Nhu cầu về chăm sóc sức khỏe của thanh thiếu niên khiếm thị tại trường Phổ thông đặc biệt Nguyễn Đình Chiểu quận 10 thành phố Hồ Chí Minh năm 2010

KẾT LUẬN Nghiên cứu đã bước đầu tìm hiểu được những vấn đề sức khỏe hiện tại của TTN khiếm thị tại trường PTĐB Nguyễn Đình Chiểu. Thể chất và sức đề kháng kém khiến các em dễ mắc bệnh. Bên cạnh đó, các em cũng thường gặp các tai nạn thương tích và dễ trở thành nạn nhân của nạn xâm hại, lạm dụng tình dục. Các em rất nhạy cảm, thường rơi vào trạng thái tự ti, mặc cảm mà nguyên nhân sâu xa là do tình trạng khuyết tật. Vì những nguyên nhân chủ quan và các khó khăn mang tính khách quan, nhà trường và các đơn vị hỗ trợ vẫn chưa đáp ứng hết nhu cầu CSSK cho các em. Đặc biệt, TTN khiếm thị có nhu cầu rất lớn về nguồn thông tin sức khỏe, nhất là thông tin liên quan đến SKSS, giới tính, tuổi dậy thì nhưng nguồn sách nói, sách chữ nổi về vấn đề này chưa nhiều. Sớm trải nghiệm thái độ tiêu cực từ gia đình và những người xung quanh nên nhu cầu được lắng nghe và đồng cảm cũng là một vấn đề cần được quan tâm đúng mức để hỗ trợ tốt cho công tác CSSK. KIẾN NGHỊ  Nhà trường và các đơn vị hỗ trợ cần tạo nhiều điều kiện hơn nữa để tăng số lần khám sức khỏe, các buổi truyền thông – giáo dục sức khỏe cho các em, phong phú hóa thực đơn và cần phổ biến cho các em về giá trị dinh dưỡng của các món ăn.  Cần có sự phối hợp liên ngành nhằm đưa ra những chính sách chăm sóc y tế cụ thể, hiệu quả hơn, để NKT có thể tiếp cận những dịch vụ chăm sóc tốt nhất.  Mở rộng hệ thống giao thông công cộng có thiết kế ưu tiên và phù hợp với khả năng di chuyển của người khiếm thị.

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 26/01/2022 | Lượt xem: 184 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nhu cầu về chăm sóc sức khỏe của thanh thiếu niên khiếm thị tại trường Phổ thông đặc biệt Nguyễn Đình Chiểu quận 10 thành phố Hồ Chí Minh năm 2010, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y tế Công cộng 55 NHU CẦU VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA THANH THIẾU NIÊN KHIẾM THỊ TẠI TRƯỜNG PHỔ THÔNG ĐẶC BIỆT NGUYỄN ĐÌNH CHIỂU QUẬN 10 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH NĂM 2010 Ngô Ngọc Thùy Nhiên, Huỳnh Hồ Ngọc Quỳnh, Phạm Hằng Hà TÓM TẮT Bối cảnh: Thanh thiếu niên (TTN) khiếm thị có nhu cầu về chăm sóc sức khỏe (CSSK) rất đặc trưng cho tình trạng khuyết tật. Tuy nhiên những nghiên cứu tại Việt Nam hướng đến nhóm đối tượng này không nhiều. Đây là nghiên cứu nhằm tìm hiểu nhu cầu về CSSK của TTN khiếm thị tại trường Phổ thông đặc biệt (PTĐB) Nguyễn Đình Chiểu, Tp.Hồ Chí Minh (Tp.HCM) năm 2010. Mục tiêu: Tìm hiểu nhu cầu về CSSK của TTN khiếm thị và các yếu tố ảnh hưởng đến việc CSSK tại trường PTĐB Nguyễn Đình Chiểu, Tp.HCM năm 2010. Phương pháp: nghiên cứu định tính với 05 cuộc thảo luận nhóm (TLN) và 07 cuộc phỏng vấn sâu (PVS), kết hợp phương pháp quan sát có sự tham gia và đánh giá nhanh có sự tham gia của cộng đồng. Kết quả: Nhu cầu được lắng nghe, đồng cảm được các em nêu lên đầu tiên vì thực tế vẫn còn tồn tại nhiều định kiến không tốt về người khiếm thị. Các em có nhu cầu rất lớn về việc tìm kiếm, tiếp cận nguồn thông tin sức khỏe đáng tin