Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU trong những năm tới

Lợi thế cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam nay đã giảm đi rất nhiều vì chi phí tàu thuyền ngày càng cao, giá lao động cũng tăng lên nhiều trong khi máy móc thiết bị cho đánh bắt và chế biến trong tình trạng quá lạc hậu so với trình độ chung. Vì vậy, để tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất, chế biến hàng thủy sản xuất khẩu, Nhà nước cần ban hành chính sách thuế thỏa đáng. Việc Nhà nước không đánh thuế xuất khẩu hàng thủy sản từ ngày 15/02/1998 có ý nghĩa rất tích cực để giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản có thể tăng cường năng lực cạnh tranh về giá cả xuất khẩu. Đối với nguyên liệu, vật tư nhập khẩu phục vụ cho chế biến xuất khẩu, Nhà nước nên áp dụng chính sách hoàn trả 100% thuế nhập khẩu. Chế độ miễn giảm thuế tài nguyên, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, phí giao thông đường bộ trong giá xăng dầu. đối với các doanh nghiệp khai thác thủy- hải sản cũng cần được thay đổi theo hướng có lợi hơn cho các doanh nghiệp. Nhà nước nên khuyến khích việc đầu tư đổi mới trang thiết bị cho chế biến hàng thủy sản xuất khẩu thông qua quy định về thuế nhập khẩu hay phương pháp tính khấu hao hợp lý để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị .

doc58 trang | Chia sẻ: thanhnguyen | Lượt xem: 1986 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU trong những năm tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được EU công nhận đủ tiêu chuẩn hàng thủy sản vào thị trường của họ. Các doanh nghiệp này đã phải nâng cấp điều kiện sản xuất bao gồm: nhà xưởng, dây chuyền công nghệ, các trang thiết bị đi kèm; áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn GMP (Giấy chứng nhận về tập quán sản xuất tốt áp dụng từ tháng 7/1997) và HACCP (Hệ thống quản lý an toàn thực phẩm, tập trung vào việc phòng ngừa các mối nguy hại đã biết và nguy cơ xảy ra chúng ở một số điểm đặc biệt trên dây chuyền sản xuất thực phẩm). Hiện nay, không chỉ thị trường Mỹ mà EU cũng chỉ chấp nhận mua sản phẩm từ những cơ sở chế biến có áp dụng HACCP. Áp dụng GMP và HACCP có nghĩa là thực hiện an toàn vệ sinh thủy sản từ nuôi trồng-đánh bắt-chế biến, để cho ra sản phẩm đạt các chỉ tiêu đặc trưng cho chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm. Hiện nay, EU đánh giá chất lượng sản phẩm thủy sản theo 3 chỉ tiêu sau: -Chỉ tiêu cảm quan: trạng thái tự nhiên, mùi vị, màu sắc của sản phẩm. -Chỉ tiêu hóa học: qui định hàm lượng Nitơ dưới dạng Amôniắc, độ pH trong một gam sản phẩm. -Chỉ tiêu vi sinh: qui định loại, lượng khuẩn có trong sản phẩm như khuẩn hóa khí, khuẩn hiếm khí, khuẩn Ecôli, Coliforime... Trong thời gian vừa qua, Bộ Thủy sản đã xây dựng và ban hành hàng loạt tiêu chuẩn trong quản lý chất lượng, đó là tiêu chuẩn về Cơ sở chế biến thủy sản, về Chương trình quản lý chất lượng và an toàn thực phẩm theo HACCP và các tiêu chuẩn đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong các cơ sở sản xuất kinh doanh. Với sự cố gắng và nỗ lực không ngừng của ngành thủy sản trong việc vệ sinh an toàn thủy sản cho xuất khẩu, ngày 20/10/1999, Ủy ban Thú y thường trực của EU đã bỏ phiếu nhất trí đưa Việt Nam vào danh sách 1 được phép xuất khẩu vào EU ở cấp liên minh và ngày 16/11/1999, Cộng đồng Châu Âu (EC) đã phê chuẩn 18/33 doanh nghiệp nói trên được xuất khẩu ở cấp liên minh vào EU. Tính đến nay cả nước có 60 cơ sở áp dụng HACCP và 33 cơ sở đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào EU. Tuy nhiên, số doanh nghiệp này vẫn còn quá ít, nếu muốn đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản đòi hỏi các doanh nghiệp phải đầu tư, đổi mới theo tiêu chuẩn chất lượng GMP và HACCP, đảm bảo vệ sinh an toàn thủy sản xuất khẩu. Bên cạnh những việc làm được, công tác quản lý chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản còn nhiều tồn tại: Hệ thống văn bản pháp qui của Nhà nước, của Bộ chưa đầy đủ, đồng bộ và còn chồng chéo; tổ chức quản lý Nhà nước về chất lượng chưa hoàn chỉnh, đặc biệt ở các địa phương; việc quản lý điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm thủy sản chưa được thực hiện ở các công đoạn: nuôi trồng, đánh bắt, thu hoạch, vận chuyển và các khâu khác của dây chuyền sản xuất thủy sản... IV. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN SANG EU TRONG NHỮNG NĂM QUA 1. Những thành tựu đạt được Việt Nam hiện là nước thứ 29 trên thế giới, đứng thứ 4 trong khối ASEAN về xuất khẩu thủy sản và mặt hàng thủy sản của Việt Nam hiện đã xuất khẩu được sang hơn 50 nước và khu vực. Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường EU trong những năm qua đã đạt được những thành tựu rất quan trọng, cụ thể là : Kim ngạch xuất khẩu thủy sản không ngừng tăng lên qua các năm, từ mức chỉ chiếm tỷ trọng dưới 10% trong tổng giá trị xuất khẩu thủy sản (năm 1997) thì nay tỷ trọng này đã tăng lên rất đáng kể (11,3% vào năm 1998). Thủy sản của Việt Nam đã và đang được ưa chuộng ở khắp các thị trường, trong đó có EU. Thủy sản Việt Nam đã khẳng định được vị trí của mình trên thị trường này ngày một mạnh mẽ, trở nên quen thuộc đối với người tiêu dùng EU. Thị phần xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào EU đã tăng lên rất đáng kể, từ mức 11% năm 1997 lên 18% năm 1998 trong tổng kim ngạch xuất khẩu. EU luôn là một trong 3 thị trường hàng đầu của thủy sản Việt Nam, luôn đứng vị trí thứ 2 sau Nhật Bản trong việc nhập khẩu thủy sản Việt Nam trong những năm qua. Các sản phẩm thủy sản của Việt Nam như: tôm, nhuyễn thể chân đầu, cá đáy, cá nước ngọt thịt trắng ít xương; các sản phẩm truyền thống như: nước mắm, bánh phồng tôm, cua, ghẹ, tôm và đặc biệt là tôm sú đã đang và sẽ có sức cạnh tranh rất cao trong EU trong thời gian tới. Xuất khẩu thủy sản sang EU nói riêng hay ra các thị trường trên thế giới trong những năm qua đã đóng góp không nhỏ trong việc tăng thu ngoại tệ cho đất nước, phục vụ công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời xuất khẩu thủy sản nói chung đã góp phần giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, góp phần xóa đói giảm nghèo, ổn định đời sống cho nhiều vùng nông thôn ven biển. Đã đạt được sự ưu đãi về thuế của EU: theo qui chế mới của EU bắt đầu từ tháng 7/1999 đến tháng 12/2000 thì hàng thủy sản đông lạnh của Việt Nam thuộc nhóm hàng khuyến khích nhập khẩu nên sẽ được hưởng mức thuế bằng 35% mức thuế Tối huệ quốc. Ủy ban Thú y thường trực của EU đã bỏ phiếu nhất trí đưa Việt Nam vào danh sách 1(ngày 20/10/1999) được phép xuất khẩu thủy sản vào EU ở cấp liên minh và ngày 16/11/1999 EU đã chấp thuận 18/33 doanh nghiệp đã kiểm tra đủ điều