Cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm là nhằm
tới việc bảo vệ quyền lợi cho người nhận thế
chấp trong trường hợp có nhiều người nhận thế
chấp hoặc có chủ thể khác có quyền đối với tài
sản thế chấp. Như vậy, đáng lẽ trong trường
hợp tài sản không có tranh chấp về quyền sở
hữu, không dùng để bảo đảm cho nghĩa vụ nào
khác, thì đương nhiên bên nhận thế chấp là
người có quyền duy nhất. Tuy nhiên, thực tế
họ sẽ bị Toà án “xổ toẹt” quyền của chủ nợ có
bảo đảm. Như vậy, mặc dù là giao dịch dân sự,
nhưng pháp luật lại coi trọng những quy định,
thủ tục hành chính rắc rối, vô lý hơn là sự tự
do, tự nguyện ý chí của các bên.
Pháp luật đất đai chỉ thừa nhận “hợp đồng
thế chấp có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký
tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất”.
Như vậy, pháp luật chỉ công nhận hiệu lực của
giao dịch thế chấp khi đã được đăng ký thế
chấp, đồng thời chỉ thừa nhận quyền được ưu
tiên thanh toán theo thứ tự đăng ký thế chấp.
Như vậy là chỉ thừa nhận duy nhất hiệu lực
“hành chính” chứ không mảy may thừa nhận
hiệu lực “dân sự”. Những thoả thuận hoàn toàn
tự nguyện, chính đáng và hợp pháp của các bên
đều trở thành vô nghĩa. Pháp luật lại chỉ bảo vệ
người đăng ký thế chấp trước, bất chấp đó là
giao dịch rõ ràng bội ước, gian dối, lừa đảo.
Chẳng hạn, dù cho hai bên đã công chứng hợp
đồng thế chấp bất động sản, vì một lý do nào
đó mà bất động sản đó lại được mang đi thế
chấp cho người khác ngoài ý chí của bên nhận
thế chấp ban đầu, thì người nhận thế chấp đầu
tiên không đăng ký hoặc “chậm chân” đăng ký
thế chấp sau sẽ hoàn toàn không được bảo vệ.
Nếu như vậy, thì việc đồng thời bắt buộc phải
thực hiện thủ tục công chứng và thủ tục đăng
ký thế chấp bất động sản là một đòi hỏi phi lý,
“hành dân”, tiếp tay cho sự gian lận, lật lọng,
trốn tránh nghĩa vụ phát sinh trước.
Nếu pháp luật bắt buộc làm cả hai thủ tục
công chứng và đăng ký thế chấp, thì cần phải có
quy định về việc ưu tiên thanh toán cho người
nhận thế chấp trong trường hợp đã đăng ký thế
chấp trước hoặc đã công chứng giao dịch thế
chấp trước nếu đúng với ý chí, nguyện vọng
hợp lý của các bên liên quan. Không những
thế, trong trường hợp đã công chứng và đăng
ký giao dịch thế chấp theo đúng quy định bắt
buộc, thì giao dịch thế chấp cần phải có giá
trị pháp lý và thực tiễn cao hơn. Giao dịch thế
chấp sẽ được chuyển cho cơ quan thi hành
án để thi hành cam kết, mà không buộc phải
khởi kiện ra Toà án để xem xét công nhận hay
không công nhận giao dịch thế chấp như mọi
vụ án thông thường khác.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 169 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Những điều không thể về giao dịch bảo đảm, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
28 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(161) 122009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Biện pháp bảo đảm không thể là hợp đồng
bảo đảm
Có 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự theo quy định của Bộ luật Dân sự
năm 2005, bao gồm: Cầm cố tài sản, thế chấp
tài sản, đặt cọc, ký cược, ký quỹ, bảo lãnh và
tín chấp. Trừ biện pháp bảo lãnh và tín chấp sẽ
nói ở dưới đây, các biện pháp bảo đảm còn lại
đều phải trên cơ sở có tài sản xác định. Nhưng
không hiểu tại sao lại chỉ có cầm cố và thế
chấp được gán thêm đuôi “tài sản” (cầm cố tài
sản, thế chấp tài sản), còn đặt cọc, ký cược và
ký quỹ thì lại không đi liền với chữ “tài sản”.
