viện Nhà nước và Pháp luật, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Lý luận chủ quyền nhân dân (còn gọi là lý luận chủ quyền ở nhân dân) chỉ ra rằng quyền lực nhà
nước có nguồn gốc từ Nhân dân mà không
phải do lực lượng siêu nhiên hay bất cứ lực
lượng ngoài xã hội nào trao cho Nhà nước.
Nhà nước thực hiện quyền lực này thông
qua các cơ quan và nhân viên nhà nước.
Như vậy, Nhà nước chỉ là chủ thể thực hiện
quyền, Nhân dân mới là chủ thể sở hữu
quyền. Nhân dân trao quyền cho Nhà nước
thông qua Hiến pháp, điều đó có nghĩa là
Hiến pháp ghi nhận việc trao quyền, đồng
thời cũng quy định phạm vi hành xử quyền
của Nhà nước. Nếu các cơ quan nhà nước và
nhân viên nhà nước hành xử vượt khỏi phạm
vi này thì bị coi là vi hiến, có thể bị truy cứu
trách nhiệm, bị bãi nhiệm hoặc thậm chí, bị
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
23Số 21(349) T11/2017
Nhân dân thu hồi quyền lực. Đồng thời với
việc trao quyền, Nhân dân còn quyết định
việc thiết kế và phân bổ quyền lực cho các
cơ quan nhà nước, từ đó hình thành nên các
mô hình tổ chức quyền lực nhà nước khác
nhau, điển hình là hai mô hình quyền lực
ưu thế và quyền lực cân bằng. Cuối cùng,
sau khi nhận quyền lực từ Nhân dân, các cơ
quan và nhân viên nhà nước sẽ chịu trách
nhiệm tổ chức thực hiện quyền lực trên thực
tế. Việc thực hiện này phải đảm bảo quyền
lực đi đúng quỹ đạo và không vượt giới
hạn đã được Nhân dân ủy thác. Như vậy,
để quyền lực nhà nước được thực hiện trên
thực tế cần phải trải qua một quá trình gồm
hai giai đoạn chính: trao quyền và thực hiện
quyền. Do đó, kiểm soát quyền lực nhà nước
cũng phải được thực hiện ở cả hai giai đoạn
nói trên, từ khi trao quyền cho đến khi quyền
lực được thực hiện trên thực tế.
1. Các nhân tố tác động đến kiểm soát
quyền lực nhà nước ở giai đoạn trao
quyền
Học thuyết chủ quyền nhân dân được
J.J. Rousseau đưa ra trong tác phẩm “Bàn
về khế ước xã hội” đã lý giải quyền lực nhà
nước có nguồn gốc từ Nhân dân. Học thuyết
này đã đặt nền móng cho sự ra đời lý luận
chính thể Hiến pháp (gọi tắt là lý luận Hiến
chính), theo đó, pháp luật được coi là khế
ước (hợp đồng) giữa các thành viên xã hội,
còn Hiến pháp là khế ước giữa Nhà nước
và Nhân dân. Ngày nay, đa số các nước đều
thừa nhận học thuyết này bằng cách ghi
nhận chủ quyền nhân dân trong Hiến pháp.
Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Điều 2
Hiến pháp năm 2013 quy định “Nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam do Nhân dân làm chủ;
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân
dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ
trí thức. Quyền lực nhà nước là thống nhất,
có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Nhân dân trao quyền cho Nhà nước
thông qua Hiến pháp nên việc kiểm soát
quyền lực trước hết phải được thể hiện ở
việc ban hành Hiến pháp. Nói cách khác,
ban hành Hiến pháp là nhân tố đầu tiên
tác động đến việc kiểm soát quyền lực nhà
nước. Chủ thể lập hiến là Nhân dân hay Nhà
nước? Rõ ràng, Nhân dân với tư cách là chủ
sở hữu quyền lực thì phải có quyền kiểm
soát quyền lực. Trao quyền cũng chính là
phương thức để Nhân dân thực hiện kiểm
soát quyền lực đối với Nhà nước. Hiến pháp
định ra giới hạn để các cơ quan nhà nước
và nhân viên nhà nước hành xử quyền lực,
tuyệt đối không được vượt khỏi khuôn khổ
quyền lực đã được ủy thác. Muốn vậy, Nhân
dân phải là chủ thể ban hành Hiến pháp. Cơ
quan nhà nước (Quốc hội, Chính phủ hoặc
các cơ quan khác) có thể thay mặt Nhân dân
soạn thảo Hiến pháp, tuy nhiên việc thông
qua Hiến pháp phải do toàn dân thực hiện.