cậy, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến sức khỏe sinh sản (SKSS), giới tính và tuổi dậy thì nhưng nguồn sách nói, sách nổi về chủ đề này vẫn còn hạn chế. Các em mong muốn được đối xử công bằng, được quan tâm hơn khi đến các cơ sở y tế; được tăng số lần khám sức khỏe định kỳ; được tăng số lượng cũng như đa dạng hình thức trao đổi thông tin qua các buổi truyền thông. Về dinh dưỡng, các em mong muốn thực đơn của trường phong phú, đa dạng hơn. Kết luận: Công tác CSSK cho đối tượng người khiếm thị là một vấn đề rất quan trọng. Nhà trường và các đơn vị hỗ trợ tuy đã rất cố gắng nhưng gặp không ít trở ngại, do đó đôi khi kết quả chưa được như mong đợi. Để công tác này ngày một tốt hơn, đòi hỏi sự quan tâm của cả cộng đồng, sự hợp tác của toàn xã hội chứ không riêng ngành y tế. Từ khóa: thanh thiếu niên khiếm thị, nhu cầu chăm sóc sức khỏe, trường PTĐB Nguyễn Đình Chiểu. ABSTRACT THE NEED FOR HEALTH CARE OF YOUNG PEOPLE WITH VISUAL IMPAIRMENT IN NGUYEN DINH CHIEU SCHOOL FOR THE BLIND, 10 DISTRICT, HO CHI MINH CITY, 2010 Ngo Ngoc Thuy Nhien, Huynh Ho Ngoc Quynh, Pham Hang Ha * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 1 - 2011: 55 - 61 Background: Young people with visual impairment require particular needs for health care. But, there is few of studying about this subject in Vietnam. This is a research aimed to explore the need for health care of young people with visual impairment in Nguyen Dinh Chieu school for the blind, 10 district, Ho Chi Minh city, 2010. Objectives: Explore the need for health care of young people with visual impairment and affected factors that influence health care activities in Nguyen Dinh Chieu school for the blind, 10 district, Ho Chi Minh city, 2010.  Khoa Y tế Công cộng, Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh Địa chỉ liên hệ: CN. Ngô Ngọc Thùy Nhiên ĐT: 0984406857 Email: ngongocthuynhien@gmail.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 56 Methods: A qualitative research approach using 5 focus group discussions, 7 in-depth interviews combine with participant observation and participatory rapid assessment. Results: Young people with visual impairment need to be listened, to be indentified first of all. In great demand, they want to find out and access trustworthy health information, especially reproductive health, sexual problem and puberty, but audio book or Braille book about this subject still limited. At medical center, they need to be treated fairly, raised more times to have a periodic medical check-up, diversified form of exchanging information. As regard to nutrition, they want the menu to be more diversified and nutritious. Conclusions: Health care activities for young people with visual impairment is very important. Although school and sponsors hard effort but they had a lot of obstacle. Consequently, to get better result, it requires the attention of the whole community, the cooperation of the entire society, not only the health sector. Keywords: young people with visual impairment, the need for health care, Nguyen Dinh Chieu school for the blind. ĐẶT VẤN ĐỀ Trên thế giới có trên 314 triệu người khiếm thị (8) khoảng 90% trong số họ sống tại các quốc gia đang phát triển(7), gần 5,181 triệu người mù đang ở độ tuổi lao động (15 đến 49 tuổi) và mỗi phút qua đi, trên thế giới lại có thêm một trẻ em không còn được nhìn thấy ánh sáng.