Bảo đảm nghĩa vụ dân sự chỉ là một biện
pháp gắn liền với một hợp đồng, là một bộ
phận, một điều kiện, điều khoản của hợp đồng
chính. Tuy nhiên, các biện pháp bảo đảm được
định nghĩa là giao dịch bảo đảm và đã “đàng
hoàng” trở thành các “hợp đồng bảo đảm”
trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Trước đó, đầu
tiên là thuật ngữ “hợp đồng thế chấp quyền sử
dụng đất” xuất hiện trong Bộ luật Dân sự năm
1995. Tiếp đó là một loạt thuật ngữ “hợp đồng
cầm cố tài sản”, “hợp đồng thế chấp tài sản”
và “hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản” xuất hiện
trong Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày
19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch bảo
đảm. Tại thời điểm này, ngoài thuật ngữ “hợp
đồng thế chấp quyền sử dụng đất”, thì Bộ luật
Dân sự năm 1995 vẫn chưa sử dụng các thuật
ngữ “hợp đồng cầm cố”, “hợp đồng thế chấp”
và “hợp đồng bảo lãnh”, mà chỉ quy định việc
cầm cố, thế chấp, bảo lãnh “phải được lập
thành văn bản, có thể lập riêng hoặc ghi trong
hợp đồng chính”. Sau đó toàn bộ những thuật
ngữ “hợp đồng” này đã được ghi nhận trong
Bộ luật Dân sự năm 2005. Do pháp luật xác
định đó là những hợp đồng, nên đã nảy sinh
những hệ quả bất hợp lý. Chẳng hạn vướng
mắc khi chủ sở hữu là cá nhân thế chấp tài sản
thuộc quyền sở hữu của mình để cho doanh
nghiệp của chính họ vay vốn. Do coi giao dịch
này hoàn toàn như một hợp đồng, nên nhiều
tổ chức công chứng đã không cho một người
NHỮNG ĐIỀU KHÔNG THỂ
TRƯơNG THANH ĐứC *
Giao dịch dân sự theo nghĩa rộng bao gồm cả giao dịch kinh doanh, thương mại, là những hoạt động
tất yếu và phổ biến trong đời sống kinh tế, xã hội. Đồng hành với nó là sự rủi ro, vi phạm, bội ước và tranh
chấp. Giao dịch bảo đảm nhằm mục đích phòng ngừa và khắc phục những hạn chế đó. Tuy nhiên, pháp luật
về giao dịch bảo đảm theo quy định của Bộ luật Dân sự và các văn bản liên quan đã không phát huy được vai
trò cần thiết vì những điều rắc rối và bất cập.
* Luật sư, Chủ tịch Công ty Luật BASICO.
Số 24(161) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 29122009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
tham gia giao dịch thế chấp đồng thời ký với
hai tư cách là người thế chấp và người được
thế chấp, vì vướng câu chữ quy định tại khoản
5, Điều 144 (Phạm vi đại diện): “Người đại
diện không được xác lập, thực hiện các giao
dịch dân sự với chính mình hoặc với người thứ
ba mà mình cũng là người đại diện của người
đó”. Tuy nhiên, không cho một người ký với
hai tư cách, nhưng lại chấp nhận nếu họ uỷ
quyền cho người khác ký, trong khi về bản
chất vẫn chỉ là một. Hoặc vướng mắc khác là,
hợp đồng thế chấp mà bên thế chấp được chủ
sở hữu tài sản uỷ quyền ký bị hiểu là sẽ không
còn hiệu lực theo quy định tại Điều 589 (Chấm
dứt hợp đồng uỷ quyền) khi hết hạn hợp đồng
uỷ quyền, khi bên uỷ quyền hoặc bên được uỷ
quyền chết hoặc đơn phương chấm dứt hợp
đồng uỷ quyền. Pháp luật cần có những quy
định rõ ràng để bảo vệ quyền lợi cho bên có
quyền trong những giao dịch bảo đảm này.
Nghĩa vụ trong tương lai không thể là hợp
đồng trong tương lai
Khoản 2, Điều 319 của Bộ luật Dân sự năm
2005 quy định: “Các bên được thoả thuận về
các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự để bảo đảm thực hiện các loại nghĩa vụ, kể
cả nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai
hoặc nghĩa vụ có điều kiện”.