Nếu Nhà nước thực hiện quyền lập hiến sẽ
dẫn đến hiện tượng Nhân dân trao quyền cho
Nhà nước và Nhân dân mất quyền. Trong
khi đó, lý luận chủ quyền nhân dân khẳng
định rằng quyền lực nhà nước là quyền cố
hữu của Nhân dân, quyền này không thể mất
đi, không thể tước đoạt, do đó, Nhân dân
trao quyền cho Nhà nước nhưng phải giữ lại
quyền lập hiến, có như vậy Nhân dân mới
thực hiện được việc ủy thác quyền lực hoặc
thu hồi quyền lực đã ủy thác cho Nhà nước.
Với quan điểm này, chúng tôi cho rằng, Điều
69 Hiến pháp năm 2013 trao cho Quốc hội
quyền lập hiến thông qua quy định: “Quốc
hội thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết
định các vấn đề quan trọng của đất nước và
giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà
nước” là chưa phản ánh đúng tinh thần của
Điều 2 Hiến pháp năm 2013. Nên chăng
chúng ta trở lại với quy định của Điều 23,
Điều 70 Hiến pháp năm 1946 về Nghị viện
nhân dân: “Nghị viện nhân dân giải quyết
mọi vấn đề chung cho toàn quốc, đặt ra các
pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các
hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài”;
“Sửa đổi Hiến pháp phải theo cách thức sau
đây: a. Do hai phần ba tổng số nghị viên yêu
cầu; b. Nghị viện bầu ra một ban dự thảo
những điều thay đổi; c. Những điều thay
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
24 Số 21(349) T11/2017
đổi khi đã được Nghị viện ưng chuẩn thì
phải đưa ra toàn dân phúc quyết”. Như vậy,
Hiến pháp 1946 không trao cho Nghị viện
nhân dân quyền lập hiến mà chỉ trao cho cơ
quan này quyền tham gia lập hiến (thể hiện
ở hoạt động sửa đổi Hiến pháp). Nghị viện
nhân dân chỉ tổ chức soạn thảo các điều sửa
đổi, còn việc thông qua các điều khoản sửa
đổi vẫn do toàn dân quyết định. Chúng tôi
cho rằng, quy định của Hiến pháp năm 1946
thực sự đảm bảo được chủ quyền nhân dân
và đảm bảo cho Nhân dân thực hiện kiểm
soát quyền lực nhà nước ngay từ giai đoạn
trao quyền.
Nhân tố thứ hai tác động đến kiểm
soát quyền lực nhà nước ở giai đoạn trao
quyền là cách thức thiết kế (cách thức tổ
chức) quyền lực nhà nước. Mỗi quốc gia, tùy
thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh thực tế của
mình mà lựa chọn mô hình tổ chức quyền
lực nhà nước khác nhau. Nghiên cứu tổ chức
bộ máy các nước trên thế giới cho thấy, có
hai mô hình tổ chức quyền lực phổ biến, đó
là quyền lực ưu thế và quyền lực cân bằng.
Mô hình quyền lực ưu thế là trong các
cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước, có
một cơ quan ở vị trí chủ đạo hoặc vị trí ưu
thế rõ ràng, cơ quan đó thuộc về trung tâm
của quyền lực nhà nước. Mô hình quyền lực
ưu thế có hai đặc điểm nổi bật: một là, dung
hợp quyền lực giữa Nghị viện (Quốc hội)
và cơ quan hành pháp (Chính phủ hoặc Nội
các); hai là, luôn có một cơ quan là trung
tâm của quyền lực nhà nước. Đặc điểm thứ
nhất có nghĩa là Chính phủ do Nghị viện
hình thành nên và phụ thuộc vào Nghị viện.