kiện. Cũng theo quyết định này, tổ chức của Việt Nam có thẩm quyền trong việc chứng nhận chất lượng, điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản là Trung tâm kiểm tra chất lượng và vệ sinh thủy sản (NAFIQACEN). Điều này khẳng định uy tín của các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam, uy tín về chất lượng của các mặt hàng thủy sản và uy tín của NAFIQACEN trên trường quốc tế. Đến nay, Việt Nam đang có 29 doanh nghiệp được phép xuất khẩu thủy sản vào EU. Các doanh nghiệp còn lại muốn xuất khẩu sang EU, không còn con đường nào khác ngoài việc phải thực hiện nghiêm ngặt các yêu cầu về an toàn vệ sinh theo tiêu chuẩn của EU. Ngày 10/5/2000, Ủy ban Châu Âu đã ra quyết định cho phép Việt Nam xuất khẩu nhuyễn thể hai mảnh vỏ, loài da gai, loài có vỏ và chân bụng biển từ Việt Nam. Việc được vào nhóm 1 các nước xuất khẩu nhuyễn thể sang EU sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam. Được sự hỗ trợ của dự án SEAQIP nhằm giúp đỡ các nhà máy thủy sản đông lạnh đạt tiêu chuẩn HACCP là giấy thông hành vào EU. Việt Nam đã mở gian hàng thủy sản đầu tiên tại Hội chợ thủy sản quốc tế Bruc-xen với sự tham gia của 11 doanh nghiệp. Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam mặc dù mới thành lập nhưng đã có đóng góp tích cực trong việc mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường thế giới. Nhiều nhà máy chế biến thủy sản đã đầu tư theo chiều sâu, nâng cấp điều kiện sản xuất, thực hiện quản lý chất lượng theo HACCP, nên hiện nay đã có 60 cơ sở áp dụng HACCP và 33 cơ sở chế biến đủ tiêu chuẩn xuất khẩu vào EU. Những khó khăn, tồn tại cần khắc phục Bên cạnh những thành tựu to lớn mà xuất khẩu thủy sản sang EU đạt được trong những năm qua, không phải là tất cả đều thuận lợi, vẫn còn những khó khăn, những vướng mắc đang tồn tại đòi hỏi được khắc phục càng sớm càng tốt, cụ thể là: Hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu sang EU phần lớn là thông qua các công ty của ASEAN như Singapore, Thái lan và Hồng Kông. Chủng loại sản phẩm thủy sản xuất khẩu chủ yếu là tôm, mực đông lạnh sơ chế, tỷ lệ sản phẩm có giá trị cao gia tăng thấp chủ yếu là xuất nguyên liệu. Cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu vào EU cũng như vào các thị trường khác có sự mất cân đối (hơn 90% là dạng sản phẩm tươi, ướp đông, đông lạnh). Điều này làm mất lợi thế cạnh tranh của thủy sản nước ta, cũng như sự yếu kém của công nghệ chế biến thủy sản. Giá cả sản phẩm xuất khẩu nhìn chung là thấp (chỉ bằng khoảng 70% mức giá sản phẩm cùng loại của Thái Lan và Inđônêxia) nhưng vẫn không cạnh tranh nổi với hàng của các nước xuất khẩu khác. Số lượng doanh nghiệp được xuất khẩu thủy sản sang EU và số doanh nghiệp thực hiện theo tiêu chuẩn GMP và HACCP còn quá ít.Vẫn còn hàng trăm doanh nghiệp chưa đổi mới được công nghệ, cải thiện điều kiện sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm, chưa được các đoàn thanh tra của Châu Âu chấp nhận. Nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản vẫn còn biết rất ít thông tin về thị trường EU. Nhiều doanh nghiệp chế biến không có khả năng tài chính để thay đổi công nghệ và các điều kiện tiêu chuẩn theo GMP và HACCP, để có thể chế biến sản phẩm thủy sản xuất khẩu sang EU. Giữa các doanh nghiệp xuất khẩu đã không có được sự cạnh tranh lành mạnh, làm suy yếu sức cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam khi sang thị trường EU nói riêng, cũng như sang tất cả các thị trường khác. Nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu còn bị thiếu trầm trọng, các nhà máy chế biến mới chỉ sử dụng hết 60-70% công suất, nguồn nguyên liệu phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, do đó ảnh hưởng đến sản phẩm chế biến cho xuất khẩu. Hàng thủy sản của Việt Nam vào EU, bên cạnh những yêu cầu về tiêu chuẩn chất lượng, vệ sinh thực phẩm, mã số nhập khẩu (Code)..., thuế nhập khẩu hàng thủy sản của Việt Nam vào EU còn cao hơn một số nước. Thuế suất EU đang áp dụng cho Việt Nam là 6%, trong khi đó Bănglađét là 0% và Ấn Độ chỉ khoảng 3%. Điều này đã làm giảm sức cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam trong thị trường EU. Trình độ khoa học công nghệ và cơ sở hạ tầng yếu kém, thiếu kinh nghiệm trong quản lý khiến cho lợi thế so sánh trong xuất khẩu thủy sản không đạt được hiệu quả mong muốn vì quá thấp. Cơ sở hạ tầng nghề cá còn yếu kém nên không đáp ứng được nhu cầu tổ chức bảo quản sau thu hoạch, số lượng tàu thuyền nhỏ dưới 90 CV còn chiếm tỷ trọng cao từ 65-70%. Mối quan hệ hữu cơ giữa khai thác, nuôi trồng, chế biến và tiêu thụ chưa được liên kết chặt chẽ để tạo một chiến lược sản phẩm xuyên suốt qua tất các khâu. Các doanh nghiệp chế biến chưa coi việc góp phần thúc đẩy sản xuất nguyên liệu là trách nhiệm của mình. Chưa có được một kế hoạch và chương trình tổng thể xúc tiến hàng thủy sản Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt là ở EU. CHƯƠNG III những giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản của việt nam sang eu trong những năm tới CHỦ TRƯƠNG, ĐƯỜNG LỐI CỦA NHÀ NƯỚC VỀ HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN TRONG NHỮNG NĂM TỚI 1.Những quan điểm và định hướng phát triển xuất khẩu thủy sản 1.1. Quan điểm Thực hiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nghề cá với môi trường kinh tế mở, tích cực và chủ động trong xu thế hòa nhập quốc tế, lấy xuất khẩu thủy sản là mũi nhọn, tiếp tục chuyển đổi cơ cấu nghiêng về xuất khẩu, vừa khai thác tiềm năng nguồn lợi có hiệu quả, vừa quản lý bảo vệ môi trường, phát triển tái tạo nguồn lợi để duy trì tốc độ tăng trưởng cao của kinh tế thủy sản, tạo khả năng tích lũy nhanh chóng trong nội bộ ngành, đồng thời đóng góp ngày càng nhiều hơn cho nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế thủy sản theo tuyến, theo vùng sinh thái nhằm phát huy lợi thế đặc thù, tạo thành hệ thống liên hoàn giữa các khâu khai thác-nuôi trồng-chế biến-tiêu thụ- cơ khí hậu cần dịch vụ, với sự phối hợp liên ngành, giữa kinh tế Trung ương với kinh tế địa phương theo một quy hoạch thống nhất, bảo đảm phát triển ổn định, bền vững. Huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước, mọi thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước cùng kinh tế tập thể giữ vai trò nền tảng. Khuyến khích các chủ vựa, chủ thuyền, chủ trang trại, chủ hộ mạnh dạn bỏ vốn đầu tư sản xuất kinh doanh nghề cá, đưa nghề cá nhân dân phát triển trên cơ sở một nền công nghệ tiên tiến, hiện đại. Phát triển kinh tế thủy sản gắn liền với xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng và giải quyết các vấn đề xã hội nông thôn ven biển, hải đảo, tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập, nâng