Những vấn đề pháp lý về Nhượng quyền thương mại

Trần Thu Hoà, KT29A, Những vấn đề pháp lý về Nhượng quyền thương mại, TS. Nguyễn Thanh Tâm, 2007, Giải Nhất cấp trường, giải KK cấp Bộ (đã nâng lên thành khóa luận, bản up là bản khóa luận) CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI 1.1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI 1.1.1. Một số quan niệm về nhượng quyền thương mại Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại, nhiều phương thức kinh doanh đã ra đời và phát triển rộng rãi. NQTM, tiếng Anh là franchising, là một trong những phương thức hiệu quả được nhiều thương nhân lựa chọn để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình. Franchising, hay NQTM, với tư cách là hoạt động kinh tế, xuất hiện ở Châu Âu vào khoảng giữa thế kỷ 19, với việc những nhà sản xuất bia ký hợp đồng với các chủ quán rượu để độc quyền bán bia của họ và không có bất cứ sự kiểm soát nào đối với quán rượu. Buổi ban đầu, phần lớn các nhà nhượng quyền chủ yếu dựa vào kênh sản phẩm bán cho các nhà nhận quyền để thu lợi nhuận. Cho đến cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, ngoại trừ các sản phẩm được gắn nhãn hiệu của bên nhượng quyền, bên nhượng quyền không cung cấp bất kỳ dịch vụ quan trọng nào khác có liên quan đến việc kinh doanh cho bên nhận quyền. NQTM thời kỳ này được hiểu là thỏa thuận hợp đồng giữa các nhà sản xuất hàng hóa, dịch vụ với những chủ thể kinh doanh độc lập khác liên quan đến việc phân phối sản phẩm. Hình thức này được gọi là nhượng quyền phân phối sản phẩm. Một sự đổi mới quan trọng trong lĩnh vực NQTM xuất hiện vào năm 1909 ở Mỹ với sự xuất hiện của hệ thống nhượng quyền Western Auto. Mặc dù vẫn dựa vào lợi nhuận từ việc bán sản phẩm cho bên nhận quyền chứ chưa quan tâm tới phí nhượng quyền hàng tháng, Western Auto đã cung cấp cho các bên nhận quyền của họ nhiều dịch vụ hỗ trợ tương tự như những nhà nhượng quyền ngày nay đang làm. Sự hỗ trợ này bao gồm cả việc lựa chọn địa điểm kinh doanh, đào tạo, hỗ trợ quảng cáo và nhiều sự hỗ trợ khác trong quá trình kinh doanh. Một hình thái kinh doanh nhượng quyền thương mại mới ra đời và phát triển mạnh mẽ: nhượng quyền phương thức kinh doanh. Theo đó, bên nhận quyền không chỉ được sử dụng nhãn hàng hóa của bên nhượng quyền mà còn được áp dụng phương thức kinh doanh của bên nhận quyền. Đây là hình thức kinh doanh nhượng quyền thương mại với ý nghĩa đầy đủ nhất theo quan điểm hiện đại. [24] Như vậy, xét theo góc độ lịch sử hình thành, trong suốt quá trình phát triển của mình, nội dung khái niệm franchising - NQTM đã có nhiều thay đổi. Với sự tìm tòi đổi mới không ngừng của những công ty tiên phong trong lĩnh vực NQTM, trong tương lai, khái niệm này hứa hẹn sẽ còn tiếp tục phát triển, với những nội dung mới, những kỹ năng kinh doanh mới được nhượng và sự mở rộng kinh doanh trên phạm vi quốc tế. NQTM, hiểu theo nghĩa chung nhất, là việc một bên (bên nhượng quyền) trao cho bên kia (bên nhận quyền) một số quyền nhất định để đổi lấy một khoản tiền. Tuy nhiên, việc trao quyền này không có nghĩa là bên nhượng quyền trở thành chủ sở hữu của những quyền này, mà chỉ được phép khai thác những quyền này trong một khoảng thời gian xác định mà thôi. Quyền này có thể bao gồm tên thương mại, nhãn hiệu hàng hóa/dịch vụ, phương thức kinh doanh Bên nhận quyền được khai thác những quyền này dưới sự hướng dẫn và kiểm soát của bên nhượng quyền. Để đổi lại, bên nhận quyền thường phải trả cho bên nhượng quyền tiền phí tham gia hệ thống nhượng quyền ban đầu và tiếp tục trả tiền phí nhượng quyền trong suốt quá trình khai thác quyền thương mại theo hợp đồng. Dưới góc độ pháp lý, trên thế giới đã có nhiều định nghĩa về NQTM được đưa ra. Một trong những ghi nhận sớm nhất của pháp luật về NQTM là một phán quyết của Toà án Paris ngày 20/4/1978. Theo phán quyết này, NQTM là: “Một phương pháp hợp tác giữa hai hoặc nhiều doanh nghiệp, một bên là bên nhượng quyền, bên kia là bên nhận quyền, theo đó bên nhượng quyền, chủ sở hữu của tên thương mại hoặc tên pháp lý quen thuộc, các ký hiệu, các biểu tượng, nhãn hiệu hàng hoá/dịch vụ, một bí quyết đặc biệt, trao cho người khác quyền sử dụng một tập hợp các sản phẩm/dịch vụ, nguyên gốc hoặc đặc biệt, để độc quyền khai thác chúng, một cách bắt buộc và hoàn toàn theo cách thức thương mại đã được thử nghiệm, được chỉnh sửa và hoàn thiện định kỳ, để có được ảnh hưởng tốt nhất đối với thị trường, và để đạt được sự phát triển tăng tốc của hoạt động thương mại của doanh nghiệp liên quan, để đổi lấy tiền nhượng quyền hoặc một lợi thế; theo hợp đồng, có thể có sự hỗ trợ về sản xuất, thương mại hoặc tài chính, để bên nhận quyền hội nhập vào hoạt động thương mại của bên nhượng quyền, và bên nhượng quyền có thể tiến hành một số kiểm soát bước đầu đối với bên nhận quyền về việc thực hiện một phương pháp độc đáo hoặc một bí quyết đặc biệt, để duy trì hình ảnh của nhãn hiệu dịch vụ hoặc sản phẩm bán ra, và phát triển khách hàng với giá rẻ nhất, với khả năng sinh lợi lớn nhất của cả hai bên, theo đó hai bên vẫn độc lập hoàn toàn về mặt pháp luật” [15] Theo định nghĩa rút ra từ án lệ này, một quan hệ NQTM phải đáp ứng các dấu hiệu: (1) Có sự chuyển giao một tập hợp bao gồm tên thương mại, các ký hiệu, biểu tượng, nhãn hiệu hàng hoá/dịch vụ, bí quyết kinh doanh của bên nhượng quyền cho bên nhận quyền; (2) Các bên sẽ cùng khai thác tập hợp các yếu tố nói trên để tiến hành kinh doanh; (3) Có sự hỗ trợ về sản xuất, thương mại hoặc tài chính của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền; (4) Bên nhận quyền phải chịu sự kiểm soát nhất định của bên nhượng quyền; (5) Các bên độc lập với nhau về tư cách pháp lý. Luận văn chia làm 3 chương, dài 53 trang