Các nước theo chính thể Cộng hòa đại nghị
(như Đức), Quân chủ đại nghị (như Anh),
Đại hội đại biểu nhân dân (như Trung Quốc,
Việt Nam) đều sử dụng mô hình này. Ở
những nước như Anh, Đức, Chủ tịch Đảng
hoặc liên minh Đảng chiếm đa số trong Nghị
viện đồng thời là Thủ tướng, đứng đầu cơ
quan hành pháp. Chính phủ ở những nước
này chịu trách nhiệm trước Nghị viện, thực
chất Chính phủ là một bộ phận của Nghị
viện, chịu trách nhiệm xây dựng và thực hiện
chính sách nên được gọi là chế độ Chính phủ
(Nội các) trách nhiệm. Do có sự hậu thuẫn
của Đảng chiếm đa số trong Nghị viện nên
các chính sách của Chính phủ rất dễ dàng
được chấp thuận và trở thành chính sách
chung của cả hai cơ quan lập pháp và hành
pháp. Ở các nước theo mô hình Đại hội đại
biểu Nhân dân (như Trung Quốc, Việt Nam),
sự dung hợp quyền lực thể hiện ở chế độ
nghị - hành hợp nhất. Điều này có nghĩa là
cơ quan đại nghị (Đại hội đại biểu nhân dân
hoặc Quốc hội) là cơ quan quyền lực nhà
nước cao nhất, hình thành nên các cơ quan
nhà nước khác, trong đó có cơ quan hành
pháp (Chính phủ). Nói về đặc điểm thứ hai,
ở những nước như Anh, Đức, mặc dù Chính
phủ chịu trách nhiệm trước Nghị viện nhưng
nếu Nghị viện bất tín nhiệm Chính phủ thì
Chính phủ có thể thông qua nguyên thủ quốc
gia để giải tán Nghị viện. Chính vì vậy, ở
những nước này, Chính phủ là cơ quan trung
tâm của quyền lực nhà nước. Khác với điều
này, Trung Quốc và Việt Nam sử dụng mô
hình quyền lực trung tâm thuộc về cơ quan
đại nghị, vì vậy Hiến pháp quy định Quốc
hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất,
mọi cơ quan nhà nước đều được hình thành
và chịu sự giám sát bởi Quốc hội. Thể chế
chính trị của Trung Quốc và Việt Nam tương
đồng ở chỗ mặc dù Trung Quốc chấp nhận
đa đảng nhưng chỉ có Đảng Cộng sản được
thừa nhận là đảng chấp chính, các đảng còn
lại là đảng tham chính. Việt Nam thừa nhận
một đảng lãnh đạo là Đảng Cộng sản Việt
Nam, từ đó dẫn đến loại trừ được yếu tố
cạnh tranh giữa các đảng trong tổ chức bộ
máy nhà nước. Chính vì vậy, người đứng
đầu Chính phủ không nhất thiết phải là
người đứng đầu đảng cầm quyền như ở các
nước theo chế độ đa đảng cạnh tranh.