Nếu không có hợp đồng chính thì không bao
giờ có giao dịch bảo đảm. Điều đó có nghĩa là
giao dịch bảo đảm phải được hình thành trên
cơ sở đã có các hợp đồng dân sự, kinh doanh,
thương mại “Nghĩa vụ trong tương lai” nói
trên phải được hiểu là nghĩa vụ có đủ cơ sở
thực tế, đã được xác định trong một hợp đồng
xác định, chứ không thể là một nghĩa vụ chung
chung bất kỳ nào đó mới chỉ xuất hiện trong
ý tưởng hoặc mới chỉ được đề cập đến trong
chính văn bản thoả thuận về biện pháp bảo
đảm thực hiện hợp đồng.
Tuy nhiên, khoản 6 (Thời hạn nộp hồ sơ
đăng ký thế chấp), Mục I, Thông tư liên tịch số
05/2005/TTLT-BTP-BTNMT ngày 16/6/2005
của Bộ Tư pháp và Bộ Tài nguyên và Môi
trường Hướng dẫn việc đăng ký thế chấp
bằng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với
đất (đã được sửa đổi, bổ sung theo Thông tư
liên tịch số 03/2006/TTLT-BTP-BTNMT ngày
13/6/2006) đã công nhận việc nộp hồ đăng ký
thế chấp đối với cả trường hợp mà hợp đồng
thế chấp được ký kết trước Hợp đồng tín dụng.
Như vậy, thì đã cho phép thế chấp để bảo đảm
nghĩa vụ cho cả những nghĩa vụ trong tương
lai của các “hợp đồng trong tương lai” (chưa
ký hợp đồng chính). Đó là điều sai về nguyên
lý. Có thể bảo đảm cho nghĩa vụ trong tương
lai, nhưng nghĩa vụ đó đã phải được xác định
trong hợp đồng chính, chứ “phần phụ” của hợp
đồng không thể bảo đảm cho hợp đồng chính
khi nó chưa được hình thành và ký kết. Trong
lĩnh vực ngân hàng trước đây, các bên đã khắc
phục bài toán “gà và trứng” này bằng cách ký
hợp đồng tín dụng nguyên tắc, sau đó dựa vào
hợp đồng tín dụng nguyên tắc để ký hợp đồng
bảo đảm, cuối cùng là dựa vào hợp đồng bảo
đảm để ký và thực hiện hợp đồng tín dụng và
khế ước cụ thể.
Tài sản thế chấp không thể là tài sản hình
thành trong tương lai
Do việc lo ngại nguy cơ xảy ra vi phạm
nghĩa vụ trong hợp đồng, nên các bên phải đưa
ra những điều khoản ngăn ngừa và khắc phục
khi xảy ra vi phạm. Giao dịch bảo đảm chỉ có
ý nghĩa và cần thiết khi vi phạm đã thật sự xảy
ra. Khi đó thì bao nhiêu cam kết, ràng buộc
cũng trở lên vô nghĩa, nếu các bên không thiện
chí hoặc dù có thiện chí nhưng lại không có
khả năng khắc phục. Vì vậy, mới cần đến biện
pháp bảo đảm bằng tài sản và đòi hỏi phải có
tài sản hiện hữu thật sự. Chỉ có tài sản mới có
thể bảo đảm chắc chắn, kịp thời cho nghĩa vụ
tài sản.
Như vậy việc Bộ luật Dân sự cho phép thế
chấp tài sản hình thành trong tương lai, thậm
chí Điều 22, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
còn cho phép thế chấp cả quyền đòi nợ hình
thành trong tương lai, là điều không hợp lý. Có
thể mua bán cái chưa có, cũng tương tự như
việc ứng trước tiền để mua một thứ hàng hoá
hay hưởng một thứ dịch vụ nào đó, vì nghĩa vụ
giao hàng, nghĩa vụ thực hiện dịch vụ là phát
sinh trong tương lai. Nhưng không thể thế chấp
một thứ chưa có, chưa hình thành, vì nghĩa vụ
bảo đảm bằng tài sản phát sinh ngay sau khi
30 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(161) 122009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
thế chấp. Nghĩa vụ phát sinh đồng nghĩa với
việc không được phép trì hoãn. Có nghĩa là,
bên nhận bảo đảm có quyền được xử lý tài sản
để thực hiện nghĩa vụ ngay tại thời điểm đó.