doc50 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2121 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Những vấn đề pháp lý về Nhượng quyền thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quy định tại Điều 285 Luật Thương mại, hợp đồng NQTM phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Việc quy định như vậy đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng của hợp đồng NQTM, tạo căn cứ vững chắc cho các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, và tạo thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp. (iii) Quy định về nội dung hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, về cơ bản đã tương đồng với pháp luật các nước Theo quy định tại các Điều 286, 287, 288, 289 Luật Thương mại 2005, các bên sẽ có những quyền và nghĩa vụ cơ bản sau: Bên nhượng quyền có ba quyền cơ bản là: thứ nhất, nhận tiền nhượng quyền; thứ hai, tổ chức quảng cáo cho hệ thống NQTM; thứ ba, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận quyền nhằm bảo đảm sự thống nhất của hệ thống NQTM và sự ổn định về chất lượng hàng hoá/dịch vụ. Đi đôi với quyền, bên nhượng quyền cũng có những nghĩa vụ nhất định. Đó là: thứ nhất, cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống NQTM cho bên nhận quyền; thứ hai, đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giúp kỹ thuật thường xuyên cho bên nhận quyền để điều hành hoạt động theo đúng hệ thống NQTM; thứ ba, thiết kế và sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ bằng chi phí của bên nhận quyền; thứ tư, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với đối tượng được ghi trong hợp đồng NQTM; thứ năm, đối xử bình đẳng với các bên nhận quyền trong hệ thống NQTM. Bên nhận quyền có quyền: thứ nhất, yêu cầu bên nhượng quyền cung cấp đầy đủ sự trợ giúp kỹ thuật có liên quan đến hệ thống NQTM; thứ hai, yêu cầu bên nhượng quyền đối xử bình đẳng giữa các bên nhận quyền trong hệ thống NQTM. Bên nhận quyền được sử dụng, khai thác quyền thương mại thuộc sở hữu của bên nhượng quyền, do đó phải chịu nhiều ràng buộc từ phía bên nhượng quyền và các nghĩa vụ đặt ra đối với bên nhận quyền cũng nhiều hơn, bao gồm: thứ nhất, trả tiền nhượng quyền và các khoản thanh toán khác theo hợp đồng NQTM; thứ hai, đầu tư đủ cơ sở vật chất, nguồn tài chính và nhân lực để tiếp nhận các quyền mà bên nhượng quyền chuyển giao; thứ ba, chấp nhận sự kiểm soát, giám sát và hướng dẫn của bên nhượng quyền, tuân thủ các yêu cầu về thiết kế, sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ của bên nhượng quyền; thứ tư, giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền, kể cả sau khi hợp đồng NQTM kết thúc hoặc chấm dứt; thứ năm, ngừng sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh và các quyền sở hữu trí tuệ khác (nếu có) hoặc hệ thống của bên nhượng quyền khi kết thúc hoặc chấm dứt hợp đồng NQTM; thứ sáu, điều hành hoạt động phù hợp với hệ thống NQTM; thứ bảy, không được nhượng quyền lại trong trường hợp không có sự chấp thuận của bên nhượng quyền. Nhìn chung, các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên trong hợp đồng NQTM là tương đồng với quy định của pháp luật các nước. (iv) Quy định những trường hợp được chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và sự ràng buộc giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền sau khi chấm dứt hợp đồng nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của các bên Khoản 2 Điều 13 và Điều 16 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định những điều kiện để bên nhượng quyền và bên nhận quyền được đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Theo đó, các bên chỉ được phép chấm dứt khi có những lý do chính đáng, đồng thời cho phép bên nhận quyền được sửa chữa những sai phạm khi vi phạm nghĩa vụ không cơ bản trong hợp đồng. Các quy định này đã tương đối bao quát các trường hợp có thể xảy ra, nhằm đảm bảo quyền và lợi chính đáng cho các bên khi tham gia hợp đồng NQTM. Pháp luật các nước rất quan tâm đến vấn đề chấm dứt hợp đồng NQTM trong trường hợp này. Thông thường, các quy định pháp luật được xây dựng theo hướng bảo vệ quyền lợi của bên nhận quyền thông qua việc đảm bảo rằng bên nhượng quyền có lý do hợp lý để chấm dứt hợp đồng hoặc bằng cách trao cho bên nhận quyền quyền được sửa chữa vi phạm hợp đồng [17, tr. 182-183]. Tại Mỹ, có 14 bang yêu cầu lý do chính đáng cho việc chấm dứt hợp đồng, 8 bang cho phép sửa chữa sai phạm là lý do chấm dứt hợp đồng. Pháp luật Australia, Malaysia cũng yêu cầu thông báo trước khi chấm dứt hợp đồng và cho phép khắc phục vi phạm hợp đồng là lý do yêu cầu chấm dứt [2]. Như vậy, các quy định pháp luật Việt Nam về chấm dứt hợp đồng NQTM trước thời hạn đã tương đồng với pháp luật các nước trên thế giới. Mặt khác, theo quy định tại Khoản 4 Điều 289 Luật Thương mại, sự ràng buộc giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền vẫn tiếp tục ngay cả sau khi hợp đồng đã chấm dứt. Theo đó, bên nhận quyền phải giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền sau khi hợp đồng nhượng quyền thương mại kết thúc hoặc chấm dứt. Khi tham gia vào hợp đồng nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền phải chuyển giao cho bên nhận quyền công nghệ, bí quyết kinh doanh, là điều kiện tiên quyết để làm nên thành công cho bên nhượng quyền. Khi hợp đồng NQTM kết thúc, công việc kinh doanh của bên nhượng quyền có thể gặp rủi ro nếu có một bên không có lợi ích liên quan (bên nhận quyền cũ) biết được bí quyết kinh doanh của mình. Do đó, đây là quy định cần thiết để bảo vệ lợi ích chính đáng cho bên nhượng quyền, đem lại sự an tâm cho bên nhượng quyền khi tham gia vào hoạt động NQTM. b. Hạn chế (i) Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng NQTM chỉ mang tính chất khung, chưa cụ thể, chưa lường trước và giải quyết được mối quan hệ giữa NQTM và cạnh tranh Nếu như pháp luật các nước đã có những bước đi sớm với những quy định triển khai cụ thể, chi tiết các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng NQTM, thì pháp luật Việt Nam mới chỉ dừng lại ở những quy định mang tính chất khung, định hướng cho các bên. Việc xác định cụ thể và thực hiện các quyền và nghĩa vụ này như thế nào là tùy thuộc vào sự thoả thuận của các bên trong hợp đồng. Trên thực tế, cách hiểu về việc thực hiện như thế nào cho đúng nghĩa vụ của các bên rất dễ dẫn đến bất đồng và làm nảy sinh tranh chấp, hoặc cũng có thể dẫn đến việc không đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng của các bên. Hợp đồng NQTM, ngoài những nội dung cơ bản của một hợp đồng dân sự hay thương mại (như: quyền và nghĩa vụ của các bên, thời hạn hợp đồng, ...), thường có các nội dung sau: quy định về các khoản thanh toán hợp đồng NQTM; nội dung quyền thương mại được chuyển nhượng; địa điểm kinh doanh; đào tạo; duy trì tính thống nhất của hệ thống NQTM; bảo hiểm; bồi thường; nghĩa vụ nộp thuế; quyền sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại và bí mật thương mại; cạnh tranh; trọng tài; chấm dứt hợp đồng; ... Để thể hiện các nội dung nêu trên, các bên ký kết hợp đồng NQTM có thể soạn thảo các điều khoản, vô tình hoặc cố ý, tạo ra quan hệ thương mại độc quyền, hoặc cạnh tranh không lành mạnh, từ đó có thể vi phạm luật cạnh tranh [3]. Có thể kể đến một số dạng thỏa thuận có thể dẫn đến bóp méo cạnh tranh sau: Thứ nhất, điều khoản về duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM. Theo pháp luật về sở hữu trí tuệ, Điều 144 Khoản 2. c. Luật Sở hữu trí tuệ (2005) không cấm việc các bên trong hợp đồng ký kết điều khoản về duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM. Tuy nhiên, điều khoản này có thể bị coi là một trong các thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo quy định tại Khoản 5 Điều 8 Luật Cạnh tranh (2004). Đó là: “Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ …”. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh (2004), thoả thuận này sẽ bị cấm, nếu “các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên”. Như vậy, nếu các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan dưới 30%, thì thoả thuận về duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM, mặc dù có thể bị coi là thoả thuận hạn chế cạnh tranh, nhưng vẫn được phép thực hiện. Theo kinh nghiệm của pháp luật Hoa Kỳ, điều khoản về duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM, trong những trường hợp cụ thể, có thể bị coi là “thoả thuận ràng buộc”, do đó vi phạm luật chống độc quyền, dẫn tới hậu quả là hợp đồng NQTM trở nên vô hiệu. Tuy nhiên, pháp luật EU lại cho thấy một kinh nghiệm khác. Điều khoản về duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM, được thể hiện bằng những quy định đa dạng tại từng hợp đồng cụ thể, mặc dù có thể vi phạm luật cạnh tranh, nhưng lại có thể được đánh giá là cực kỳ cần thiết để thực hiện quyền kiểm soát hoạt động kinh doanh trong hệ thống NQTM, mà nếu bên nhượng quyền không thực hiện được quyền kiểm soát này thì mô hình kinh doanh không còn là “NQTM”. Điều đó có nghĩa là: nếu một số thoả thuận về duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM thực sự là thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm, thì pháp luật EU đã miễn trừ cho các thoả thuận này khỏi phạm vi cấm của luật cạnh tranh. Theo Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh (2004), thoả thuận về duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM, nếu bị coi là “thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ” và “các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên”, cũng sẽ được miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng điều kiện quy định trong Điều 10 này. Thứ hai, điều khoản về phân chia thị trường. Theo quy định của hợp đồng NQTM, mỗi một bên nhận quyền đều phải tuân thủ sự phân chia thị trường theo quyết định của bên nhượng quyền. Điều khoản về phân chia thị trường trong hợp đồng NQTM thường có hai dạng: Điều khoản về phân chia khu vực kinh doanh; và điều khoản về phân chia khách hàng. Các dạng điều khoản này chắc chắn rơi vào phạm vi điều chỉnh của luật cạnh tranh. - Điều khoản về phân chia khu vực kinh doanh (phân chia lãnh thổ) thể hiện ở “điều khoản về địa điểm bán hàng” (“location clause”). Điều khoản này được thể hiện dưới một số dạng như sau: cấm bên nhận quyền bán hàng ngoài phạm vi của mình; cấm bên nhận quyền mở cửa hiệu thứ hai, trong thời hạn hợp đồng và/hoặc sau khi hết hạn hợp đồng, dưới các hình thức như: cửa hiệu nhượng quyền, đại lý, chi nhánh, văn phòng, hợp danh, liên doanh, ...;cấm bên nhận quyền mở một cửa hiệu có đặc điểm giống hệt hoặc tương tự, trong một khu vực mà anh ta có thể cạnh tranh với một thành viên của hệ thống NQTM, trong thời hạn hợp đồng còn giá trị và trong một thời hạn hợp lý sau khi hết hạn hợp đồng; quy định theo đó bên nhận quyền có nghĩa vụ không chuyển giao cửa hiệu của mình cho bên khác, nếu không có sự chấp thuận từ trước của bên nhượng quyền (quy định này nhằm ngăn cản các đối thủ cạnh tranh hưởng lợi một cách gián tiếp từ việc cung cấp bí quyết và sự hỗ trợ của bên nhượng quyền); bên nhận quyền chỉ được khai thác hệ thống NQTM tại một cơ sở duy nhất; bên nhận quyền có nghĩa vụ không cạnh tranh với bên nhượng quyền và các bên nhận quyền khác trong hệ thống NQTM, không dịch chuyển hàng hoá được cung cấp từ điểm bán hàng này sang điểm bán hàng khác; quy định theo đó: quyền thương mại, mà bên nhượng quyền trao cho bên nhận quyền, là độc quyền trong một phạm vi bán kính nào đó từ ranh giới của các địa điểm bán hàng. Về tổng thể, điều khoản về phân chia khu vực kinh doanh nhằm hạn chế bên nhận quyền cạnh tranh với bên nhượng quyền hoặc với các bên nhận quyền khác. - Điều khoản về phân chia khách hàng được thể hiện dưới một số dạng sau: quy định về nghĩa vụ cơ bản của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền, theo đó đảm bảo việc không tranh giành khách hàng với bên nhận quyền; cấm bên nhận quyền quảng cáo ngoài phạm vi của mình; bên nhận quyền có nghĩa vụ chỉ bán hàng cho người sử dụng cuối cùng hoặc các bên nhận quyền khác; cấm bên nhận quyền bán lại hàng không mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền. Khó có thể chấp nhận được quy định này dưới góc độ tự do cạnh tranh. Quy định này vi phạm luật cạnh tranh ở các điểm sau: thứ nhất, vi phạm quyền kinh doanh độc lập của bên nhận quyền trong việc quyết định bán hàng cho ai; thứ hai, hạn chế nguồn cung của bên thứ ba. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 8 Luật Cạnh tranh (2004), các thoả thuận về phân chia thị trường nêu trên, bao gồm phân chia khu vực kinh doanh và phân chia khách hàng, có thể bị coi là “thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ” - một trong các thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh (2004), thoả thuận hạn chế cạnh tranh này sẽ bị cấm, nếu “các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên”. Như vậy, trong trường hợp các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan dưới 30%, thì mặc dù thoả thuận phân chia thị trường bị coi là thoả thuận hạn chế cạnh tranh, nó vẫn được phép thực hiện. Mặt khác, theo Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh (2004), thoả thuận bị cấm nêu trên có thể được miễn trừ, nếu đáp ứng điều kiện quy định tại điều này. Bên cạnh đó, nếu các bên có thoả thuận theo đó quyền thương mại, mà bên nhượng quyền trao cho bên nhận quyền, là độc quyền trong một khu vực kinh doanh, thì điều này sẽ cản trở bên thứ ba ký kết hợp đồng NQTM để kinh doanh tại khu vực nêu trên. Đây chính là “thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường …” - một thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm, theo quy định tại Khoản 6 Điều 8 và Khoản 1 Điều 9 Luật Cạnh tranh (2004). Thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm này không thuộc diện được miễn trừ theo quy định tại Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh (2004). Thoả thuận này bị coi là thoả thuận hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng (“hard-core restriction”) theo quy định của pháp luật cạnh tranh EU. Thứ ba, điều khoản về “đề xuất” giá bán cho các thành viên của hệ thống NQTM. Thường thấy trong hợp đồng NQTM quy định về ấn định giá bán cho các thành viên của hệ thống NQTM. Khoản 1 Điều 8 Luật Cạnh tranh (2004) quy định “thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp” là một trong các thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh (2004), thoả thuận hạn chế cạnh tranh này sẽ bị cấm, nếu “các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên”. Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh (2004), thoả thuận bị cấm nêu trên có thể được miễn trừ, nếu đáp ứng điều kiện quy định tại điều này. Như vậy, trong trường hợp các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan dưới 30%, thì mặc dù thoả thuận ấn định giá bán bị coi là thoả thuận hạn chế cạnh tranh, nó vẫn có thể được phép thực hiện. Những điều khoản độc quyền trong hợp đồng NQTM, về nguyên tắc, có thể được Luật Cạnh tranh hỗ trợ điều chỉnh. Tuy nhiên, do Luật Cạnh tranh là một văn bản điều chỉnh tổng thể, nên không thể bao quát được hết tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế. Luật Cạnh tranh không thể điều chỉnh được tất cả các hành vi trong hoạt động NQTM có liên quan đến cạnh tranh. (iv) Các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ không phù hợp khi áp dụng cho “hợp đồng nhượng quyền phát triển khu vực” và “hợp đồng nhượng quyền thương mại hai cấp”. Theo logic, những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ được áp dụng cho cả hợp đồng NQTM thông thường (tức là hợp đồng NQTM một cấp trực tiếp giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền) lẫn hợp đồng phát triển khu vực, hợp đồng NQTM sơ cấp và thứ cấp. Tuy nhiên, những quyền và nghĩa vụ đó sẽ hợp lý trong trường hợp của hợp đồng NQTM một cấp thông thường. Còn với tính chất phức tạp của các hợp đồng còn lại, thì khi áp dụng những quy định này, có lẽ không phù hợp và không thể hiện được bản chất của chúng. Có thể tham khảo Bộ quy tắc ứng xử của Liên đoàn NQTM châu Âu (European Franchise Federation - EFF) khi giải quyết vấn đề này. Trong Bộ quy tắc ứng xử đã chỉ rõ: những quy định về quyền và nghĩa vụ trong bộ quy tắc này chỉ áp dụng trong quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền trực tiếp của nó, mà không áp dụng trong quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền sơ cấp. (v) Các quy định về chấm dứt hợp đồng trước thời hạn chưa bao quát được hết các trường hợp có thể xảy ra Điều 16 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định: nếu bên nhận quyền bị giải thể hoặc phá sản, thì hợp đồng NQTM sẽ được chấm dứt trước thời hạn. Tuy nhiên, trường hợp bên nhượng quyền bị giải thể, phá sản, hợp đồng sẽ được xử lý như thế nào thì pháp luật chưa đề cập tới. Nếu công việc kinh doanh của bên nhận quyền vẫn tốt đẹp, liệu bên nhận quyền có phải ngừng khai thác quyền thương mại được chuyển giao hay không, và sự ràng buộc giữa hai bên sẽ như thế nào? 2.2.2. Quy định về việc cung cấp thông tin về hệ thống nhượng quyền thương mại a. Ưu điểm Quy định của pháp luật Việt Nam về việc cung cấp thông tin về hệ thống NQTM, về cơ bản là tương đồng với pháp luật các nước, đáp ứng các chuẩn mực quốc tế (Luật mẫu về thông tin NQTM năm 2002 của UNIDROIT). Theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP, ít nhất 15 ngày làm việc trước khi ký kết hợp đồng, bên nhượng quyền có trách nhiệm cung cấp bản sao hợp đồng NQTM mẫu và bản giới thiệu về NQTM của mình cho bên dự kiến nhận quyền, nếu các bên không có thoả thuận khác. Đây là thời gian phù hợp để bên dự kiến nhận quyền có thể xem xét và cân nhắc về việc có tham gia vào hệ thống nhượng quyền hay không. Việc quy định thời hạn 15 ngày trước khi ký hợp đồng là khá tương đồng với pháp luật nhiều nước trên thế giới (thời hạn này được quy định ở Trung Quốc là 20 ngày trước khi ký hợp đồng [21]; theo pháp luật Mỹ thì bên nhượng quyền phải cung cấp bản công khai thông tin 14 ngày trước khi ký hợp đồng hoặc trước khi bên nhận quyền trả phí cho bên nhượng quyền [22]). Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng quyền còn được đặt ra sau khi hợp đồng đã được ký kết, trong suốt quá trình kinh doanh, nếu như bên nhượng quyền có những thay đổi quan trọng trong hệ thống NQTM mà có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh theo phương thức NQTM của bên nhận quyền. Nội dung bản giới thiệu về NQTM rất quan trọng đối với bên dự kiến nhận quyền trong việc đi đến quyết định có tham gia vào hệ thống NQTM của bên nhượng quyền hay không. Chính vì thế mà nội dung này được pháp luật quan tâm điều chỉnh và được quy định khá chi tiết. Theo Thông tư 09/2006/TT-BTM, bản giới thiệu về NQTM phải được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền và bao gồm các nội dung chi tiết về: - Thông tin chung về bên nhượng quyền, nhãn hiệu hàng hoá/dịch vụ và quyền sở hữu trí tuệ; - Thông tin cụ thể về bên nhượng quyền có liên quan đến hoạt động NQTM; các loại phí và nghĩa vụ tài chính khác của bên nhận quyền; đầu tư ban đầu của bên nhận quyền, nghĩa vụ của bên nhượng quyền và bên nhận quyền; mô tả thị trường của hàng hoá/dịch vụ được kinh doanh theo phương thức NQTM; hợp đồng NQTM mẫu; báo cáo tài chính của bên nhượng quyền; phần thưởng, sự công nhận sẽ nhận được hoặc tổ chức cần phải tham gia. Khoản 3 Điều 8 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP bổ sung thêm nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng quyền thứ cấp cho bên dự kiến nhận quyền thứ cấp trong trường hợp quyền thương mại đã cấp là quyền thương mại chung. Theo đó, ngoài những thông tin trên, bên nhượng quyền thứ cấp còn phải cung cấp thêm thông tin về bên nhượng quyền đã cấp quyền thương mại cho mình; nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại chung; và cách xử lý các hợp đồng nhượng quyền thương mại thứ cấp trong trường hợp chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại chung. Các quy định của pháp luật Việt Nam về thông tin NQTM có thể được coi là một công cụ để tạo ra một môi trường pháp luật an toàn cho tất cả các bên tham gia hợp đồng NQTM, và cho mối quan hệ giữa họ với các cơ quan có thẩm quyền. b. Hạn chế: (i) Quy định về nội dung thông tin cần cung cấp chưa đủ cụ thể để áp dụng Thông tư 09/2006/TT-BTM mới chỉ đưa ra những “tiêu đề” của những thông tin mà bên nhượng quyền cần phải cung cấp. Tuy nhiên, đối với mỗi loại thông tin cần phải có những nội dung gì thì lại chưa được làm rõ. Việc cần phải cung cấp những nội dung gì, mức độ cụ thể và chi tiết đến đâu rất quan trọng. Nếu thông tin cung cấp chỉ ở mức độ sơ lược, sẽ không đủ để bên dự kiến nhận quyền có thể đưa ra được những đánh giá cần thiết để quyết định tham gia vào hợp đồng. Việc chỉ quy định ở mức độ sơ sài những nội dung thông tin cần cung cấp như vậy sẽ có thể gây ra khó khăn cho các bên khi thực hiện. (ii) Quy định về thông tin cần cung cấp dường như chưa nhằm mục đích quảng cáo cho bên nhượng quyền Ở một số nước như Hoa Kỳ, bản giới thiệu về NQTM nhằm thực hiện hai chức năng cơ bản: cung cấp chính xác thông tin liên quan đến NQTM và quảng bá cho bên nhượng quyền. Tuy nhiên, bản giới thiệu về NQTM mẫu do Bộ Thương mại soạn thảo có vẻ hơi cứng nhắc. Các thông tin yêu cầu cung cấp dường như chủ yếu nhằm phục vụ mục đích thống kê, quản lý nhà nước, mà chưa chú ý đến yếu tố quảng cáo cho bên nhượng quyền. 