(8) Con số này có xu hướng gia tăng ở những năm tiếp theo. Nếu không kể nguyên nhân khiếm thị do tật khúc xạ, Đông Nam Á là khu vực có số người khiếm thị cao nhất thế giới với 45,1 triệu người (28%). (7) Tại Việt Nam, tỉ lệ khuyết tật về khả năng nhìn của dân số từ 5 tuổi trở lên là 11,2% (5) Trường PTĐB Nguyễn Đình Chiểu là ngôi trường dành cho người khiếm thị lớn nhất khu vực phía Nam. Tại đây các em được học văn hóa, học nghề, phát triển năng khiếu và được tạo điều kiện hội nhập. Bên cạnh những nhu cầu cơ bản, các em còn có những nhu cầu đặc trưng cho tình trạng khuyết tật, đặc biệt là về CSSK. Tuy nhiên có rất ít nghiên cứu tại Việt Nam hướng đến mảng CSSK trên đối tượng là TTN khiếm thị. Vì vậy, xuất phát từ việc muốn tìm hiểu nhu cầu của chính các em cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến công tác này, chúng tôi quyết định tiến hành nghiên cứu để từ đó có thể thay các em nói lên nguyện vọng và đưa ra những giải pháp giúp công tác CSSK ngày một tốt hơn. ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu định tính Đối tượng nghiên cứu - Nhóm đối tượng đích: TTN khiếm thị đang theo học hoặc sinh hoạt tại trường PTĐB Nguyễn Đình Chiểu, Q.10, Tp.HCM vào thời điểm nghiên cứu. - Nhóm đối tượng liên quan: giáo viên chủ nhiệm, giáo viên chăm sóc, đại diện Ban Giám Hiệu, nhân viên y tế (NVYT) bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Phương pháp chọn mẫu + 05 cuộc thảo luận nhóm gồm: 04 nhóm TTN khiếm thị (nam, nữ từ 10 đến 18 tuổi và từ 19 đến 24 tuổi), 01 nhóm giáo viên. + 07 cuộc phỏng vấn sâu gồm: 04 TTN khiếm thị, 01 giáo viên chăm sóc, 01 đại diện Ban Giám Hiệu và 01 NVYT bệnh viện Nguyễn Tri Phương. Thu thập số liệu Phương pháp thu thập Phỏng vấn bán cấu trúc (thảo luận nhóm trọng tâm và phỏng vấn sâu) kết hợp với phương pháp quan sát có sự tham gia và Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y tế Công cộng 57 đánh giá nhanh có sự tham gia của cộng đồng. Công cụ thu thập - Bảng hướng dẫn phỏng vấn dành riêng cho từng đối tượng. - Ghi chép, bài viết của đối tượng, nhật ký nghiên cứu của nghiên cứu viên. Kỹ thuật phân tích số liệu - Nhật ký nghiên cứu, đoạn băng ghi âm, các bài viết bằng chữ nổi, các bản ghi chú đều được trình bày dưới dạng văn bản. - Các đoạn băng ghi âm đều được nghe và đánh máy chính xác từng từ một đúng với nguyên văn lời nói của đối tượng. - Thông tin sàng lọc theo mục tiêu nghiên cứu được mã hóa trên phần mềm Microsoft Excel và kết quả được trình bày trên phần mềm Microsoft Word. Vấn đề y đức - Chỉ tiến hành thu thập thông tin khi được sự đồng ý của Ban Giám Hiệu và đối tượng nghiên cứu. - Đảm bảo quyền lợi của người cung cấp thông tin, không gây tổn thương cho các đối tượng khi phỏng vấn và trong suốt quá trình nghiên cứu. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN Những vấn đề sức khỏe hiện tại của TTN khiếm thị tại trường PTĐB Nguyễn Đình Chiểu Về thể chất Nhìn chung, sức khỏe của các em không bằng các bạn sáng mắt khác cùng trang lứa cả về thể trạng lẫn sức đề kháng, các bệnh thường mắc là: cảm, ho, sổ mũi, viêm họng, nhiễm trùng đường ruột, viêm xoang, các bệnh về da, răng miệng. Kết quả này có sự tương đồng với kết quả nghiên cứu trên đối tượng học sinh tại Trung tâm nuôi dạy trẻ khiếm thị Tây Ninh. (3) Ngoài ra, một số em còn có những bệnh khác đi kèm, ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống và sức khỏe. “Em bị rối loạn thần kinh tim, em bị bao tử nữa, viêm họng mãn tính đó, nhiều khi nó cứ lo hoài vậy đó thì cứ phải đi bệnh viện uống thuốc liên tục.” – PVS Nam 21 tuổi. Bên cạnh đó, tai nạn thương tích cũng là vấn đề rất đáng quan tâm, các dạng tai nạn thường gặp là: té ngã, bỏng, đụng tường cột, súc vật cắn, thương tích do sử dụng vật nhọn trong học tập và sinh hoạt như: dao kéo, compa, kim bấm, dùi viết chữ Một điều có vẻ như mâu thuẫn đó là các em bị khiếm thị càng sớm lại càng thích di chuyển với tốc độ nhanh, chính vì vậy nguy cơ va chạm càng cao. Ngoài ra, các yếu tố khách quan cũng góp phần không nhỏ vào việc gây ra thương tích cho các em. “Em đi học, thường thường là người khiếm thị buộc phải đi dưới lòng đường chứ không thể đi trên lề đường được, tại vấn đề là đi trên đó sẽ còn va chạm dữ hơn đi ở dưới nữa. Nhưng mà hiện tại người ta đặt cái lô cốt thì buộc mấy em phải đi trên con lương, nhưng mà đi trên con lương thì ba cái xà bần hoặc là đất đá người ta đổ trên đó bị vấp, dễ vấp.” – PVS Nam 21 tuổi. Kết quả nghiên cứu cũng tương đồng với nhận định của Quỹ bảo trợ Hesperian trong “Cẩm nang hỗ trợ trẻ em mù” (4) khi nhận thấy tồn tại một vấn nạn không chỉ ảnh hưởng đến thể chất mà còn để lại di chứng về tinh thần, đó là nạn xâm hại, lạm dụng tình dục. Các em, đặc biệt là trẻ nhỏ, dễ dàng trở thành đối tượng cho kẻ xấu thực hiện hành vi lạm dụng, mà kẻ xấu đó đôi khi ở ngay trong nơi được xem như an toàn nhất, đó là gia đình của chính các em. “Có đứa nó tâm sự với GVCN, trong khi các cha mẹ nó ở nhà nó không phát hiện nghen! Nó nói là: “ở nhà chú con hay thọt vào chỗ kín con vậy đó, hay sờ mó chỗ kín con, chú con hay chọt lét con” nhưng mà thực sự khi báo với mẹ nó thì mẹ nó lại không biết, mẹ Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 58 nó ở nhà lại không biết.” – PVS Đại diện Ban Giám Hiệu Về tinh thần Khiếm khuyết về mặt thể chất đã có tác động không nhỏ đến sức khỏe tinh thần, cảm xúc; do đó, các em nhạy cảm hơn, dễ bị tổn thương hơn, khiến các em thường mang tâm lý tự ti, mặc cảm, thu mình lại với môi trường xung quanh. Kết quả nghiên cứu về tâm lý vị thành niên khiếm thị của Viện Y tế công cộng quốc gia Phần Lan cũng cho kết quả tương tự.(2) “Có một đứa trẻ nó mù nhưng mà nó không biết là nó mù, nó hỏi chớ “sao con không nhìn thấy đường vậy ba?” Cái nói đó là tại nó mù, nó không thấy đường, thế là nó khóc, nó khóc ấm ức, hỏi: “Tại sao mà con phải bị mù?”