cao đời sống nhân dân, năng cao dân trí, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, giữ vững trật tự xã hội, xây dựng các làng cá văn minh, giàu đẹp. Phát triển kinh tế- xã hội thủy sản gắn kết với yêu cầu an ninh và quốc phòng kết hợp với các chương trình phát triển kinh tế biển và hải đảo; tạo ra những cơ sở hậu cần dịch vụ thuận lợi cho nhân dân sản xuất an toàn, phòng tránh thiên tai. Không ngừng tăng phần đóng góp của ngành thủy sản vào công cuộc phát triển kinh tế xã hội đất nước. Tăng cường khả năng thu ngoại tệ cho đất nước, đáp ứng ngày càng nhiều mặt hàng thủy sản phong phú cho nhu cầu thủy sản nội địa góp phần đảm bảo an toàn thực phẩm. 1.2. Các định hướng cho từng lĩnh vực Hợp lý hóa khai thác thủy sản, bao gồm phát triển có hiệu quả khai thác hải sản xa bờ và điều chỉnh hợp lý nghề cá ven bờ; vừa khai thác, vừa bảo vệ, phát triển và tái tạo nguồn lợi, đảm bảo phát triển nghề cá ổn định, bền vững. Mở rộng hợp tác với nước ngoài để du nhập công nghệ mới, thúc đẩy khai thác hải sản xa bờ và tiến tới nghề cá viễn dương. Xây dựng đồng bộ ngành công nghiệp khai thác hải sản (đội tàu, bến, cảng cá, cơ khí đóng, sửa chữa tàu thuyền, dệt lưới, dịch vụ hậu cần an toàn trên biển...), trong mối quan hệ thống nhất với các lĩnh vực khác, các ngành nghề khác. Đẩy mạnh nuôi trồng thủy sản là một hướng phát triển chiến lược; tạo ra bước ngoặt lớn trong lĩnh vực nuôi trồng, đặc biệt là nuôi biển. Xây dựng các vùng nuôi công nghiệp tập trung ở những vùng điều kiện sinh thái cho phép; đồng thời mở rộng diện tích mặt nước nuôi trồng thủy sản ở các vùng eo, vụng, vịnh ven biển, các vùng còn hoang hóa, vùng sâu, vùng xa, ruộng trũng... Tập trung mọi lực lượng nghiên cứu và du nhập công nghệ mới tạo được bộ giống nuôi thủy sản có chất lượng cao. Phát triển công nghiệp chế biến theo hướng chiến lược sản phẩm và định hướng thị trường, gia tăng giá trị thương mại. Khai thác và sử dụng tối ưu nguồn nguyên liệu (kể cả nguyên liệu nhập khẩu), hết sức coi trọng công nghệ bảo quản sau thu hoạch. Quy hoạch lại và nâng cấp hệ thống các nhà máy chế biến thủy sản. Đầu tư nghiên cứu và phát triển mặt hàng mới. Tăng cường và hoàn thiện hệ thống kiểm tra chất lượng và vệ sinh thủy sản. Đẩy mạnh chế biến, kinh doanh và chú trọng nâng cao chất lượng, đa dạng hóa các mặt hàng thủy sản tiêu thụ nội địa phục vụ nhân dân, nhất là các vùng sâu, vùng xa. Phát triển lĩnh vực cơ khí hậu cần dịch vụ nghề cá theo hướng vừa đầu tư củng cố nâng cấp, kết hợp chặt chẽ với việc chuyển đổi quản lý các cơ sở hiện có, vừa xây dựng các cơ sở mới hiện đại, bảo đảm đủ năng lực phục vụ hiệu quả cho đánh bắt, nuôi trồng, chế biến, thương mại thủy sản... trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Củng cố hệ thống đóng sửa tàu cá và các dịch vụ cơ khí hàng hải, lưới cụ cho tàu cá. Xây dựng cơ sở hạ tầng cầu cảng, bến cá, chợ cá gắn liền với phát triển nông thôn, làng cá. Bảng 7: Các chỉ tiêu quy hoạch cơ bản đến 2010 Chỉ tiêu 1995 2000 2005 2010 GDP (100 tỷ VND) 6.664 12,6 28,8 57,6 Tổng sản lượng thủy sản (1000 tấn) 1.414,590 (459,95) 1.600 (600) 1.900 (800) 2400 (1.200) Bình quân thủy sản tiêu thụ nội địa (kg/người/năm) 13,5 14 14,5 16 Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) 550 1.100 1.800 2700-3000 Nguồn: Bộ Thủy sản Ghi chú: Số liệu trong ngoặc chỉ sản lượng nuôi trồng thủy sản 2. Mục tiêu và nhiệm vụ phát triển xuất khẩu thủy sản Mục tiêu -Đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành thủy sản, đưa kim ngạch xuất khẩu thủy sản tăng nhanh, đạt 1,1 tỷ USD vào năm 2000, 2 tỷ USD vào năm 2005 và 3 tỷ USD vào năm 2010; đưa kinh tế thủy sản phát triển thành ngành mũi nhọn trong nền kinh tế đát nước, tạo thêm nhiều việc làm, góp phần nâng cao đời sống nhân dân, cải thiện bộ mặt nông thôn và vùng ven biển, đồng thời góp phần giải quyết các vấn đề về môi trường sinh thái. -Gắn chế biến, xuất khẩu thủy sản với nuôi trồng, khai thác, bảo quản nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm, tạo cơ sở vững chắc cho sản xuất và khai thác có hiệu quả tiềm năng thủy sản, nâng cao chất lượng, giảm giá thành, tăng tích lũy để tái sản xuất mở rộng, nâng cao khả năng cạnh tranh, giữ vững và phát triển thị trường tiêu thụ hàng thủy sản Việt Nam. 2.2. Nhiệm vụ đối với từng lĩnh vực Khai thác hải sản Về cơ cấu sản lượng khai thác Trong giai đoạn 1995-2000, giảm sản lượng khai thác hải sản gần bờ 5% so với năm 1995, trung bình giảm 1%/ năm. Sau đó ổn định sản lượng khai thác hải sản gần bờ đến năm 2010 (700.000 tấn/ năm). Tăng sản lượng khai thác hải sản xa bờ 9%/ năm cho cả giai đoạn 1995-2010, tốc độ tăng gấp hơn 2 lần so với giai đoạn 1985-1995 (4,1%/ năm). Giai đoạn 1995-2000 tốc độ tăng 15,3%/ năm (sản lượng từ 186.000 tấn/ năm lên 300.000 tấn/ năm); giai đoạn 2000-2005 tăng 6,7%/ năm (từ 300.000 tấn/ năm lên 400.000 tấn/ năm); giai đoạn 2005-2010 tăng 5%/ năm (từ 400.000 tấn/ năm lên 500.000 tấn/ năm), như vậy sản lượng hải sản xa bờ chiếm 42% trong tổng sản lượng khai thác hải sản vào năm 2010. Bảng 8: Chỉ tiêu quy hoạch các lĩnh vực khai thác hải sản đến năm 2010 Chỉ tiêu Số liệu 1995 Năm 2000 Năm 2005 Năm 2010 NL NK Tổng NL NK Tổng NL NK Tổng Số lượng tàu cá (1000 chiếc) 68(64,4 tàu nhỏ và 3,4 tàu lớn) 62 4,2 66,2 56 4,8 60,8 50 5,4 55,4 Công suất đánh bắt (1000 tấn) 1500 1000 455 1455 1000 600 1600 1000 750 1750 Sản lượng đánh bắt (1000 tấn) 943,435 700 300 1000 700 400 1100 700 500 1200 Lao động (người) 446,615 434 50,4 484,4 392 57,6 449,6 350 64,8 414,8 Nguồn: Bộ Thủy sản Ghi chú: NL: nghề lộng, NK: nghề khơi Về cơ cấu nghề Đối với vùng nước gần bờ: Sắp xếp lại cơ cấu nghề nghiệp theo hướng phù hợp với nguồn lợi. Đối với vùng nước xa bờ: Phát huy nghề truyền thống kết hợp vận dụng các nghề khơi phù hợp của nước ngoài để khai thác nguồn lợi vùng khơi. Loại bỏ các nghề mang tính hủy diệt môi trường nguồn lợi như: đánh mìn, dùng hóa chất độc, xung điện. Về tổ chức sản xuất Tiến hành cổ phần hóa các quốc doanh khai thác hải sản để nâng cao hiệu quả kinh tế. Phát triển nhanh các loại hình công ty tư nhân, các hợp tác xã, tập đoàn đánh cá theo các đơn vị thuyền nghề, trên cơ sở tự nguyện. Mở rộng sự hợp tác quốc tế trong khai thác viễn dương. Các dịch vụ hỗ trợ Hoàn thiện các công trình xây dựng bến, cảng cá nhất là ở tuyến đảo, tạo ra hệ thống đồng bộ các cơ sở hạ tầng hậu cần dịch vụ từ ven bờ đến các đảo lớn, các đảo tiền tiêu để phục vụ cho khai thác khơi, phòng tránh bão, bảo vệ an ninh quốc phòng. Xây dựng các trục giao thông nối liền cảng, bến cá với các thị xã, thành phố. Xây dựng các chợ cá ngay tại bến cảng. Phát triển các hình thức tín dụng, hỗ trợ nguồn