Chủ sở hữu và người quản lý tài sản bảo đảm
đó có nghĩa vụ thực hiện vô điều kiện yêu cầu
xử lý tài sản thế chấp để bảo đảm quyền lợi
của bên nhận thế chấp. Nhưng nếu vẫn chưa
thấy “tăm hơi” tài sản đâu, thì lại đồng nghĩa
với việc bên thế chấp và các bên liên quan
đương nhiên được quyền “miễn trách”, được
phép kéo dài thời hạn thực hiện nghĩa vụ cho
đến khi tài sản đã được hình thành xong. Thời
hạn này có thể là nhiều năm. Thậm chí, nếu rơi
vào tình trạng chủ sở hữu và các bên liên quan
phải đầu tư công của cho việc hoàn thiện xong
tài sản chỉ vì lợi ích của bên nhận thế chấp, thì
thời hạn này có thể sẽ là vô hạn.
Điều 91 và 92 của Luật Nhà ở đã quy định
điều kiện thế chấp là phải có “Giấy chứng
nhận quyền sở hữu đối với nhà ở theo quy định
của pháp luật” và bên thế chấp phải là “chủ sở
hữu nhà ở”. Theo đúng những quy định này,
thì không thể thực hiện được việc thế chấp nhà
ở hình thành trong tương lai, và đó là điều hợp
lý. Việc Bộ luật Dân sự cho phép thế chấp tài
sản hình thành trong tương lai là điều nguy
hiểm về cả mặt pháp lý và thực tế.
Do việc chưa hiện hữu trên thực tế của loại
tài sản hình thành trong tương lai, thì chỉ nên
coi đó là một nguồn thu mà các bên có thể cam
kết dành cho việc thực hiện nghĩa vụ hoặc là
một nguồn tài sản mà các bên có thể cam kết
sẽ đưa vào thế chấp sau này. Dù thế nào cũng
không nên đồng nhất đó là tài sản bảo đảm. Chỉ
đến khi tài sản đã hình thành xong và có thể
lập tức mua bán, phát mại, chuyển đổi thành
tiền, thì mới nên “định danh” là tài sản bảo
đảm. Chẳng hạn, ngân hàng mở L/C để nhập
khẩu hàng hoá, thì không nên coi hàng hoá còn
ở nước khác, thậm chí hàng hoá chưa hề được
sản xuất, là tài sản thế chấp, mà chỉ nên coi đấy
là một nguồn thu khả thi có thể dùng để bảo
đảm cho nghĩa vụ trả nợ sau này. Chỉ nên coi
là tài sản thế chấp khi nhà nhập khẩu thực tế đã
nắm được hàng hoá trong tay và ngân hàng đã
có thể chi phối quản lý được hàng hoá đó.
Ngoài ra, cơ chế bắt buộc đăng ký giao dịch
thế chấp và ưu tiên thanh toán theo thứ tự đăng
ký thế chấp (không có ngoại lệ) cũng đã góp
phần vô hiệu hoá việc thế chấp tài sản hình
thành trong tương lai, trong các trường hợp
chưa đăng ký được giao dịch thế chấp ngay
sau khi phát sinh việc thế chấp. Theo quy định
của pháp luật, sau khi tài sản hình thành xong,
không phải ký lại hợp đồng thế chấp và đăng
ký lại thế chấp. Tuy nhiên, trên thực
tế, trong nhiều trường hợp, chỉ sau
khi ký lại hợp đồng thế chấp và đăng
ký lại giao dịch thế chấp, thì mới hợp
pháp hoá giao dịch bảo đảm đối với
tài sản hình thành trong tương lai.
Tín chấp không thể là một biện
pháp bảo đảm
Biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự mang tên “Tín chấp”
trong các Điều 318 và 372 của Bộ
luật Dân sự được quy định dành riêng cho
quan hệ của tổ chức chính trị - xã hội bảo đảm
cho thành viên của mình là các cá nhân, hộ gia
đình nghèo vay vốn của các tổ chức tín dụng.