. Nó thắc mắc và nó hỏi hết tất cả mọi thứ cho ba nó. Thế là làm cho ba nó cũng lo lắng, sợ hãi.” - PVS Giáo viên chủ nhiệm Bên cạnh những em được gia đình quan tâm, vẫn còn có nhiều em tâm sự về sự thiếu thốn tình cảm, sự thờ ơ từ những người thân. Có em cho rằng vì thời gian ở trường nhiều hơn ở nhà, nên tình cảm gia đình có phần lợt lạt, không như các bạn thường được ở chung với cha mẹ. Nhưng còn có những nguyên nhân sâu xa hơn, đó là một số gia đình vẫn còn nặng tư tưởng xem các em như một tội lỗi, của nợ của gia đình. Điều đó đã tạo nên tì vết trong tâm hồn và làm tổn thương về mặt tinh thần, vô tình đẩy các em đến chiều hướng phát triển bất thường về tâm lý. “Có nhiều người mặc cảm có người con như vậy. Bây giờ vẫn còn, mà nhiều gia đình khá giả vẫn còn, vẫn còn cái lối sống như xưa vậy đó, tốt khoe xấu che. Người ta giấu thôi, người ta không có cho nó ra ngoài giao tiếp với mọi người.” - PVS Giáo viên chăm sóc Không chỉ trong phạm vi gia đình, một số em đã học hội nhập cũng chịu không ít những cái nhìn, những lời nói không mấy thiện cảm nếu không nói là xúc phạm từ các bạn cùng trang lứa may mắn hơn, tương tự với kết quả Báo cáo về Trẻ khuyết tật và Gia đình trẻ khuyết tật tại Đà Nẵng của UNICEF tháng 11 năm 2009.(6) Một số em có thể vượt qua được, song đối với các em khác lại là một rào cản lớn trên con đường hội nhập với xã hội. “Em đi học thì mấy bạn cũng có chọc đó, mấy bạn nói chung là chọc về khiếm thị.” - PVS Nam 16 tuổi. “Nhiều người không hiểu mình cho nên làm cho mình bực mình lắm, từ chỗ đó không muốn tự ti cũng phải tự ti, không muốn mặc cảm cũng phải mặc cảm nữa.” - PVS Nữ 17 tuổi. Cũng như bao người khác, các em cũng có những mối bận tâm như: về gia đình, về việc học, các mối quan hệ xã hội và sự thay đổi về tâm sinh lý khi bước vào tuổi dậy thì. Khả năng đáp ứng về CSSK cho TTN khiếm thị của nhà trường và các đơn vị hỗ trợ Công tác sơ cấp cứu và xử trí các bệnh thông thường Nhà trường có một phòng chăm sóc với thuốc và các y cụ phổ thông, có bốn giáo viên phụ trách bộ phận CSSK được tập huấn về sơ cấp cứu hàng năm, thay ca nhau trực cả ngày lẫn đêm, ngày các em nghỉ cũng như ngày đi học. Song, do hạn chế về chuyên môn, xử trí chủ yếu dựa vào kinh nghiệm nên đôi khi hiệu quả chưa được như mong đợi. BV Nguyễn Tri Phương là nơi đầu tiên tiếp nhận và có những ưu tiên khi khám chữa bệnh cho các em. Tuy an tâm về chất lượng chuyên môn, thế nhưng thái độ của một số nhân viên y tế đôi khi khiến các em cảm thấy chưa thật sự thoải mái khi điều trị tại đây. “Lúc khám thì bác sĩ cũng được. Cũng tùy à, có những người thì chăm sóc cũng kỹ lắm, nói chung là dịu dàng. Có những người thì cảm thấy người ta gắt gỏng, người ta chỉ la” – PVS Nữ 17 tuổi. Công tác khám sức khỏe (KSK) Bệnh viện Mắt Tp.HCM đã hỗ trợ nhà Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y tế Công cộng 59 trường trong công tác khám mắt định kỳ. Mỗi năm các em nhìn kém được khám mắt 2 lần, được đo thị lực, cắt kính miễn phí. Ngoài ra, BV Nguyễn Tri Phương phối hợp cùng nhà trường trong việc KSK tổng quát cho các khối lớp. Các em rất trân trọng những lần được các y bác sĩ đến khám. “Người ta [nhân viên y tế] đã bỏ công qua đây để khám thay vì là tụi em phải qua tới bển [bệnh viện] thì em cũng rất hài lòng rồi.” – PVS Nam 21 tuổi. Song, vẫn còn nhiều ý kiến cho rằng việc khám tại trường Nguyễn Đình Chiểu không được kỹ lưỡng như ở trường khác. Thêm vào đó, việc KSK quá nhanh và chỉ một lần trong năm đôi khi không khỏi làm các em hồ nghi về chuyên môn lẫn chất lượng. Công tác Truyền