vốn cho ngư dân khi thác xa bờ. 2.2.2. Nuôi trồng thủy sản Nuôi thủy sản nước ngọt Nuôi cá ao hồ nhỏ: Theo mô hình VAC với hình thức nuôi bán thâm canh, thâm canh, nuôi xen ghép. Đối tượng nuôi là các loài: mè, trắm, trôi, rô phi và các loài đặc sản: baba, lươn, ếch... Năng suất bình quân từng vùng khác nhau, đồng bằng sông Hồng: 3 tấn/ ha; đồng bằng sông Cửu Long: 10 tấn/ ha; trung du miền núi: 2 tấn/ ha. Nuôi cá ruộng trũng: Phát triển nuôi cá ruộng trũng kết hợp với nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị trên 1 ha canh tác. Tiếp tục gia tăng sử dụng diện tích mặt nước tiềm năng để nuôi đến năm 2010, dự kiến diện tích nuôi là 310.000 ha và sản lượng là 465.000 tấn, chiếm 38% tổng sản lượng nuôi trồng thủy sản. Năng suất bình quân đạt 1,5 tấn/ ha. Đối tượng nuôi: ngoài các đối tượng nuôi truyền thống ở từng vùng, chú ý nuôi các đối tượng có giá trị cao như: chép lai, tôm càng xanh, rô phi... Nuôi mặt nước lớn: Diện tích mặt nước lớn đưa vào nuôi thủy sản sẽ được tăng nhanh. Đến năm 2010, dự kiến diện tích đạt 190.000 ha; sản lượng tương ứng là 180.000 tấn, năng suất bình quân: 0,09 tấn/ ha. Điều quan trọng đối với nghề cá hồ chứa là gắn nuôi cá với phát triển kinh tế-xã hội của cộng đồng dân cư ven hồ, tạo ra cơ cấu sản xuất mới trên vùng trung du, miền núi, góp phần vào chương trình xóa đói giảm nghèo vùng sâu, vùng xa. Nuôi thủy sản lồng bè trên vùng nước ngọt: Tiếp tục phát triển nghề nuôi cá lồng bè trên các sông, hồ chứa nước. Dự kiến tổng số lồng bè năm 2010 sẽ là 39.000 lồng, đạt sản lượng 77.000 tấn. Lựa chọn các đối tượng nuôi có giá trị cao như: bống tượng, lóc bông, basa, trắm cỏ... và chú ý đến khâu phòng trị bệnh và thị trường tiêu thụ. Nuôi trồng thủy sản nước lợ Diện tích nuôi trồng sẽ tăng không đáng kể, tuy có một số vùng có khả năng tăng thêm, nhưng nhiều vùng phải điều chỉnh lại diện tích đã nuôi cho phù hợp với điều kiện cân bằng sinh thái nhất là vùng rừng ngập mặn ở Cà Mau, Bạc Liêu có thể giảm bớt 30.000-40.000 ha. Dự báo đến năm 2010, diện tích nuôi nước lợ sẽ là 280.000 ha, đạt sản lượng 189.000-259.000 tấn, năng suất bình quân là 0,65-0,93 tấn/ ha. Đối tượng nuôi chủ yếu là tôm, cua, rong câu, một số loài cá thị trường có nhu cầu. -Đối với các vùng đã khoanh nuôi: Theo các dự án 327 và 773 cần tổng kết đánh giá cả về kỹ thuật lẫn hiệu quả kinh tế-xã hội để điều chỉnh hợp lý, đầu tư nâng cấp có chọn lọc, đưa năng suất bình quân nuôi tôm lên 1-2 tấn/ ha/ năm. -Đối với các vùng đầm, phá: Cần hạn chế khoanh nuôi xung quanh ven bờ, có thể tăng thêm nuôi lồng, phân chia mặt nước hợp lý cho cộng đồng ngư dân sống ven đầm, phá để bảo vệ và tái tạo nguồn lợi. -Vùng rừng ngập mặn: Điều chỉnh lại diện tích nuôi hợp lý để kết hợp hài hòa giữa trồng, bảo vệ rừng ngập mặn-nuôi tôm-với quyền lợi của cộng đồng ngư dân tại đó. -Vùng cao triều: Áp dụng hình thức nuôi công nghiệp để đạt năng suất 4-5 tấn/ ha/ năm với đối tượng nuôi chủ yếu là tôm sú. Nuôi nước mặn (nuôi biển) Nuôi biển sẽ là hướng phát triển đột phá trong nuôi trồng thủy sản nói riêng và phát triển kinh tế thủy sản nói chung. Tổ chức rộng rãi việc nuôi cá biển có giá trị xuất khẩu cao như: song, hồng, vược, bống, giò... bằng phương thức nuôi lồng bè và nuôi cao triều để có sản lượng cá biển nuôi từ 4000-5000 tấn vào năm 2000 và 8000-10000 tấn vào năm 2005; đưa nhanh việc nuôi các loài thủy đặc sản có giá trị xuất khẩu cao, chủ yếu là nhuyễn thể hai mảnh vỏ như: nghêu, ngao, sò lông, điệp, bào ngư, trai... các vùng ven biển, để có sản lượng nhuyễn thể hai mảnh vỏ nuôi đạt 100.000 tấn vào năm 2000 và 150.000 tấn vào năm 2005. Về sản xuất giống Tập trung đầu tư các cơ sở sản xuất tôm giống tại Nam Trung Bộ để đảm bảo cung ứng 80% nhu cầu tôm sú bột P15 cho cả nước. Nâng cấp hệ thống giống quốc gia để có thể cho đẻ nhân tạo được một số giống thủy sản mới và thuần hóa giống nhập nội. Giải quyết đồng bộ các khâu: tạo đàn bố mẹ thuần thục-sinh sản tôm bột-ươm nuôi thành giống nhất là bộ giống cho nuôi biển và nuôi nước lợ; với một quy trình hoàn chỉnh từ kỹ thuật, thức ăn, kiểm soát dịch bệnh, chất lượng và cung ứng giống đến đầm nuôi. Về sản xuất thức ăn Xây dựng cơ sở sản xuất thức ăn nuôi thủy sản đến năm 2010 đạt sản lượng là 275.000-383.000 tấn/ năm. Về phòng và chữa bệnh -Quy hoạch lại các vùng nuôi thủy sản phù hợp với môi trường sinh thái. -Tiến hành kiểm tra chặt chẽ giống nhập nội, giống trước khi thả xuống ao đầm nuôi. -Xây dựng hệ thống quan trắc kiểm soát dự báo môi trường và nguy cơ gây bệnh cho tôm, cá ở các vùng nuôi trồng thủy sản. Các giải pháp hỗ trợ Nhà nước hỗ trợ cho nuôi trồng thủy sản thông qua các hoạt động như: xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình thủy lợi, dịch vụ khuyến ngư, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, thông tin hướng dẫn tiếp thị, vốn tín dụng ... Bảng 9: Các chỉ tiêu quy hoạch cho lĩnh vực nuôi trồng thủy sản đến năm 2010 Dạng mặt nước Tiềm năng 1995 2000 2005 2010 Nuôi cá ao hồ nhỏ Diện tích (1000 ha) (1) 127 110 110 110 Năng suất (tấn/ha) (2) 2,85 3 3,69 Sản lượng (1000 tấn) (3) 313 330 406 Lao động (1000 người)(4) 144 167 193 Nuôi cá ruộng trũng (1) 580 85 148 225 310 (2) 1,1 1,2 1,5 (3) 163 270 465 (4) 180 260 390 Nuôi nước lợ (1) 619 275 280 285 290 (2) 0,26 0,3 0,39 0,65 (3) 71 84 112 189 (4) 330 373 400 Nuôi lồng bè Số lồng ( 1000 chiếc ) 16 25 31 39 Năng suất( kg/m3 lồng) 95 97 99 (3) 47 60 77 (4) 10 11 12 Nuôi mặt nước lớn (1) 314 100 130 160 190 (2) 0,04 0,06 0,09 (3) 5 10 18 (4) 4,3 5,2 6,5 Nuôi eo vụng, vịnh (1) 350 23,4 30 38 49 (2) (3) (4) Tổng (1) 576 698 818 949 (3) 460 612 782 1.155 (4) 560 688,3 816,2 1.001,5 Nguồn: Bộ Thủy sản 2.2.3. Chế biến và thương mại thủy sản Nghiên cứu đổi mới công nghệ và thiết bị, nâng cấp các cơ sở chế biến thủy sản theo hướng hiện đại hóa, đổi mới cơ cấu mặt hàng theo nhu cầu của từng thị trường. Từng bước giảm tỷ lệ chế biến bán thành phẩm, tập trung tinh chế các mặt hàng thủy sản có hàm lượng giá trị cao, tạo hiệu quả tối ưu cho toàn bộ chu trình sản xuất kinh doanh nghề cá. Đối với chế biến tiêu thụ nội địa, chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm thủy sản, ngoài các sản phẩm truyền thống, chế biến các sản phẩm mới, phục vụ nhu cầu đa dạng của thị trường trong nước. Mở rộng chủng loại và khối lượng cá mặt hàng thủy sản chế biến có giá trị gia tăng, đưa tỷ trọng các mặt hàng có giá trị tăng từ 17,5% hiện nay lên 25% đến 30% vào năm 2000 và 40-50% vào năm 2005. Nâng tỷ trọng xuất khẩu các mặt hàng thủy sản tươi sống từ 4-5% trong tổng sản phẩm xuất khẩu hiện nay lên 10% vào năm 2000 và 14-16% vào năm 2005. Bảng 10: Các chỉ tiêu quy hoạch lĩnh vực chế