Hình thức tín chấp được quy định một cách
rất cụ thể, chặt chẽ tại Điều 373 của Bộ luật
Dân sự như sau: “Việc cho vay có bảo đảm
bằng tín chấp phải được lập thành văn bản có
ghi rõ số tiền vay, mục đích vay, thời hạn vay,
lãi suất, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của
người vay, ngân hàng, tổ chức tín dụng cho
vay và tổ chức bảo đảm”. Quy định như vậy,
nhưng trách nhiệm bảo đảm về vật chất, về tài
sản của biện pháp bảo đảm này hoàn toàn bằng
Số 24(161) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 31122009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
không. Vậy thì cần loại bỏ khỏi Bộ luật Dân sự
một quy định không thuộc về quan hệ tài sản,
cũng không phải là quan hệ nhân thân phi tài
sản, mà là một loại quan hệ hoàn toàn mang
tính chính trị - xã hội, phi tài sản. Trước đây,
biện pháp phạt vi phạm được quy định là một
trong những biện pháp bảo đảm trong Bộ luật
Dân sự năm 1995, cũng đã bị loại ra khỏi các
biện pháp bảo đảm trong Bộ luật Dân sự hiện
hành. Một trong những lý do cơ bản là không
có gì về vật chất để bảo đảm cho việc thực hiện
nghĩa vụ về tài sản khi xảy ra vi phạm.
Trong Bộ luật Dân sự năm 1995 trước
đây, biện pháp bảo đảm bằng tín chấp được
coi là biện pháp bảo lãnh. Khi đó biện pháp
bảo lãnh được hiểu gồm hai loại là bảo đảm
bằng tài sản (cầm cố, thế chấp, cam kết khác)
của bên thứ ba và bảo đảm không bằng tài sản
(tín chấp) của bên thứ ba. Biện pháp tín chấp
đã được loại ra khỏi nhóm bảo lãnh trong Bộ
luật Dân sự năm 2005. Tuy nhiên, Bộ luật Dân
sự năm 2005 lại buộc người ta phải hiểu một
cách khá lắt léo rằng: Bảo lãnh vẫn là “bằng tài
sản”, chứ không phải là bảo lãnh bằng cam kết
“suông” như biện pháp tín chấp của tổ chức
chính trị - xã hội, nhưng đồng thời bảo lãnh lại
không gắn tiền với tài sản cụ thể, không bao
giờ kèm theo việc cầm cố, thế chấp tài sản như
trước đây. Nội dung này được thể hiện một
cách mập mờ, chỉ được hiểu gián tiếp thông
qua việc bỏ đi nghĩa vụ của bên bảo lãnh đã
được quy định trước đây tại Bộ luật Dân sự
năm 1995: “Người bảo lãnh chỉ được bảo lãnh
bằng tài sản thuộc sở hữu của mình hoặc bằng
việc thực hiện công việc”.
Một giao dịch bảo đảm không thể bắt buộc
nhiều thủ tục
Thế chấp bất động sản là biện pháp bảo đảm
chủ yếu và có giá trị thực tiễn cao nhất trong
các giao dịch dân sự. Tuy nhiên, hiện nay, để
nhận thế chấp nhà ở và đất ở, thì bên thế chấp
bắt buộc phải làm cả bốn công việc sau đây:
Thứ nhất: Phải công chứng hoặc chứng thực
hợp đồng thế chấp theo quy định của Luật Đất
đai và Luật Nhà ở;
Thứ hai: Phải đăng ký thế chấp với Văn
Ảnh S.T: Anh Vũ
32 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(161) 122009
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
phòng đăng ký quyền sử dụng đất theo quy
định của Luật Đất đai;
Thứ ba: Phải thông báo việc thế chấp cho
cơ quan quản lý nhà ở theo quy định của Nghị
định số 90/2006/NĐ-CP ngày 06/9/2006 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Luật Nhà ở;
Thứ tư: Phải giữ Giấy chứng nhận quyền
sở hữu nhà ở hoặc Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất theo quy định của Luật Nhà ở và Bộ
luật Dân sự.
Đặc biệt, thủ tục công chứng và đăng ký
thế chấp là hai thứ bắt buộc liên quan đến giá
trị pháp lý và hiệu lực của giao dịch thế chấp.
Khoản 3, Điều 323 của Bộ luật Dân sự về
Đăng ký giao dịch bảo đảm quy định: “Trường
hợp giao dịch bảo đảm được đăng ký theo quy
định của pháp luật thì giao dịch bảo đảm đó
có giá trị pháp lý đối với người thứ ba, kể từ
thời điểm đăng ký”. Tuy nhiên, trên thực tế từ
trước đến nay, quy định này vẫn hoàn toàn bị
hiểu là đăng ký giao dịch bảo đảm là bắt buộc
để có giá trị pháp lý đối với ngay chính hai bên
trong cuộc là bên bảo đảm và bên nhận bảo
đảm. Luật quy định như trên vẫn chưa đủ rõ,
chưa cụ thể để tạo ra một cách hiểu thống nhất,
chính xác. Trên thực tế, cả thủ tục công chứng
và đăng ký giao dịch thế chấp bất động sản vẫn
được các Toà án phán quyết là những điều kiện
bắt buộc có hiệu lực của giao dịch thế chấp.