Mô hình quyền lực cân bằng là chỉ
quyền lực nhà nước được phân phối tương
đối cân bằng giữa các cơ quan nhà nước,
giữa các cơ quan nhà nước có sự độc lập
tương đối với nhau, không cơ quan nào ở
vào vị trí chủ đạo hoặc vị trí ưu thế rõ ràng,
tức là không tồn tại cái gọi là trung tâm
quyền lực nhà nước. Mô hình này cũng có
hai đặc điểm cơ bản: một là, có sự phân chia
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
25Số 21(349) T11/2017
quyền lực rõ ràng, không có sự kiêm nhiệm
giữa nhân viên cơ quan hành pháp với cơ
quan lập pháp; hai là, không tồn tại cơ quan
quyền lực nhà nước cao nhất, không tồn
tại trung tâm quyền lực nhà nước, các cơ
quan nhà nước dựa vào Hiến pháp để thực
hiện cân bằng quyền lực lẫn nhau. Mô hình
quyền lực cân bằng được xây dựng trên cơ
sở nguyên tắc tam quyền phân lập, theo đó
quyền lực nhà nước được phân chia thành ba
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; các
quyền này ở vị trí kiểm tra và cân bằng lẫn
nhau (check and balance), không quyền nào
có tính trội hơn các quyền còn lại. Các nước
theo chính thể Cộng hòa tổng thống (điển
hình là Mỹ) thường sử dụng mô hình tổ chức
quyền lực này.
Trong mô hình quyền lực ưu thế, do
có một cơ quan ở vị trí trung tâm của quyền
lực làm cho các cơ quan nhà nước không ở
vị trí kiểm tra và cân bằng lẫn nhau, do đó
việc kiểm soát quyền lực bị hạn chế hơn mô
hình quyền lực cân bằng. Tuy nhiên, không
thể khẳng định rằng mô hình quyền lực cân
bằng hiệu quả hơn mô hình quyền lực ưu
thế bởi vì việc ban hành chính sách trong
mô hình quyền lực cân bằng chậm chạp hơn,
tốn chi phí hơn mô hình quyền lực ưu thế do
các cơ quan nhà nước có thể lợi dụng việc
ban hành chính sách để tạo thế cân bằng và
mặc cả lẫn nhau. Chính vì vậy, để đảm bảo
kiểm soát quyền lực nhà nước không nhất
thiết phải áp dụng mô hình tam quyền phân
lập, thay vào đó có thể kết hợp những hạt
nhân hợp lý của cả hai mô hình nói trên để
hình thành nên cơ chế kiểm soát quyền lực
hữu hiệu nhưng vẫn đảm bảo thuận lợi và
hiệu quả kinh tế trong quá trình hoạt động
của các cơ quan nhà nước.
Nước ta sử dụng mô hình quyền lực
ưu thế với việc xác định Quốc hội là trung
tâm của quyền lực nhà nước (Quốc hội là
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất). Như
vậy, Quốc hội có thể thực hiện việc kiểm
soát quyền lực đối với các cơ quan nhà nước
khác, nhưng các cơ quan nhà nước khác rất
khó kiểm soát việc thực hiện quyền lực của
Quốc hội. Nói cách khác, kiểm soát quyền
lực ở nước ta hiện nay theo cơ chế một chiều.
Trong khi không thể khẳng định Quốc hội
luôn đúng thì việc bỏ ngỏ kiểm soát Quốc
hội là điều cần khắc phục. Chúng ta có thể
tham khảo mô hình tổ chức quyền lực của
Hiến pháp năm 1946, theo đó, nên trao cho
Chủ tịch nước quyền kiểm soát này. Hiến
pháp năm 1946 xác định Chủ tịch nước là
người đứng đầu Chính phủ, do Nghị viện bầu
ra trong số các nghị viên nhưng không phải
chịu trách nhiệm trước Nghị viện, trừ trường
hợp Chủ tịch nước phạm tội phản quốc. Quy
định này vừa đảm bảo nguyên tắc quyền lực
ưu thế thuộc về Nghị viện vừa đảm bảo khả
năng kiểm soát của Chính phủ đối với Nghị
viện. Một trong những cách thức kiểm soát
quyền lực đó là Chủ tịch nước có quyền phủ
quyết luật do Nghị viện ban hành. Thông
qua quyền phủ quyết, Chủ tịch nước có thể
kịp thời giúp Nghị viện khắc phục những
hạn chế trong các đạo luật đã thông qua hoặc
sửa đổi những quy định pháp luật không phù
hợp với chính sách và chủ trương điều hành
của Chính phủ. Phủ quyết không phải là phủ
nhận sạch trơn mà là tạo ra sự thống nhất và
phối hợp trong ban hành và thực hiện chính
sách của các cơ quan nhà nước.