biến thủy sản giai đoạn 1996-2010 STT Chỉ tiêu 1995 2000 2005 2010 1 Tổng sản lượng thủy sản (1000 tấn) 1.414,59 1.600 1.900 2.400 2 Lượng nguyên liệu sử dụng cho chế biến (1000 tấn) 500 850 1.000 1.250 3 Công suất cấp đông (tấn/ ngày) 830 830 1.000 1.450 4 Kho lạnh (tấn) 23.000 25.000 32.000 45.000 5 Lao động (người) 58.768 77.000 93.000 128.000 Nguồn: Bộ Thủy sản Khai thác và sử dụng nguồn nguyên liệu Nguyên liệu cung ứng cho chế biến xuất khẩu, chế biến và tiêu thụ nội địa, dự tính sẽ từ 3 nguồn: nuôi trồng thủy sản: 42-45%; khai thác thủy sản: 43-46% và nhập khẩu nguyên liệu: 9-12%. Nhập khẩu nguyên liệu thủy sản không chỉ để bù đắp cho sự thiếu hụt nguồn nguyên liệu thủy sản trong nước mà còn góp phần cân đối nguyên liệu khi trái vụ, nhờ vậy sẽ tăng hiệu quả của các cơ sở chế biến thủy sản. Nguyên liệu có thể nhập từ các nước có giá nguyên liệu thấp hoặc từ các nước có chi phí nhân công chế biến cao. Giải pháp công nghệ chế biến Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, công nghệ chế biến thủy sản sẽ có những bước biến chuyển đáng kể. Cần chú trọng đầu tư cho nghiên cứu công nghệ chế biến các sản phẩm mới và đa dạng hóa các sản phẩm bao gồm cả cải tiến bao bì, quy cách sao cho tiện sử dụng. Dây chuyền chế biến sẽ được áp dụng phù hợp với từng loại nguyên liệu và sản phẩm. Việc lựa chọn kỹ thuật và quy trình công nghệ phải trên cơ sở nghiên cứu thị trường. Công tác quản lý chất lượng cũng cần được tăng cường cả đối với sản phẩm xuất khẩu và sản phẩm tiêu thụ nội địa. Các tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm cần được đưa vào áp dụng bắt buộc ở tất cả các cơ sở chế biến thủy sản. Phấn đấu đến năm 2001, các cơ sở chế biến thủy sản đều được áp dụng hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến theo các tiêu chuẩn HACCP và GMP nhằm đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và chất lượng sản phẩm xuất khẩu. Phát triển các nhà máy chế biến Tới năm 2010, dự tính sản lượng chế biến thủy sản đông lạnh là trên 340.000 tấn/ năm, trong khi công suất cấp đông hiện nay là 800 tấn/ ngày, tương đương khoảng 250.000 tấn/ năm. Vì vậy, phải đầu tư thêm công suất cấp đông khoảng trên 100.000 tấn/ năm, nâng tổng công suất cấp đông lên khoảng 1.500 tấn/ ngày. Bên cạnh các cơ sở đông lạnh đã được đầu tư đổi mới thì trong các năm tới, những cơ sở chế biến đông lạnh đã có thời gian hoạt động lâu (trên 15 năm) cũng cần được nâng cấp, thay thế để đáp ứng các yêu cầu công nghệ hiện đại. Không nhập mới các thiết bị sử dụng các tác nhân gây lạnh có thể gây phá hủy tầng ôzôn như: R22, R502... Quá trình nâng cấp, thay thế thiết bị trong các cơ sở chế biến đã có cũng phải gắn liền với việc thay thế tác nhân lạnh. Bên cạnh các dây chuyền chế biến hiện đại, các thiết bị cấp đông tiên tiến, các thiết bị phụ trợ như: hệ thống thông gió, chiếu sáng, lọc nước, thiết bị đóng gói... cũng cần được đầu tư đúng mức để đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về an toàn môi trường, công nghệ theo yêu cầu của thị trường. Các cơ sở chế biến đông lạnh sẽ quy hoạch lại một cách hợp lý tại các tụ điểm nghề cá lớn như: Hải Phòng, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Bình Thuận, Kiên Giang, Cà Mau... trong giai đoạn từ năm 2000 đến 2010. Thị trường xuất khẩu Mức giá xuất khẩu sản phẩm thủy sản Việt Nam hiện tại thấp hơn nhiều so với mức giá nhập khẩu của các thị trường chính trên thế giới. Do vậy, các sản phẩm thủy sản Việt Nam có thể có được sức cạnh tranh cao nếu đáp ứng được các tiêu chuẩn quốc tế và hoạt động tiếp thị có hiệu quả. Để giảm bớt tình trạng quá phụ thuộc vào thị trường Nhật Bản, hoạt động tiếp thị sẽ phải được cải tổ và hoàn thiện nhằm mục đích đa dạng hóa thị trường và thâm nhập vào các thị trường tiềm năng đối với các sản phẩm có ưu thế của Việt Nam. Đến năm 2010, dự kiến tỷ trọng giá trị xuất khẩu sang các thị trường chính sẽ thay đổi đáng kể so với hiện nay: Nhật Bản: 35-40%, Đông Nam Á (kể cả Trung Quốc): 20-22%, EU: 12-20%, Bắc Mỹ: 15-20%, thị trường khác: 5-10%. II. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN SANG EU TRONG NHỮNG NĂM TỚI 1. Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản sang EU 1.1. Tăng cường đầu tư và quản lý tốt việc đánh bắt hải sản xa bờ và nuôi trồng thủy sản để đảm bảo nguồn nguyên liệu cho chế biến xuất khẩu Để đạt được những phương hướng lớn và nhiệm vụ trong xuất khẩu thủy sản sang EU cũng như sang tất cả các thị trường, thì điều trước tiên là phải giải quyết được vấn đề nguyên liệu cho chế biến thủy sản xuất khẩu. Trong khi nguồn tài nguyên ven bờ của nước ta đã bị cạn kiệt do khai thác quá công suất trong thời gian qua, chỉ còn tiềm năng tăng sản lượng đánh bắt xa bờ và nuôi trồng thủy sản. Theo Bộ Thủy sản, nguồn tài nguyên thủy sản xa bờ của nước ta có trữ lượng 1.932.382 tấn, khả năng khai thác là 771.775 tấn. Đến năm 1997, ta mới khai thác được khoảng 200.000 tấn chiếm trên 10% trữ lượng và khoảng 25-26% khả năng khai thác cho phép. Đây thực sự là tiềm năng nguyên liệu lớn mà Việt Nam có thể khai thác phục vụ cho nhu cầu xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Tuy nhiên, vấn đề khai thác được tiềm năng này đến mức nào lại phụ thuộc rất lớn vào khả năng quản lý cũng như năng lực, trình độ công nghệ của nghề cá Việt Nam. Bên cạnh việc đánh bắt xa bờ, một lợi thế so sánh khác của Việt Nam để tham gia thương mại quốc tế trong thời gian tới là phát triển nuôi trồng thủy sản. Đặc biệt, phát triển nuôi tôm sú và tôm càng xanh có giá trị xuất khẩu cao để xuất khẩu sang EU cũng như sang các thị trường khác. Tuy nhiên, diện tích mặt nước nuôi trồng không phải là vô hạn, hơn nữa các vấn đề kỹ thuật nuôi trồng như: giống, thức ăn chăn nuôi và những ràng buộc về môi trường sinh thái... rất cần tới sự quản lý và trợ giúp tài chính, kỹ thuật của Nhà nước và Cộng đồng quốc tế. Vì vậy, để khai thác được tiềm năng nguyên liệu còn rất lớn cho chế biến thủy sản xuất khẩu, Nhà nước phải giữ vai trò quyết định bằng việc tạo ra môi trường pháp lý thông thoáng, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia và bản thân Nhà nước thực thi các chính sách quản lý, đầu tư thỏa đáng để đảm bảo khai thác tốt nguồn lợi hải sản xa bờ cũng như cải tiến kỹ thuật nuôi trồng thủy sản để đảm bảo cung cấp đủ nguyên liệu chất lượng cao cho chế biến thủy sản xuất khẩu. 1.2. Tăng cường năng lực công nghệ chế biến, cải tiến chất lượng và an toàn vệ sinh hàng thủy sản xuất khẩu theo tiêu chuẩn HACCP Tăng cường năng lực công nghệ chế biến, mở rộng và xây mới các cơ sở chế biến nâng công suất chế biến lên 1000 tấn/ ngày vào năm 2000 và 1500 tấn/ ngày vào năm 2005. Cần định hướng, đầu tư thích