thông – Giáo dục sức khỏe Trường đã phối hợp với T4G TP.HCM tổ chức những buổi nói chuyện chuyên đề giúp các em chủ động trong việc tìm hiểu thông tin, phòng ngừa bệnh tật, bảo vệ bản thân trước những yếu tố ảnh hưởng bất lợi đến sức khỏe. Những vấn đề được chú trọng là SKSS, giáo dục giới tính, bệnh dịch đang lưu hành như: cúm H1N1, sốt siêu vi, dịch tiêu chảy cấp và gần đây là nạn lạm dụng, xâm hại tình dục. Ngoài ra, những thông tin về CSSK cần biết sẽ được lồng ghép nhắc nhở trong những buổi sinh hoạt tập thể như chào cờ, giờ ăn. Truyền thông cho đối tượng TTN khiếm thị đòi hỏi một quá trình lâu dài, thường xuyên nhưng phải đảm bảo dễ hiểu, linh hoạt khi tiếp cận. Vì thế, hình thức đặt câu hỏi trực tiếp thường được áp dụng trong các buổi nói chuyện chưa thực sự giúp các em thoải mái trao đổi những suy tư thầm kín, nên các em vẫn chưa thật sự hài lòng. Mặt khác, do khoảng cách về tuổi tác và khác biệt về suy nghĩ cũng như phản ứng của thầy cô, gia đình khi các em hỏi về những vấn đề nhạy cảm khiến các em e dè hơn. Nguồn sách, tài liệu bằng chữ nổi, phông chữ lớn hoặc sách nói còn bị hạn chế về số lượng lẫn chất lượng. Từ đó, nếu có thắc mắc cần giải đáp, các em cũng giấu kín hoặc tìm kiếm từ các nguồn khác riêng tư hơn, nhiều nhất là hỏi bạn bè hoặc nghe đài, truyền hình, mạng internet. “Những buổi nói chuyện chuyên đề sức khỏe như là sinh hoạt chung tập thể vậy thôi, thì em nghĩ thì nó không có thể mang lại được nhiều cái kết quả Vừa rồi đó thì cũng có nói nhỏ nhưng mà một vài bạn bị rồi thì mấy bạn khác cũng không dám, khi người ta hỏi nhỏ thì bác sĩ lại trả lời lớn đó, rồi mấy bạn sau cứ ngại vậy đó.” – PVS Nam 21 tuổi. Chăm sóc sức khỏe tinh thần Trường có sân chơi và căn tin ngay trong khuôn viên. Trường còn trang bị: truyền hình, mạng internet, thư viện sách nói và sách chữ nổi. Ngoài giờ học chính khóa, các em còn có những lớp học ngoại khóa như: võ Aikido, nhạc, vẽ, bơi. Cùng với nhà trường, các tổ chức từ thiện còn có sinh viên của các trường đại học thường xuyên đến giao lưu và dạy kèm cho các em. Khi cần người chia sẻ, các em thường tìm đến bạn bè để tâm sự hơn là thầy cô và gia đình. Lý do các em đưa ra là bạn bè cùng trang lứa, dễ thông cảm cho nhau. Thầy cô và gia đình phần quá bận rộn vì công việc, phần vì chênh lệch về tuổi tác, cách suy nghĩ nên khiến các em khó mở lòng. “Thầy cô vẫn luôn nói là: “mấy em có cái gì, nói với thầy cô, tâm sự với thầy cô”, nhưng mà tụi em cũng đã từng chứng kiến rồi, tâm sự thì sẽ chẳng ai nghe đâu mà sẽ nói: “ừ, vào độ tuổi của mấy em thì lo học đi, lo chi mấy cái chuyện đó, giờ chỉ có học thôi, lo học thôi à, lo ba cái chuyện linh tinh”. Nhiều khi chuyện đó tụi em không nghĩ đó là chuyện linh tinh nhưng mà người khác có thể nghĩ như vậy.” – PVS Nữ 21 tuổi. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Chuyên Đề Khoa học Cơ bản – Y tế Công cộng 60 “Đặc biệt là với gia đình thì em không bao giờ tâm sự, những cái gì riêng tư của em, em chưa bao giờ tâm sự với gia đình em hết Tại mẹ em với em không cùng quan điểm, không cùng ý nghĩ.” – PVS Nữ 19 tuổi. Những khó khăn trong công tác CSSK cho TTN khiếm thị tại trường PTĐB Nguyễn Đình Chiểu Khó khăn của học sinh khiếm thị Do đặc thù khuyết tật dẫn đến khó khăn lớn nhất của các em là khả năng tự chăm sóc và tự bảo vệ khỏi những tác nhân có khả năng ảnh hưởng đến sức khỏe. Đồng thời việc thiếu thông tin về sức khỏe và khả năng tiếp cận thông tin còn hạn chế cũng là một trở ngại cho các em trong việc chăm sóc cho bản thân, đặc biệt khi các em bước vào tuổi dậy thì. “Tụi em có những cái mà nó chẳng hạn điển hình như cái lứa tuổi dậy thì, ở con trai con gái cũng có những cái mà không biết phải hỏi ai hết.” - PVS Nam 23 tuổi Sự đồng cảm, quan tâm, gần gũi của gia đình, thầy cô và những người xung quanh cũng là một động lực để các em mạnh dạn nói lên những vấn đề về sức khỏe đang gặp phải. Nhưng với tâm lý ngại ngùng khi gặp những vấn đề nhạy cảm liên quan đến tuổi dậy thì hay bệnh về da khiến các em không dễ dàng bày tỏ khi cần được hỗ trợ. “Khi mà bệnh trong người em đó, chỉ có em biết thôi, chỉ có em nói để ba mẹ dắt em đi khám bệnh thôi à, chứ không có để ý quan tâm đến em.” – PVS Nữ 17 tuổi Khó khăn của nhà trường Khó khăn lớn nhất của nhà trường là về nhân lực y tế vì thực tế, chuyên môn chính vẫn là giáo dục đặc biệt. Khó khăn thứ hai là về cơ sở vật chất, nhất là về mặt bằng để đảm bảo khu vui chơi rộng rãi, thoáng mát, an toàn. Một yếu tố không kém phần quan trọng trong việc CSSK cho các em là mối quan hệ qua lại giữa giáo viên – học sinh. Các em thường hay giấu bệnh, không thông báo với giáo viên khi có những bất thường về sức khỏe. Thêm vào đó, sự phối hợp của gia đình với nhà trường trong công tác CSSK cho các em cũng chưa tốt gây trở ngại cho nhà trường trong việc theo dõi sức khỏe các em. “Học sinh chưa chia sẻ hết mình, nhất là học sinh lớn.” - TLN giáo viên. “Thiếu sự hợp tác 2 chiều: Phụ huynh – Nhà trường.” - TLN giáo viên Hỗ trợ về mặt xã hội cũng như sự quan tâm của cộng đồng đối với người khuyết tật cũng là một trở ngại được nêu lên như một rào cản, cả nhân viên y tế và giáo viên đều cho rằng chưa có một chính sách nào quy định cụ thể về việc CSSK cho NKT nói chung và người khiếm thị nói riêng. Nhu cầu CSSK của TTN khiếm thị trường PTĐB Nguyễn Đình Chiểu Kiến thức về sức khỏe là điều mà các em quan tâm khi chăm sóc cho bản thân, đặc biệt về giới tính và tuổi dậy thì, khá tương đồng với kết quả nghiên cứu của tác giả Diệp Từ Mỹ thực hiện năm 2006 về Nhu cầu truyền thông giáo dục về SKSS của TTN 15 đến 24 tuổi tại quận Tân Phú, TPHCM. [1] Từ đó, các em mong muốn có nguồn thông tin phong phú hơn bằng nhiều hình thức như: tư vấn sức khỏe cá nhân, sách nói; sách chữ nổi; tăng số lượng và có những hình thức trao đổi thông tin, ý kiến phù hợp để các em mạnh dạn nêu lên những thắc mắc, vấn đề của bản thân. “Em nghĩ là cần có một số sách nói về cái vấn đề đó, thì các bạn sẽ tìm hiểu một cách dễ hơn. Sách nổi đó, hay là sách nói cũng được.” – PVS Nữ 17 tuổi. Các em mong muốn được đối xử công bằng như mọi người tại các cơ sở y tế, nhất là khi khám, nằm viện theo BHYT. Số lần khám sức khỏe tại trường nên nhiều hơn, các nhân viên y tế làm việc với thái độ nhiệt tình và tích cực hơn. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 1 * 2011 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Y tế Công cộng 61 “Em chỉ mong ước là cái nơi mà mình đi đến khám sức khỏe đó, họ đối xử và quan tâm mình một cách bình thường với mọi người khác.” – PVS Nữ 22 tuổi Hiểu được khó khăn của nhà trường về thiếu chuyên viên y tế, các em còn mong muốn trường sẽ có thêm nhân viên y tế để hỗ trợ cho các GVCS, giúp việc chăm lo sức khỏe của các em sẽ hiệu quả hơn, các em yên tâm hơn. Về dinh dưỡng, các em mong rằng thực đơn phong phú hơn và được đổi món thường xuyên hơn. KẾT LUẬN Nghiên cứu đã bước đầu tìm hiểu được những vấn đề sức khỏe hiện tại của TTN khiếm thị tại trường PTĐB Nguyễn Đình Chiểu. Thể chất và sức đề kháng kém khiến các em dễ mắc bệnh. Bên cạnh đó, các em cũng thường gặp các tai nạn thương tích và dễ trở thành nạn nhân của nạn xâm hại, lạm dụng tình dục. Các em rất nhạy cảm, thường rơi vào trạng thái tự ti, mặc cảm mà nguyên nhân sâu xa là do tình trạng khuyết tật. Vì những nguyên nhân chủ quan và các khó khăn mang tính khách quan, nhà trường và các đơn vị hỗ trợ vẫn chưa đáp ứng hết nhu cầu CSSK cho các em. Đặc biệt, TTN khiếm thị có nhu cầu rất lớn về nguồn thông tin sức khỏe, nhất là thông tin liên quan đến SKSS, giới tính, tuổi dậy thì nhưng nguồn sách nói, sách chữ nổi về vấn đề này chưa nhiều. Sớm trải nghiệm thái độ tiêu cực từ gia đình và những người xung quanh nên nhu cầu được lắng nghe và đồng cảm cũng là một vấn đề cần được quan tâm đúng mức để hỗ trợ tốt cho công tác CSSK. KIẾN NGHỊ  Nhà trường và các đơn vị hỗ trợ cần tạo nhiều điều kiện hơn nữa để tăng số lần khám sức khỏe, các buổi truyền thông – giáo dục sức khỏe cho các em, phong phú hóa thực đơn và cần phổ biến cho các em về giá trị dinh dưỡng của các món ăn.  Cần có sự phối hợp liên ngành nhằm đưa ra những chính sách chăm sóc y tế cụ thể, hiệu quả hơn, để NKT có thể tiếp cận những dịch vụ chăm sóc tốt nhất.  Mở rộng hệ thống giao thông công cộng có thiết kế ưu tiên và phù hợp với khả năng di chuyển của người khiếm thị. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. DiệpTừ Mỹ (2006), Nhu cầu truyền thông giáo dục về Sức khỏe sinh sản của TTN 15 – 24 tuổi tại quận Tân Phú, TP.HCM. Y học TP HCM, số 14, phụ bản của tập 14*số 1*2010, trang 145-150. 2. National Public Health Institute Finland. Psychosocial development among adolescents with visual impairment, (lần xem gần nhất 12/06/2010) 3. Tay Ninh Centre for visually impaired children. Reporting Period: January – December 2008. 4. The Hesperian Foundation, Berkeley, California, USA. Helping Children Who Are Blind - Family and community support for children with vision problems, Chapter 12. 5. Tổng cục thống kê Việt Nam. Kết quả khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2006, mục 4, trang 168. 6. UNICEF. Báo cáo về Trẻ khuyết tật và Gia đình Trẻ khuyết tật tại Đà Nẵng, tháng 11/2009. 7. WHO. Magnitude and causes of visual impairment November 2004, ns/WHO_282___Magnitude_and_causes_of_visual_impair ment.pdf (lần xem gần nhất 07/06/2010) 8. WHO. Vision 2020 Right to Sight - Global initiative for the elimination of avoidable blindness action plan 2006– 2011.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfnhu_cau_ve_cham_soc_suc_khoe_cua_thanh_thieu_nien_khiem_thi.pdf
Tài liệu liên quan