Tóm lại, tam quyền phân lập không
phải là chìa khóa vạn năng cho việc kiểm
soát quyền lực nhà nước. Mô hình quyền lực
ưu thế vẫn có thể thực hiện kiểm soát quyền
lực miễn là chúng ta biết điều chỉnh (tăng,
giảm, thu hẹp, mở rộng) quyền của các cơ
quan nhà nước và thiết kế các chức danh
lãnh đạo cũng như xác định vị trí của các cơ
quan nhà nước một cách hợp lý, khoa học.
2. Các nhân tố tác động đến kiểm soát
quyền lực nhà nước ở giai đoạn thực
hiện quyền
Sau khi Nhân dân trao quyền cho Nhà
nước, quyền lực này sẽ được thực hiện bởi
các cơ quan và nhân viên nhà nước. Hiện
tượng lạm quyền và vượt quyền chủ yếu
xảy ra trong giai đoạn này. Chính vì vậy,
kiểm soát để đảm bảo việc thực hiện quyền
đi đúng quỹ đạo, trong phạm vi Nhân dân
ủy thác là rất cần thiết. Đó là lý do vì sao
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
26 Số 21(349) T11/2017
cơ quan nhà nước và nhân viên nhà nước
chỉ được làm những gì pháp luật cho phép.
Hoạt động kiểm soát quyền lực trong giai
đoạn này có thể được thực hiện bởi Nhân
dân hoặc bởi chính các cơ quan nhà nước.
Nhân tố thứ nhất tác động đến việc
kiểm soát quyền lực nhà nước ở giai đoạn
thực hiện quyền là hoạt động giám sát quyền
lực nhà nước. Giám sát quyền lực nhà nước
là một quá trình hoạt động có mục đích
bằng cách sử dụng các biện pháp giám sát
phù hợp tác động vào các cơ quan nắm giữ
các quyền lực nhà nước, nhằm bảo đảm cho
hoạt động của các cơ quan nhà nước tuân
thủ đúng pháp luật trong khuôn khổ phạm
vi, quyền hạn dược trao1. Thông qua giám
sát quyền lực nhà nước, Nhân dân sẽ phát
hiện ra những cơ quan hoặc nhân viên nhà
nước không hoàn thành nhiệm vụ hoặc thực
hiện vượt quyền, lạm quyền, khi đó Nhân
dân có thể hủy bỏ sự ủy quyền đã trao thông
qua cơ chế bãi nhiệm.
Theo quy định của Điều 40 Luật Tổ
chức Quốc hội năm 2014, “đại biểu Quốc
hội (ĐBQH) không còn xứng đáng với sự tín
nhiệm của Nhân dân thì bị Quốc hội hoặc cử
tri bãi nhiệm; trong trường hợp Quốc hội bãi
nhiệm ĐBQH thì việc bãi nhiệm phải được
ít nhất hai phần ba tổng số ĐBQH biểu quyết
tán thành; trong trường hợp cử tri bãi nhiệm
ĐBQH thì việc bãi nhiệm được tiến hành
theo trình tự do Ủy ban Thường vụ Quốc hội
(UBTVQH) quy định”. Tuy nhiên, thực tiễn
cho thấy, do trình tự cử tri bãi nhiệm tư cách
ĐBQH chưa được quy định cụ thể nên các
trường hợp bãi nhiệm tư cách ĐBQH gần
đây (như trường hợp bà Đặng Thị Hoàng
Yến, Châu Thị Thu Nga) đều do Quốc hội
thực hiện. Việc bãi nhiệm ĐBQH thời gian
qua chủ yếu được thực hiện theo trình tự ba
bước: (i) Mặt trận tổ quốc Việt Nam nơi hiệp
thương giới thiệu đại biểu đó ứng cử gửi văn
bản đề nghị tới UBTVQH; (ii) UBTVQH
đề nghị Quốc hội xem xét tư cách ĐBQH;
1 Trương Thị Hồng Hà (chủ biên), Hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam trong cơ chế giám sát quyền lực nhà nước,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.