hợp cho đổi mới công nghệ, nâng cấp các điều kiện sản xuất nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và giảm bớt lao động chân tay để tăng khả năng cạnh tranh của thủy sản nước ta tại EU cũng như ở các thị trường khác. Các doanh nghiệp cần không ngừng đổi mới công nghệ, trang thiết bị để sản xuất những sản phẩm thủy sản có giá trị xuất khẩu cao, giá cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng khó tính EU. Nhà nước cùng các cơ quan hữu quan cần triển khai mạnh mẽ việc xây dựng quy chế công nhận các doanh nghiệp áp dụng tiêu chuẩn chất lượng tiên tiến là HACCP và GMP, thực hiện việc đào tạo về các hệ thống quản lý chất lượng cho cán bộ quản lý doanh nghiệp, áp dụng các biện pháp khuyến khích cho các doanh nghiệp áp dụng hệ thống quản lý chất lượng này. Hướng xuất khẩu thủy sản trong thời gian tới của nước ta là phải tăng được thị phần ở các nước EU và Bắc Mỹ, nơi mà mọi vấn đề liên quan tới chất lượng đều được quy tụ trong việc thực hiện các tiêu chuẩn HACCP. Vì vậy, không có cách nào khác là sự vươn lên của các doanh nghiệp Việt Nam cùng với sự trợ giúp về kỹ thuật, tài chính của Nhà nước và quốc tế để cải tiến chất lượng hàng thủy sản Việt Nam. Mặc dù đã đạt được kết quả là 33 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn xuất khẩu thủy sản vào EU, 29 doanh nghiệp được xuất khẩu thủy sản cấp liên minh vào EU nhưng điều thách thức là bất kỳ lúc nào EU cũng có thể tuyên bố cấm vận nếu có vi phạm. Vì vậy, Nhà nước cần tăng cường thẩm quyền của Trung tâm Kiểm tra chất lượng và vệ sinh an toàn thủy sản (NAFIQACEN), để đảm bảo các điều kiện tương đương của EU về cơ quan quản lý chất lượng. Cần có chính sách hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật để các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện nâng cao chất lượng sản phẩm thủy sản để đáp ứng yêu cầu chất lượng và vệ sinh an toàn hàng thủy sản của EU. Các doanh nghiệp Việt Nam là người trực tiếp thực hiện chất lượng sản phẩm phải quán triệt quan điểm chất lượng cùng với giá cả hợp lý là điều kiện sống còn của doanh nghiệp, từ đó nâng cao ý thức đối với việc cung cấp những sản phẩm đạt chất lượng theo yêu cầu của EU cũng như của các thị trường khác. 1.3. Phát triển thêm nhiều mặt hàng thủy sản cho xuất khẩu, tăng giá thủy sản xuất khẩu trong điều kiện đảm bảo cạnh tranh Cơ cấu xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU cũng như sang các thị trường khác trong thời gian qua khoảng hơn 90% là dạng sản phẩm tươi, ướp đông, đông lạnh (riêng giáp xác và nhuyễn thể là 80-85%). Sự mất cân đối về cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu đã làm hạn chế kim ngạch xuất khẩu. Vì vậy, cần phải tăng hơn nữa tỷ trọng hàng đông lạnh sơ chế. Nếu như làm được điều này, cơ cấu sản phẩm xuất khẩu thay đổi sẽ có khả năng tăng kim ngạch xuất khẩu. Giá thủy sản xuất khẩu của nước ta so với giá cả trung bình thế giới là tương đối thấp. Vì thế, việc tăng giá sản phẩm phải đảm bảo hàng thủy sản Việt Nam có sức cạnh tranh để chiếm lĩnh thị trường quốc tế nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu. Việc thay đổi cơ cấu sản phẩm thủy sản xuất khẩu sẽ là yếu tố quyết định để nâng cao mức giá thủy sản xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới, không chỉ ở EU mà còn ở nhiều thị trường khác. Việc nâng tỷ trọng hàng chế biến sâu như đồ hộp hay thủy sản ăn liền trong tổng xuất khẩu hàng thủy sản, cũng như việc áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật mới để có khả năng xuất khẩu các loại thủy sản sống giá trị cao là một công việc khó khăn, đòi hỏi phải được sự đầu tư thích đáng và hiệu quả. 1.4. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường EU Đẩy mạnh công tác thông tin thị trường và các hoạt động xúc tiến thương mại, đáp ứng thông tin cần thiết cho các doanh nghiệp. Ngoài những nỗ lực của bản thân doanh nghiệp trong việc duy trì, mở rộng thị trường, Nhà nước cần có chính sách cụ thể hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các thị trường mới. Nhà nước nên cho phép Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam được mở Văn phòng đại diện tại EU, cụ thể là đặt tại Brucxen (Bỉ) để tăng cường công tác tiếp thị cho sản phẩm thủy sản nước ta. Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam với tư cách là người đại diện cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cần cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin về thị trường EU cho các doanh nghiệp và giúp đỡ giải quyết những vấn đề phát sinh trong các doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu thủy sản sang EU. Ngoài ra, Hiệp hội cần tiến hành nghiên cứu thị trường thủy sản EU, nghiên cứu và đề xuất việc tham gia các hội chợ, tổ chức các chiến dịch quảng cáo hàng thủy sản Việt Nam ở các nước EU, phối hợp với các nhà nhập khẩu và phân phối ở thị trường tiềm năng để quảng cáo khuếch trương hàng thủy sản Việt Nam ở EU hay trợ giúp và đào tạo kỹ thuật cho cán bộ thị trường của các doanh nghiệp sản xuất, chế biến hàng thủy sản xuất khẩu. 1.5. Tăng cường hợp tác kinh tế - kỹ thuật với các nước, đặc biệt là các nước EU trong sản xuất, chế biến hàng thủy sản xuất khẩu và đẩy nhanh tiến độ hội nhập khu vực và thế giới Việt nam đã gia nhập Hiệp hội nghề cá các nước Đông Nam Á, APEC và chuẩn bị gia nhập WTO, hội nhập với khu vực và thế giới, mở ra nhiều khả năng to lớn cho Việt Nam học tập kinh nghiệm của các nước có ngành thủy sản phát triển (nhất là các nước thuộc EU), hạn chế được những tranh chấp có thể xảy ra giữa các nước trong vùng và tận dụng tốt hơn nguồn tài nguyên biển và đảm bảo một thị trường tiêu thụ rộng lớn. Việc Việt Nam tham gia vào AFTA, APEC... chắc chắn sẽ mở ra những cơ hội vô cùng to lớn để Việt Nam tranh thủ nguồn vốn đầu tư, đổi mới công nghệ đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật để phát huy tốt nhất nội lực của đất nước, mở ra thị trường rộng lớn hơn cho hàng thủy sản nước ta, do vậy mà nâng cao được kim ngạch xuất khẩu(đặc biệt là EU) cũng như hiệu quả xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. 