Cơ chế đăng ký giao dịch bảo đảm là nhằm
tới việc bảo vệ quyền lợi cho người nhận thế
chấp trong trường hợp có nhiều người nhận thế
chấp hoặc có chủ thể khác có quyền đối với tài
sản thế chấp. Như vậy, đáng lẽ trong trường
hợp tài sản không có tranh chấp về quyền sở
hữu, không dùng để bảo đảm cho nghĩa vụ nào
khác, thì đương nhiên bên nhận thế chấp là
người có quyền duy nhất. Tuy nhiên, thực tế
họ sẽ bị Toà án “xổ toẹt” quyền của chủ nợ có
bảo đảm. Như vậy, mặc dù là giao dịch dân sự,
nhưng pháp luật lại coi trọng những quy định,
thủ tục hành chính rắc rối, vô lý hơn là sự tự
do, tự nguyện ý chí của các bên.
Pháp luật đất đai chỉ thừa nhận “hợp đồng
thế chấp có hiệu lực kể từ thời điểm đăng ký
tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất”.
Như vậy, pháp luật chỉ công nhận hiệu lực của
giao dịch thế chấp khi đã được đăng ký thế
chấp, đồng thời chỉ thừa nhận quyền được ưu
tiên thanh toán theo thứ tự đăng ký thế chấp.
Như vậy là chỉ thừa nhận duy nhất hiệu lực
“hành chính” chứ không mảy may thừa nhận
hiệu lực “dân sự”. Những thoả thuận hoàn toàn
tự nguyện, chính đáng và hợp pháp của các bên
đều trở thành vô nghĩa. Pháp luật lại chỉ bảo vệ
người đăng ký thế chấp trước, bất chấp đó là
giao dịch rõ ràng bội ước, gian dối, lừa đảo.
Chẳng hạn, dù cho hai bên đã công chứng hợp
đồng thế chấp bất động sản, vì một lý do nào
đó mà bất động sản đó lại được mang đi thế
chấp cho người khác ngoài ý chí của bên nhận
thế chấp ban đầu, thì người nhận thế chấp đầu
tiên không đăng ký hoặc “chậm chân” đăng ký
thế chấp sau sẽ hoàn toàn không được bảo vệ.
Nếu như vậy, thì việc đồng thời bắt buộc phải
thực hiện thủ tục công chứng và thủ tục đăng
ký thế chấp bất động sản là một đòi hỏi phi lý,
“hành dân”, tiếp tay cho sự gian lận, lật lọng,
trốn tránh nghĩa vụ phát sinh trước.
Nếu pháp luật bắt buộc làm cả hai thủ tục
công chứng và đăng ký thế chấp, thì cần phải có
quy định về việc ưu tiên thanh toán cho người
nhận thế chấp trong trường hợp đã đăng ký thế
chấp trước hoặc đã công chứng giao dịch thế
chấp trước nếu đúng với ý chí, nguyện vọng
hợp lý của các bên liên quan. Không những
thế, trong trường hợp đã công chứng và đăng
ký giao dịch thế chấp theo đúng quy định bắt
buộc, thì giao dịch thế chấp cần phải có giá
trị pháp lý và thực tiễn cao hơn. Giao dịch thế
chấp sẽ được chuyển cho cơ quan thi hành
án để thi hành cam kết, mà không buộc phải
khởi kiện ra Toà án để xem xét công nhận hay
không công nhận giao dịch thế chấp như mọi
vụ án thông thường khác.
Ngoài ra, pháp luật cũng cần có quy định
cụ thể nhằm bảo vệ tốt hơn cho người nhận
bảo đảm trong một số trường hợp như tài sản
đã đưa vào thế chấp, nhưng lại bị đem ra chia
tài sản theo thừa kế, khi ly hôn hay theo thoả
thuận của các bên.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhung_dieu_khong_the_ve_giao_dich_bao_dam.pdf