(iii) Quốc hội thảo luận, bỏ phiếu và thông
qua nghị quyết bãi nhiệm tư cách ĐBQH của
người được đề nghị. Như vậy, Hiến pháp và
Luật Tổ chức Quốc hội đều bỏ ngỏ quy định
về trình tự thực hiện quyền bãi nhiệm của
cử tri đối với ĐBQH; đồng thời UBTVQH
không kịp thời ban hành hướng dẫn về vấn
đề này, đã ảnh hưởng không nhỏ đến việc
Nhân dân giám sát quyền lực nhà nước.
Về vấn đề này, một lần nữa chúng ta có thể
tham khảo Hiến pháp năm 1946. Điều 41
Hiến pháp năm 1946 quy định “Nghị viện
phải xét vấn đề bãi miễn một nghị viên khi
nhận được đề nghị của một phần tư tổng số
cử tri tỉnh, thành phố đã bầu ra nghị viên
đó. Nếu hai phần ba tổng số nghị viên ưng
thuận đề nghị bãi miễn thì nghị viên đó phải
từ chức”. Như vậy, Hiến pháp năm 1946 đã
trao cho nhóm cử tri quyền trực tiếp tham
gia bãi nhiệm đại biểu dân cử.
Nhân tố thứ hai tác động đến việc
kiểm soát quyền lực nhà nước ở giai đoạn
thực hiện quyền là hoạt động bảo hiến.
Hoạt động bảo hiến là nhân tố có ảnh hưởng
không nhỏ đến việc kiểm soát quyền lực nhà
nước, bởi lẽ Hiến pháp là văn bản pháp lý
cao nhất, ghi nhận sự trao quyền của Nhân
dân cho Nhà nước, mọi vi phạm Hiến pháp
đều phải được xử lý thì mới đảm bảo quyền
lực của Nhân dân được tôn trọng trên thực
tế. Để hoạt động bảo hiến có hiệu quả thì
việc thành lập cơ quan bảo hiến là điều cần
thiết. Sự hiện diện của cơ quan này góp phần
đảm bảo cho các quy định của Hiến pháp
được thực hiện nghiêm chỉnh, xử lý kịp thời
hành vi vi hiến.
Ngoài ra, phạm vi và phương thức bảo
hiến cũng có tác động đáng kể đến cơ chế
kiểm soát quyền lực nhà nước.
Việc thừa nhận phạm vi bảo hiến rộng,
hẹp sẽ tác động đến mức độ bảo đảm thực
hiện các quy định của Hiến pháp trên thực
tế. Phạm vi bảo hiến theo nghĩa rộng không
chỉ hạn chế ở việc thẩm tra tính hợp hiến của
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
27Số 21(349) T11/2017
các văn bản quy phạm pháp luật mà còn bao
gồm cả việc phán quyết tính hợp hiến của
các hành vi của các cơ quan nhà nước, công
chức, tổ chức xã hội cũng như hành vi của cá
nhân xâm phạm quyền cơ bản của công dân
đã được Hiến pháp ghi nhận. Ngoài ra, tranh
chấp về thẩm quyền giữa các cơ quan nhà
nước, giữa trung ương với địa phương cũng
cần được xem phạm vi bảo hiến.
Như vậy, nếu chỉ bó hẹp bảo hiến
trong phạm vi thẩm tra tính hợp hiến của
các văn bản quy phạm pháp luật thì sẽ còn
rất nhiều loại vi hiến không được xử lý. Kết
quả là mặc dù ý chí của Nhân dân đã được
thể hiện trong Hiến pháp nhưng không được
thực hiện hoặc thực hiện không đúng, không
đầy đủ trên thực tế.