2. Một số giải pháp tài chính tín dụng khuyến khích xuất khẩu thủy sản sang EU 2.1. Miễn giảm các loại thuế đối với sản xuất và xuất khẩu hàng thủy sản Lợi thế cạnh tranh của hàng thủy sản Việt Nam nay đã giảm đi rất nhiều vì chi phí tàu thuyền ngày càng cao, giá lao động cũng tăng lên nhiều trong khi máy móc thiết bị cho đánh bắt và chế biến trong tình trạng quá lạc hậu so với trình độ chung. Vì vậy, để tăng cường sức cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất, chế biến hàng thủy sản xuất khẩu, Nhà nước cần ban hành chính sách thuế thỏa đáng. Việc Nhà nước không đánh thuế xuất khẩu hàng thủy sản từ ngày 15/02/1998 có ý nghĩa rất tích cực để giúp các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản có thể tăng cường năng lực cạnh tranh về giá cả xuất khẩu. Đối với nguyên liệu, vật tư nhập khẩu phục vụ cho chế biến xuất khẩu, Nhà nước nên áp dụng chính sách hoàn trả 100% thuế nhập khẩu. Chế độ miễn giảm thuế tài nguyên, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, phí giao thông đường bộ trong giá xăng dầu... đối với các doanh nghiệp khai thác thủy- hải sản cũng cần được thay đổi theo hướng có lợi hơn cho các doanh nghiệp. Nhà nước nên khuyến khích việc đầu tư đổi mới trang thiết bị cho chế biến hàng thủy sản xuất khẩu thông qua quy định về thuế nhập khẩu hay phương pháp tính khấu hao hợp lý để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị ... 2.2. Cần tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu và thành lập qũy hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu hàng thủy sản Vấn đề tài trợ xuất khẩu Tài trợ xuất khẩu bao trùm toàn bộ các biện pháp tài chính, tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu thủy sản, đây là một trong những yếu tố quyết định thành công của hoạt động xuất khẩu thủy sản. Nhu cầu tài trợ xuất khẩu bao gồm: Tài trợ trước khi giao hàng: Để đảm bảo đầu vào cho sản xuất chế biến hàng xuất khẩu (vốn mua nguyên vật liệu và máy móc, thiết bị phụ tùng cần thiết, nhu cầu về vốn này là rất quan trọng do đặc điểm hàng thủy sản là sản xuất nguyên liệu có tính thời vụ cao và nhiều loại nguyên liệu cần thiết cho chế biến lại phải nhập khẩu...). Tài trợ trong khi giao hàng: Hàng thủy sản đã được chế biến và phải được lưu kho chờ ký được hợp đồng bán hàng, muốn thắng lợi trong chào hàng và giành được hợp đồng thì doanh nghiệp phải chào hàng với những điều kiện hấp dẫn về giá cả (giảm giá) hay thỏa thuận một thời hạn thanh toán chậm (tín dụng thương mại), do đó phát sinh nhu cầu tín dụng trong khi giao hàng. Tín dụng sau giao hàng: Khi nhà xuất khẩu nào bán chịu với thời hạn thanh toán là 3,6,9 tháng, một năm hay lâu hơn nữa, cần phải có tín dụng xuất khẩu cho nhà xuất khẩu tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh... Tài trợ xuất khẩu, ngoài việc cung cấp vốn cho giao dịch xuất khẩu, còn là sự hạn chế các rủi ro phát sinh trong giao dịch xuất khẩu và do vậy mà khuyến khích được các ngân hàng cung cấp các khoản tín dụng xuất khẩu ở mức lãi suất phải chăng. Về qũy hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu hàng thủy sản Đã đến lúc Việt Nam cần thiết phải thành lập qũy hỗ trợ xuất khẩu nếu muốn đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU cũng như sang các thị trường khác. Bởi vì các lý do sau: - Do đặc thù của ngành thủy sản nước ta là mặt hàng thủy sản thuộc nhóm hàng mà sự cung cấp phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện thiên nhiên, có tính chất thời vụ, rủi ro rất lớn và giá cả biến động rất thất thường, nên thành lập qũy này có tác dụng ổn định giá cả cho các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng thủy sản. - Lợi thế so sánh của xuất khẩu thủy sản đã giảm rất lớn khi mà nguồn thủy sản ven bờ đã bị cạn kiệt, chi phí tàu thuyền và nhiên liệu khai thác hải sản đã tăng hơn 100% so với cách đây khoảng 10 năm, cơ sở hậu cần nghề cá và cơ sở hạ tầng qua yếu kém và lạc hậu... - Qũy hỗ trợ xuất khẩu thủy sản không chỉ có tác dụng duy trì sự ổn định giá cả trong sản xuất, chế biến thủy sản xuất khẩu mà còn là sự trợ giúp cần thiết khi muốn đổi mới trang thiết bị để nâng cao mức độ chế biến, cải thiện chất lượng và an toàn vệ sinh hàng thực phẩm, hỗ trợ xâm nhập một thị trường mới hay phát triển một sản phẩm mới. - Nguồn tài chính của qũy này sẽ bao gồm: nguồn thu thuế đối với hàng thủy sản, nguồn đóng góp của các doanh nghiệp trong ngành thủy sản và hỗ trợ phát triển quốc tế. 3. Các giải pháp khác nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản sang EU 3.1. Đa dạng hóa các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, vấn đề kết hợp xuất nhập khẩu và vận dụng linh hoạt các phương thức mua bán quốc tế Kết hợp việc củng cố vị trí cho các tập đoàn xuất khẩu lớn với việc giúp đỡ hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong xuất khẩu hàng thủy sản. Thực ra việc kết hợp này sẽ phát huy được lợi thế của các doanh nghiệp trong sản xuất chế biến hàng thủy sản xuất khẩu. Bởi vì, nếu chỉ tập trung hỗ trợ các tập đoàn lớn thì điều kiện đầu tư, đổi mới trang thiết bị sẽ tốt hơn và việc đào tạo sẽ tập trung hơn... Do vậy, các tập đoàn lớn có thể trở thành đầu tàu để đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản nhưng các tập đoàn lớn thường khó thích ứng trước những biến đổi thất thường và những yêu cầu rất đa dạng, phong phú của thị trường cá biệt nên thường thường các doanh nghiệp nhỏ lại có tính linh hoạt và dễ thích ứng hơn. Hơn nữa, đặc điểm của Việt Nam là kinh tế hộ gia đình, các xí nghiệp vừa và nhỏ càng trở nên cần thiết để đạt các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội. Ngoài ra, đó còn là sự kết hợp xuất khẩu hàng thủy sản với nhập khẩu máy móc thiết bị phục vụ cho sản xuất chế biến hàng thủy sản xuất khẩu. Ngoài việc ký kết các hợp đồng xuất khẩu trực tiếp hàng thủy sản ra nước ngoài, có thể ký gửi bán hàng thủy sản của Việt Nam ở nước ngoài hay sử dụng mạng lưới phân phối hàng thủy sản nước ngoài làm đại lý, môi giới bán hàng... Hay việc nghiên cứu triển khai ác phương thức bán hàng theo điều kiện CIF thay cho việc bán FOB... Việc kết hợp xuất nhập và linh hoạt áp dụng các phương thức mua bán hàng quốc tế sẽ mở ra những cơ hội mới cho xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU cũng như sang tất các thị trường. 