2.2.3. Quy định về đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại Đăng ký là một điều kiện bắt buộc đối với thương nhân để tiến hành hoạt động NQTM. Thông qua việc đăng ký, Nhà nước có cơ sở để quản lý, kiểm tra, giám sát hoạt động NQTM, đánh giá thương nhân có đủ điều kiện kinh doanh NQTM hay không, quyền thương mại dự định chuyển giao có hợp pháp hay không. a. Ưu điểm: Các quy định về đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại tương đối đơn giản và minh bạch Nghị định số 35/2006/NĐ-CP và Thông tư số 09/2006/TT-BTM quy định cụ thể về hồ sơ đăng ký, thủ tục tiếp nhận hồ sơ, thời hạn trả lời của cơ quan tiến hành đăng ký, thủ tục tiến hành đăng ký vào Sổ đăng ký hoạt động NQTM, thủ tục đăng ký lại khi thương nhân chuyển địa chỉ trụ sở chính sang tỉnh khác, thủ tục thay đổi thông tin đăng ký trong hoạt động NQTM, thủ tục xoá đăng ký hoạt động NQTM. Nhìn chung, những quy định của pháp luật về thủ tục đăng ký hoạt động NQTM là tương đối đơn giản và minh bạch theo hướng đơn giản hoá thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho các thương nhân, nhưng vẫn đảm bảo sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động này. b. Hạn chế: Quy định về thủ tục đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại còn một số điểm thiếu sót, có thể gây khó khăn cho việc áp dụng Điều 18 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định cơ quan thực hiện đăng ký hoạt động NQTM cho các trường hợp NQTM trong nước, NQTM từ nước ngoài vào Việt Nam (kể cả hoạt động chuyển giao qua ranh giới Khu chế xuất, Khu phi thuế quan hoặc các khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Việt Nam) và ngược lại. Thế nhưng, trường hợp NQTM từ Khu chế xuất, Khu phi thuế quan,… ra nước ngoài và ngược lại phải đăng ký tại cơ quan nào thì chưa được pháp luật đề cập tới. Bên cạnh đó, hiện vẫn chưa có quy định chính thức về mức lệ phí phải nộp khi đăng ký hoạt động NQTM. Những thiếu sót nêu trên sẽ dẫn đến khó khăn cho các doanh nghiệp khi muốn tiến hành đăng ký, đồng thời gây vướng mắc trong quản lý nhà nước về hoạt động này. 2.2.4. Quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động nhượng quyền thương mại a. Ưu điểm: Pháp luật Việt Nam đã quy định những hành vi bị coi là vi phạm pháp luật hành chính trong hoạt động nhượng quyền thương mại và chế tài xử lý đối với chúng, nhằm đảm bảo một môi trường lành mạnh cho hoạt động nhượng quyền thương mại phát triển Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định các hành vi vi phạm pháp luật hành chính trong hoạt động NQTM của cả bên nhượng quyền và bên nhận quyền, bao gồm: kinh doanh NQTM khi chưa đủ điều kiện quy định; NQTM đối với những hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh; vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hoạt động NQTM; thông tin trong bản giới thiệu về NQTM có nội dung không trung thực; vi phạm quy định về đăng ký hoạt động NQTM; vi phạm quy định về thông báo trong hoạt động NQTM; không nộp thuế theo quy định của pháp luật mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự; không chấp hành các yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi tiến hành kiểm tra, thanh tra; vi phạm các quy định khác của Nghị định số 35/2006/NĐ-CP. Tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm, chế tài áp dụng có thể bao gồm xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính, phải bồi thường thiệt hại nếu hành vi vi phạm gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác. b. Hạn chế: Các quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động nhượng quyền thương mại chỉ mang tính nguyên tắc, chưa đủ cụ thể để áp dụng trong thực tiễn Về nguyên tắc, trong trường hợp có vi phạm pháp luật, thì tuỳ theo tính chất và mức độ vi phạm, chủ thể vi phạm có thể bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật xử lý vi phạm hành chính; phải bồi thường thiệt hại trong trường hợp hành vi vi phạm gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác; hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu hành vi vi phạm cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, trong thực tiễn, nếu chủ thể có hành vi vi phạm pháp luật thì khó có thể xử lý bởi tính chất khung, nguyên tắc, của các quy định về khía cạnh này trong hoạt động NQTM. Theo kinh nghiệm của các nước, việc xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động NQTM được cả pháp luật lẫn học thuyết quan tâm. Theo Jean-Marie Leloup [15], có hai loại vi phạm dẫn đến việc bóp méo hoạt động NQTM. Thứ nhất, các bên không hiểu bản chất của phương pháp hợp tác giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Vi phạm loại này có thể do lỗi của cả bên nhượng quyền lẫn bên nhận quyền. Xuất phát từ phía bên nhượng quyền, đó có thể là những hành vi gây ảnh hưởng đến tính độc lập của bên nhận quyền, coi bên nhận quyền như người làm công ăn lương, và áp đặt sự kiểm soát trái với tinh thần của hoạt động NQTM, theo đó đây phải là mối quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp độc lập về pháp lý. Nếu bên nhượng quyền đối xử với bên nhận quyền như người làm công ăn lương của mình, thì thực chất đây là sự trốn tránh ký kết hợp đồng lao động, mà thay thế nó bằng “hợp đồng NQTM trá hình”. Cái lợi của bên nhượng quyền là không phải thực hiện nghĩa vụ của người sử dụng lao động (về tài chính, trách nhiệm xã hội,...). Chẳng hạn: một lái xe, không phải là chủ sở hữu của phương tiện, không có giấy phép vận tải, không đăng ký tại cơ quan đăng ký kinh doanh, đã được người sử dụng lao động trao cho “quy chế của bên nhận quyền”. Trên thực tế, có nhiều người lao động thực sự vô sản, do