Đối với phương thức bảo hiến, có thể
áp dụng cơ chế tiền kiểm hoặc hậu kiểm. Cơ
chế tiền kiểm cho phép cơ quan bảo hiến
thẩm tra tính hợp hiến của các văn bản quy
phạm pháp luật trước khi ban hành. Cơ chế
hậu kiểm cho phép cơ quan bảo hiến xem
xét tính hợp hiến của các văn bản pháp luật
sau khi ban hành hoặc tính hợp hiến của các
hành vi của cơ quan nhà nước và nhân viên
nhà nước sau khi những hành vi ấy đã được
thực hiện. Ngoài ra, trong bảo hiến còn có
phương thức thẩm tra cụ thể và thẩm tra
trừu tượng. Thẩm tra cụ thể là trường hợp
cơ quan nhà nước, cá nhân được nhà nước
trao quyền trong quá trình thực hiện pháp
luật phát hiện văn bản pháp luật có dấu hiệu
vi hiến thì đề nghị cơ quan bảo hiến xem xét
và ra phán quyết về tính hợp hiến của văn
bản đó. Thẩm tra trừu tượng là trường hợp
cơ quan bảo hiến chủ động thẩm tra tính hợp
hiến của văn bản quy phạm pháp luật mà
không cần phải xác định văn bản đó đang
được áp dụng vào trường hợp cụ thể nào.
Trên thực tế, Hiến pháp là đạo luật có giá
trị pháp lý cao nhất nên việc càng mở rộng
phạm vi và phương thức bảo hiến sẽ càng
làm cho các quy định của Hiến pháp được
thực hiện đầy đủ trên thực tế.
Tóm lại, kiểm soát quyền lực nhà
nước có liên quan mật thiết đến việc trao
quyền và tổ chức thực hiện quyền lực nhà
nước. Các hoạt động này đều xoay quanh
Hiến pháp, do đó kiểm soát quyền lực nhà
nước không gì khác là kiểm soát Hiến pháp,
làm cho Hiến pháp được ban hành và thực
thi trên cơ sở ý chí của Nhân dân. Muốn vậy,
Nhân dân phải là chủ thể của quyền lập hiến
và là chủ thể giám sát thực hiện quyền lực
nhà nước. Thiết kế vận hành quyền lực nhà
nước cho dù là tập quyền hay phân quyền
đều phải đảm bảo giữa các cơ quan nhà
nước có sự kiểm soát lẫn nhau, tránh kiểm
soát một chiều. Có như vậy mới đảm bảo
cho việc thực hiện quyền lực nhà nước đi
đúng quỹ đạo và trong phạm vi ủy quyền.
Cuối cùng, Nhân dân phải có khả năng thu
hồi quyền lực đã trao nếu người được trao
quyền không còn xứng đáng và không được
tín nhiệm. Những nhân tố này nếu được quan
tâm và nhận thức đầy đủ sẽ góp phần không
nhỏ vào việc nâng cao hiệu quả kiểm soát
quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hoàng Hiểu Huy, Nghiên cứu so sánh cơ chế giám sát quyền lực nhà nước trên cơ sở phân tích mô hình
dân chủ đa số và mô hình dân chủ đồng thuận, Nxb Nhân dân Trung Quốc, 2009 (bản tiếng Trung).
2. Nguyễn Thị Hồi, Tư tưởng phân chia quyền lực nhà nước với việc tổ chức bộ máy nhà nước ở một số
nước, Nxb. Tư pháp, 2005.
3. Trương Kiệt, Nghiên cứu thực tiễn và lý luận phân quyền phương Tây – lấy ba nước Anh, Pháp, Mỹ làm
ví dụ, Nxb. Đại học Dân tộc trung ương Trung Quốc, 2008 (bản tiếng Trung).
4. Trương Thị Hồng Hà (chủ biên), Hoạt động giám sát của Quốc hội Việt Nam trong cơ chế giám sát quyền
lực nhà nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
28 Số 21(349) T11/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhan_to_tac_dong_den_co_che_kiem_soat_quyen_luc_nha_nuoc.pdf