3.2. Phát triển nguồn nhân lực cho ngành thủy sản Yếu tố quan trọng nhất trong sản xuất, chế biến thủy sản xuất khẩu vẫn là yếu tố con người. Việc phát triển nguồn nhân lực cho ngành thủy sản thông qua việc nâng cao trình độ văn hóa và tay nghề cho ngư dân, đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và cán bộ thị trường để có đủ năng lực và thích ứng với yêu cầu của nền kinh tế thị trường có điều tiết là chìa khóa cho sự thành công của chiến lược xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU trong thời gian tới, bởi vì: các biện pháp khuyến khích của Nhà nước ngay cả khi được xác định một cách khoa học và đúng đắn cũng chỉ là điều kiện cần cho xuất khẩu, trách nhiệm cuối cùng cũng như khả năng tận dụng mọi ưu đãi đó để chào bán các sản phẩm có tính cạnh tranh cao để mở rộng thị trường xuất khẩu lại thuộc về bản thân các doanh nghiệp Việt Nam cũng như những nỗ lực chủ quan của họ, đây mới là điều kiện đủ. Đào tạo nguồn nhân lực là mối quan tâm không chỉ ở qui mô doanh nghiệp mà còn ở cả qui mô quốc gia và quốc tế. Vì vậy, phương châm Nhà nước và nhân dân cùng tham gia đầu tư cho việc xây dựng nguồn nhân lực sẽ mang lại hiệu quả cao. Ngoài ra, trợ giúp kĩ thuật và tài chính của cộng đồng quốc tế là rất quan trọng trong vấn đề phát triển nguồn nhân lực cho việc phát triển sản xuất và xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang EU trong những năm tới. 3.3. Chỉ đạo đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa ngành chế biến thủy sản xuất khẩu. Sức ì của các doanh nghiệp quốc doanh đã làm chậm đáng kể bước tiến của ngành thủy sản xuất khẩu khi mà có đến 80% doanh nghiệp chế biến thủy sản là doanh nghiệp Nhà nước. Các doanh nghiệp này phần lớn do thiếu vốn nên tiến độ đổi mới công nghệ và đổi mới phương thức quản lý ngành, nhất là quản lý chất lượng diễn ra chậm. Tình trạng thụ động ngồi chờ khách hàng, ít đầu tư cho công tác tiếp thị, quảng cáo... là phổ biến, ngược lại hẳn với khối doanh nghiệp tư nhân hết sức năng động và có khả năng cạnh tranh cao trong xuất khẩu thủy sản. Để nâng cao hiệu quả đầu tư và hiệu quả sản xuất-kinh doanh, phát huy tính năng động trong việc đa dạng hóa sản phẩm và tìm kiếm thị trường tiêu thụ, Nhà nước cần xếp ngành chế biến thủy sản vào diện ưu tiên cổ phần hóa và đẩy nhanh tiến độ cổ phần hóa trong ngành này. kết luận Thủy sản là một mặt hàng đóng vai trò quan trọng trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta. Trong thời gian qua, xuất khẩu thủy sản đã đạt được những thành tựu rất đáng kể trong cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam. Đạt được những thành tựu đó, bên cạnh sự nỗ lực cố gắng của bản thân các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản, phải kể đến sự tác động của hệ thống chính sách nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản của Nhà nước đã áp dụng trong thời gian qua và xuất khẩu thủy sản sang EU không nằm ngoài sự tác động đó. Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc xuất khẩu thủy sản sang thị trường EU cũng như sang các thị trường khác vẫn còn nhiều tồn tại, khó khăn gây trở ngại không nhỏ cho việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu thủy sản của nước ta. Để có thể đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường EU trong những năm tới, đòi hỏi sự cố gắng vượt bậc, sự nỗ lực của Đảng và Nhà nước ta, điều này là hết sức cần thiết và cực kì quan trọng. Đòi hỏi phải có sự phối hợp đồng bộ, nhất quán, hiệu quả giữa các cơ quan hữu quan và các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản trong việc thực thi các chính sách vĩ mô của Nhà nước cũng như những qui chế, những yêu cầu của thị trường EU. * Hà Nội năm 2002. Sinh viên ĐH-KTQD Nguyễn Ngọc Linh. tài liệu tham khảo Giáo trình Quản trị kinh doanh xuất nhập khẩu-ĐHKTQD Chủ biên: PGS.TS Trần Chí Thành-NXB Thống kê 2000. Giáo trình Quản trị kinh doanh Thương mại quốc tế-ĐHKTQD Chủ biên: PGS.PTS Trần Chí Thành-NXB Giáo dục 1996. 3. Giáo trình Thương mại quốc tế-ĐHKTQD Chủ biên: PGS.PTS Nguyễn Duy Bột-NXB Thống kê1997. Hồ sơ các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam-Viện Nghiên cứu Thương mại - Bộ Thương mại 3/1999. Qui hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội ngành thủy sản thời kì 1996-2010 - Bộ Thủy sản 7/1998. Chiến lược khoa học công nghệ thủy sản thời kì 1996-2010 - Bộ Thủy sản 12/1995. Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và dự toán ngân sách Nhà nước năm 2000 của ngành Thủy sản - Bộ Thủy sản 8/1999. Niên giám thống kê 1996,1997,1998 - NXB Thống kê. Số liệu thống kê nông, lâm, ngư nghiệp và thủy sản thời kì 1990-1998 và dự báo năm 2000 - NXB Thống kê 1998. The Single European Market-Seminar 11-12/1994 Ha Noi, Organised by The European Commission. 11. Europe-Regional Overview-3rd quarter 1999. 12. FAO-Yearbook-Fishery Statistics-Fishery Commodities 1985-1995. Tạp chí Thủy sản các số năm 1998,1999,2000. Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu-số 3/1999. Thời báo Kinh tế Việt Nam các số 1998-2000. Thời báo Đầu tư các số 1997-2000. Tạp chí Thương mại các số 1998-2000. Báo Thương mại các số 1998-2000. 19. Các Báo và Tạp chí khác có liên quan. MỤC LỤC Trang LỜI NÓI ĐẦU 1 CHƯƠNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT KHẨU 3 I. Quy trình hoạt động kinh doanh xuất khẩu 3 1. Hoạt động Marketing 3 2. Lựa chọn đối tượng giao dịch, phương thức giao dịch trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá 7 3. Ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu 8 4. Thực hiện hợp đồng trong kinh doanh xuất khẩu 9 II. Vai trò của xuất khẩu thủy sản 11 1. Lợi thế của ngành thủy sản nước ta 11 2. Vai trò của ngành thủy sản trong nền kinh tế quốc dân 12 III. Những yêu cầu về luật pháp và tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm của EU đối với hàng thủy sản của Việt Nam 15 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM SANG EU TRONG NHỮNG NĂM QUA 17 I. Khái quát đặc điểm thị trường EU 17 1. Về kinh tế - chính trị 17 2. Về mức sống dân cư 18 3. Về thói quen tiêu dùng 19 II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu thủy sản của nước ta sang EU trong thời gian qua 20 1. Cấu trúc mậu dịch thị trường thủy sản EU 20 2. Cơ cấu thị trường EU nhập khẩu thủy sản của Việt Nam 21 3. Cơ cấu mặt hàng thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào EU 24 III. Ảnh hưởng của hệ thống chính sách đến hoạt động xuất khẩu thủy sản sang EU 26 1. Chính sách thuế, lệ phí 26 2. Chính sách đầu tư và quản lý vốn 26 3. Chính sách về khai thác thủy sản 29 4. Vấn đề đảm bảo chất lượng thủy sản chế biến cho xuất khẩu 31 IV. Đánh giá kết quả hoạt động xuất khẩu thủy sản sang EU trong những năm qua 33 1. Những thành tựu đạt được 33 2. Những khó khăn, tồn tại cần khắc phục 35 CHƯƠNG III. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU THỦY SẢN CỦA VIỆT NAM SANG EU TRONG NHỮNG NĂM TỚI 37 I. Chủ trương, đường lối của Nhà nước về hoạt động xuất khẩu thủy sản trong những năm tới 37 1. Những quan điểm và định hướng phát triển xuất khẩu thủy sản 37 2. Mục tiêu và nhiệm vụ phát triển xuất khẩu thủy sản 39 II. Những giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản sang EU trong những năm tới 47 1. Những giải pháp chủ yếu đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản sang EU 47 2. Một số giải pháp tài chính tín dụng khuyến khích xuất khẩu thủy sản sang EU 51 3. Các giải pháp khác nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản sang EU 53 KẾT LUẬN 55 TÀI LIỆU THAM KHẢO 56

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDay manh xuat khau EU.doc
Tài liệu liên quan