đó khó có thể nói về “tính độc lập của bên nhận quyền”. Để phân biệt giữa một người làm công ăn lương và một bên nhận quyền, cần bám sát các đặc trưng của hệ thống NQTM, theo đó bên nhận quyền có nghĩa vụ tuân thủ trung thành mô hình kinh doanh của bên nhượng quyền, phải duy trì tiêu chuẩn về hình ảnh và chất lượng dịch vụ của hệ thống NQTM. Trong trường hợp bên nhận quyền là pháp nhân, nếu bên nhượng quyền tham gia góp vốn vào doanh nghiệp nhận quyền, thì bên nhượng quyền sẽ thực hiện được một sự kiểm soát thực sự, hoặc có vai trò lớn trong quản lý hoạt động của doanh nghiệp nhận quyền, hoặc can thiệp vào hoạt động quản lý của doanh nghiệp nhận quyền. Bên cạnh đó, vi phạm cũng có thể xuất phát từ phía bên nhận quyền. Một số bên nhận quyền có quan điểm rất ấu trĩ khi cho rằng: chỉ cần ký hợp đồng NQTM là có thể kinh doanh thành công. Đến khi hoạt động kinh doanh không thuận lợi, bên nhận quyền cho rằng đó là do lỗi của bên nhượng quyền, từ chối thanh toán các khoản tiền, và thậm chí còn liều lĩnh đòi hỏi bên nhượng quyền phải gánh vác những khoản lỗ. Thứ hai: Một trong các bên cố tình lợi dụng hoạt động NQTM bằng các hành vi không trung thực. Các hành vi không trung thực có thể do bên nhượng quyền hoặc bên nhận quyền thực hiện. “Bên nhượng quyền giả hiệu” thường thực hiện các hành vi như: thu tiền gia nhập hệ thống NQTM, sau đó biến mất; thiết lập hệ thống kinh doanh chỉ với một mục đích là tuyển chọn bên nhận quyền, mà không hề đưa ra thị trường bất cứ hàng hoá hoặc dịch vụ gì; tìm cách kéo dài sự tồn tại của doanh nghiệp sắp phá sản theo kiểu gian lận, bằng cách chào bán quyền thương mại cho bên nhận quyền. Theo Điều 405 Bộ luật Hình sự Pháp, “bên nhượng quyền giả hiệu” có thể phải chịu chế tài theo tội lừa đảo. “Bên nhận quyền giả hiệu” thường thực hiện âm mưu chiếm đoạt bí quyết của bên nhượng quyền theo kiểu gián điệp thâm nhập vào hệ thống NQTM để nắm bắt bí quyết. Theo luật của Pháp, hành vi này có thể là đối tượng của khởi kiện dân sự chống lại hành vi cạnh tranh không lành mạnh, hoặc khởi tố hình sự liên quan đến các tội phạm, như: tội tiết lộ bí mật sản xuất (Điều 418 Bộ luật Hình sự Pháp); tội tham nhũng thụ động (Điều 177 Bộ luật Hình sự Pháp) (áp dụng đối với nhân viên của công ty, nếu người này có hành vi tham nhũng nhằm mục đích tiết lộ bí quyết); tội lạm dụng tín nhiệm (Điều 405 Bộ luật Hình sự Pháp); tội trộm (Điều 379 Bộ luật Hình sự Pháp). Nếu trong hoạt động NQTM ở Việt Nam xảy ra các hành vi vi phạm nêu trên, liệu pháp luật Việt Nam có điều chỉnh được hay không? KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 1. Với Luật Thương mại 2005, Nghị định số 35/2006/NĐ-CP, Thông tư số 09/2006/TT-BTM, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Cạnh tranh, … một khung pháp lý cho hoạt động NQTM tại Việt Nam đã hình thành và bước đầu phát huy hiệu quả. 2. Các quy định pháp luật Việt Nam về hợp đồng NQTM đã làm rõ về điều kiện trở thành chủ thể tham gia hợp đồng NQTM, từ đó góp phần làm giảm rủi ro của các bên trong quan hệ kinh doanh. Việc pháp luật quy định hợp đồng NQTM phải thể hiện dưới hình thức văn bản cũng tạo thuận lợi cho các bên xác định và thực hiện những quyền và nghĩa vụ của mình, trong khi các quan hệ NQTM còn mới mẻ và phức tạp. Các quy định về nội dung hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng NQTM, các trường hợp chấm dứt hợp đồng NQTM trước thời hạn về cơ bản là phù hợp với pháp luật các nước. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm nêu trên, các quy định về hợp đồng NQTM vẫn còn một số hạn chế. Rõ nét nhất là việc pháp luật Việt Nam chưa giải quyết được mối quan hệ giữa NQTM và cạnh tranh. Bên cạnh đó, các quy định về quyền và nghĩa vụ chưa phù hợp nếu áp dụng cho các hợp đồng NQTM hai cấp; các quy định về chấm dứt hợp đồng NQTM trước thời hạn chưa lường trước được hết những trường hợp có thể xảy ra. 3. Các quy định về cung cấp thông tin về hệ thống NQTM, các quy định về đăng ký hoạt động NQTM, về cơ bản là phù hợp với chuẩn mực quốc tế, là công cụ đảm bảo an toàn trong hoạt động NQTM cho các bên với nhau và với cơ quan có thẩm quyền. Mặc dù vậy, các quy định về cung cấp thông tin về hệ thống NQTM cần được cân nhắc thêm cho phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Các quy định về đăng ký hoạt động NQTM còn một số thiếu sót cần sớm được bổ sung để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động NQTM và cho hoạt động quản lý của các cơ quan Nhà nước. 4. Nhược điểm rõ nhất của các quy định về xử lý vi phạm trong hoạt động NQTM là: chúng chưa đủ cụ thể để áp dụng trong thực tiễn. 5. Như vậy, pháp luật điều chỉnh hoạt động NQTM mới chỉ hình thành và đang phát triển ở bước đầu. Những quy định còn ở mức mang tính chất khung, và còn nhiều vấn đề chưa được đề cập tới. Những hạn chế của pháp luật làm thị trường Việt Nam giảm đi sự hấp dẫn, dù rất nhiều tiềm năng. Trong thời gian tới, cần tiếp tục có những sửa đổi và hoàn thiện pháp luật, để tạo thuận lợi cho hoạt động NQTM phát triển và đem lại lợi ích cho nền kinh tế. CHƯƠNG 3 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM 3.1. QUAN ĐIỂM VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI NQTM đã xuất hiện ở Việt Nam từ đầu những năm 1990 và có những bước đi không mấy ấn tượng trong suốt hơn 10 năm tiếp theo. Sau khi Việt Nam gia nhập WTO và một khung pháp luật cho hoạt động NQTM được hình thành, phương thức kinh doanh này đã có một sự phát triển mới. Số hợp đồng NQTM tăng vọt và dự kiến tốc độ tăng trưởng của NQTM có thể đạt tới trên 20% mỗi năm. Trong bối cảnh đó, việc tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật về NQTM, tạo ra một môi trường pháp lý phù hợp, thuận lợi cho NQTM phát triển là rất cần thiết. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về NQTM trong thời gian tới không thể được đưa ra một cách tùy tiện, mà phải dựa trên những quan điểm và định hướng mang tính khoa học. Đó là những quan điểm và định hướng sau đây: 3.1.1. Quan điểm thực tiễn và đáp ứng được xu hướng phát triển của hoạt động nhượng quyền thương mại ở nước ta (quan điểm thực tiễn và phát triển) Thứ nhất, pháp luật về NQTM phải được hoàn thiện trên cơ sở phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội. Pháp luật không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ kinh tế. Chỉ khi phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội cụ thể, pháp luật mới phát huy tác dụng thúc đẩy hoạt động NQTM phát triển. Theo đánh giá của nhiều nhà chuyên môn, pháp luật tại Việt Nam hiện nay vẫn đang đi sau sự phát triển của hoạt động NQTM. Chính vì vậy, trong thời gian tới, pháp luật về NQTM cần tiếp tục hoàn thiện đáp ứng nhu cầu phát triển của hoạt động này. Thứ hai, pháp luật về NQTM phải được hoàn thiện căn cứ vào xu hướng phát triển của chúng. Để không bị rơi vào tình trạng không theo kịp thực tiễn, pháp luật cần phải dự liệu được sự phát triển của NQTM trong tương lai, thậm chí định hướng được cho sự phát triển của hoạt động này. Nói cách khác, việc hoàn thiện pháp luật về NQTM phải kết hợp chặt chẽ giữa những mục tiêu cơ bản, lâu dài, với việc đáp ứng nhu cầu giải quyết những nhiệm vụ cụ thể, trước mắt. 3.1.2. Quan điểm về đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước Quá trình hoàn thiện pháp luật NQTM phải luôn quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về đường lối phát triển kinh tế. Đường lối phát triển kinh tế của nước ta trong hai mươi năm đầu của thế kỷ XXI được thể hiện một cách toàn diện trong Báo cáo chính trị tại Đại hội IX của Đảng và được tiếp tục phát triển trong văn kiện Đại hội Đảng X. Một quan điểm được Đảng ta quán triệt là phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả các loại thị trường cơ bản: thị trường hàng hoá và dịch vụ, thị trường lao động, thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường khoa học và công nghệ. Do đó, chiến lược xây dựng luật của Việt Nam là phải tạo một khuôn khổ pháp lý cho việc tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường của một nền kinh tế thị trường mở. Cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện các lĩnh vực pháp luật như: pháp luật về thương mại dịch vụ, trong đó có pháp luật về NQTM; pháp luật về tài chính, ngân hàng, các giao dịch bảo đảm; pháp luật về sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ; pháp luật về hợp đồng; pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh và kiểm soát độc quyền; pháp luật về xây dựng; đất đai, sử dụng tài nguyên thiên nhiên; ... Quan điểm nổi bật của Đảng và Nhà nước ta từ Đại hội Đảng IX (2001) trở lại đây là: chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả nền kinh tế. Một trong những nội dung của chủ động hội nhập kinh tế quốc tế là chủ động hội nhập trong lĩnh vực pháp luật, đặc biệt là pháp luật thương mại, trong đó có pháp luật về NQTM. 3.1.3. Đảm bảo tính đồng bộ của cả hệ thống pháp luật Hoạt động NQTM, do tính chất đặc thù của mình, có liên quan đến rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật NQTM phải gắn liền với việc hoàn thiện các quy định pháp luật có liên quan, đảm bảo tính đồng bộ của cả hệ thống pháp luật. Pháp luật NQTM phải đồng bộ với pháp luật cạnh tranh, pháp luật về sở hữu trí tuệ, pháp luật về chuyển giao công nghệ, pháp luật đầu tư, pháp luật về thương mại dịch vụ, nhất là dịch vụ phân phối, dịch vụ quảng cáo, pháp luật về thuế, pháp luật về lao động, pháp luật về phá sản… Chỉ khi đảm bảo được sự đồng bộ, thống nhất, khắc phục được những mâu thuẫn, chồng chéo giữa các quy định pháp luật, hoạt động NQTM mới thực sự có được một môi trường pháp lý thuận lợi để phát triển. 3.1.4. Đảm bảo tính tương thích với pháp luật các nước và pháp luật quốc tế Việc hoàn thiện pháp luật về NQTM phải bám sát yêu cầu bảo đảm thực hiện nghiêm túc nội dung các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc trong quan hệ quốc tế. Tính tương thích giữa pháp luật nước ta nói chung, và pháp luật về NQTM nói riêng, với pháp luật các nước và pháp luật quốc tế, là một tiền đề không thể thiếu trong việc tạo dựng nền tảng pháp luật cho hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực của nước ta. Một trong những cam kết quốc tế mà Việt Nam phải tuân thủ, đó là: pháp luật nước ta phải tạo một “sân chơi” bình đẳng cho các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài. Cam kết này có tác động trực tiếp đến việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về NQTM. Pháp luật về NQTM cần được xây dựng theo hướng đảm bảo một mặt bằng pháp lý thống nhất giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài. Đây là một yêu cầu xuất phát từ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, từ nghĩa vụ thực hiện các cam kết của Việt Nam và xuất phát từ chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài của Đảng và Nhà nước ta. Khi Việt Nam gia nhập WTO, có nhiều quan điểm lo ngại về năng lực cạnh tranh của một số ngành hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam. Với phương thức NQTM, nhiều “đại gia” trên thế giới sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường và đè bẹp những “con cá bé”, do đó cần nhiều biện pháp bảo hộ cho các doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, ngoài lợi thế về quy mô, các tập đoàn nước ngoài còn phải vượt qua các rào cản về truyền thống, yếu tố tâm lý của khách hàng Việt Nam - vốn không dễ thay đổi một sớm một chiều, mà đây lại là lợi thế của các doanh nghiệp trong nước. Mặt khác, một “sân chơi” bình đẳng sẽ tạo môi trường buộc các doanh nghiệp trong nước phải nhanh chóng tự hoàn thiện chính mình để nâng cao năng lực cạnh tranh. Do đó, pháp luật về NQTM cần tạo ra một môi trường pháp lý bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Để thực hiện được định hướng đảm bảo tính tương thích với pháp luật quốc tế và pháp luật các nước khi hoàn thiện pháp luật nước ta về NQTM, cần phải đáp ứng được các yêu cầu sau đây: (i) Rà soát, đối chiếu với các quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật các nước để xem xét việc sửa đổi các quy định của pháp luật Việt Nam; (ii) Ban hành mới các văn bản pháp luật về NQTM và lĩnh vực liên quan theo hướng tương thích với pháp luật quốc tế và pháp luật các nước. 3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM Hoàn thiện pháp luật về NQTM ở nước ta là một quá trình đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề, trên những phương diện khác nhau. Sau đây là một số kiến nghị về mặt pháp luật: 3.2.1. Cần có những quy định pháp luật cụ thể hơn, chi tiết hơn để điều chỉnh hoạt động nhượng quyền thương mại Có một số quan điểm cho rằng không cần quản lý hoạt động NQTM trong nước. Một số khác lại cho rằng nếu cần quản lý thì chỉ cần quy định về cung cấp thông tin, chứ không cần quy định về quan hệ giữa hai bên [2]. NQTM là một hoạt động có tính chất rất phức tạp và dễ phát sinh tranh chấp. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, đây là một hoạt động còn khá mới mẻ, các doanh nghiệp còn thiếu nhiều kinh nghiệm, nên việc tiến hành hoạt động này càng gặp nhiều khó khăn và dễ nảy sinh tranh chấp hơn. Thực tế cho thấy ở những nước mà hoạt động NQTM phát triển thì đi kèm theo đó là hệ thống pháp luật quy định đầy đủ, chi tiết về hoạt động này. Do đó, các quy định của pháp luật về NQTM của Việt Nam không nên chỉ dừng lại ở mức độ các quy định khung. Cần phải tiếp tục bổ sung, quy định cụ thể và làm rõ hơn nữa một số vấn đề cần thiết, để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho các doanh nghiệp khi tiến hành kinh doanh NQTM một cách thuận lợi và tránh những rủi ro không đáng có. 3.2.2. Phải giải quyết được mối quan hệ giữa nhượng quyền thương mại và cạnh tranh bằng một văn bản pháp luật riêng Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam đã có các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động NQTM, hoạt động chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ và hoạt động cạnh tranh. Tuy nhiên, việc áp dụng phối hợp các văn bản này không phải lúc nào cũng thực hiện được trong thực tiễn. Về nguyên tắc, Luật Cạnh tranh có thể hỗ trợ điều chỉnh hoạt động NQTM. Những quy định về vấn đề hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh mang tính định tính như: thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ; thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp; thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát triển kinh doanh... luôn đúng với tất cả mọi ngành kinh tế. Nhưng khi bắt đầu đi vào lĩnh vực NQTM, do đây là một hoạt động phức tạp với nhiều đặc thù riêng, việc áp dụng lại trở nên khó khăn. Kết quả tham khảo kinh nghiệm của các nước phát triển đã đi trước chúng ta trong các lĩnh vực này cho thấy: pháp luật của họ có giải pháp để giải quyết được mối quan hệ phức tạp giữa NQTM và cạnh tranh. Trong pháp luật Mỹ, bên cạnh các văn bản về chống độc quyền, các án lệ cũng đóng góp tích cực vào việc tạo ra khuôn khổ pháp luật để giải quyết mối quan hệ giữa NQTM và vấn đề độc quyền [15, tr. 772-805]. Pháp luật EU có văn bản riêng để điều chỉnh vấn đề này. Ngay từ khi thành lập năm 1957, EEC đã có quy định chung của cộng đồng về chống độc quyền, tại các Điều 85, 86 và một số điều khoản khác của Hiệp ước EC, nay là các Điều từ 81 đến 89 Hiệp ước EC sửa đổi. Tuy nhiên, thực tiễn hội nhập kinh tế khu vực và phát triển kinh tế của EU cho thấy: các Điều từ 81 đến 89 nêu trên không thể bao quát hết và điều chỉnh đầy đủ các lĩnh vực phức tạp của hoạt động thương mại có thể phát sinh độc quyền. Các tranh chấp trong khuôn khổ Toà án châu Âu vào những năm 80 của thế kỷ XX cho thấy: Nhiều hợp đồng NQTM ở châu Âu trong thời kỳ này đã “chạy thoát” khỏi phạm vi điều chỉnh của Điều 81. Do đó, cần phải có những quy định của luật cộng đồng điều chỉnh riêng về NQTM để hỗ trợ cho Điều 81. Nói cách khác, phải có quy định pháp luật giải quyết mối quan hệ giữa NQTM và cạnh tranh. Trong cơ cấu Điều 81 Hiệp ước EC: - Khoản 1 quy định về các hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm. Hợp đồng NQTM thường là thuộc phạm vi điều chỉnh của Khoản 1 này. - Khoản 3 quy định về các trường hợp miễn trừ. Khi giải quyết mối quan hệ giữa NQTM và cạnh tranh, nhà lập pháp châu Âu thấy rằng: hợp đồng NQTM làm phát sinh độc quyền (do đó thuộc phạm vi điều chỉnh của Khoản 1 Điều 81), tuy nhiên hợp đồng NQTM mang lại lợi ích nhất định cho cộng đồng, bởi vì hợp đồng NQTM góp phần phát triển kinh tế, tạo việc làm cho người lao động, và thoả mãn nhu cầu người tiêu dùng. Do đó, sự độc quyền phát sinh từ hợp đồng NQTM có thể chấp nhận được theo quy định của Khoản 3 Điều 81. Vì vậy, cần phải xây dựng một Quy chế áp dụng Điều 81 Khoản 3 đối với hợp đồng NQTM. Uỷ ban châu Âu đã ban hành Nghị định số 4087/88 về việc áp dụng Điều 81 Khoản 3 đối với hợp đồng NQTM, theo đó một số hạn chế cạnh tranh trong hợp dồng NQTM được tự động miễn trừ. Cuối năm 1999, đầu năm 2000, trên cơ sở cải cách pháp luật cạnh tranh của EU, Uỷ ban châu Âu ban hành Nghị định số 2790/1999 về việc áp dụng Điều 81 Khoản 3 cho các thoả thuận theo chiều dọc và Hướng dẫn đối với Nghị định này để điều chỉnh các hợp đồng NQTM [5]. Pháp luật của nhiều nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia… đều có những quy định riêng điều chỉnh khía cạnh cạnh tranh trong hoạt động NQTM. [2] Xuất phát từ đặc điểm của hoạt động NQTM và trên cơ sở kinh nghiệm của pháp luật các nước, có thể thấy, pháp luật Việt Nam nên có những quy định pháp luật riêng để giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật cạnh tranh và pháp luật về NQTM. Khi điều chỉnh những hành vi hạn chế cạnh tranh trong hoạt động NQTM, có thể cân nhắc xem xét một số điểm sau: Thứ nhất, pháp luật cần phải xác định được các dạng hành vi làm bóp méo cạnh tranh khác nhau có thể xảy ra khi tiến hành hoạt động NQTM. Các dạng hành vi tiêu biểu có thể kể đến là: thỏa thuận nhằm duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM, thỏa thuận phân chia khu vực kinh doanh, thỏa thuận phân chia khách hàng, thỏa thuận ấn định giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ của bên nhận quyền… Cần có miêu tả cụ thể, làm rõ đối với từng dạng hành vi để tạo thuận lợi cho việc áp dụng. Thứ hai, quy định cụ thể những hành vi bị cấm, những hành vi được phép thực hiện và giới hạn được phép của những hành vi đó. Khi xem xét việc ngăn cấm hay cho phép thực hiện các hành vi này, cần có sự cân nhắc giữa tác động bất lợi của chúng đối với sự cạnh tranh và những lợi ích mà chúng mang lại, đó là tác dụng cần thiết để thực hiện quyền kiểm soát của bên nhượng quyền đối với hệ thống NQTM, duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống, thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển, từ đó góp phần phát triển kinh tế, tạo ra việc làm cho người lao động. Ví dụ: có thể cho phép các bên thoả thuận theo đó bên nhượng quyền có thể buộc bên nhận quyền phải mua những hàng hoá, nguyên liệu mà chúng có liên quan mật thiết, đóng vai trò quan trọng tạo nên chất lượng đặc trưng của hàng hoá/dịch vụ là đối tượng của quyền thương mại (ví dụ như 11 loại gia vị trong món gà rán của KFC là thành phần bắt buộc các bên nhận quyền phải mua từ bên nhượng quyền mà không vi phạm pháp luật). Việc quy định cụ thể những giới hạn này sẽ tạo cơ sở cho các chủ thể khi tiến hành ký kết hợp đồng đảm bảo quyền lợi chính đáng của các bên. Thứ ba, cần làm rõ khái niệm thị phần kết hợp trong NQTM. Thị trường được xác định đó là thị trường của hàng hóa/dịch vụ do các bên nhận quyền bán, thị trường của quyền thương mại, hay là thị trường của quyền thương mại chung? Quyền thương mại được nhượng bao gồm một gói các yếu tố khác nhau. Vậy, thị phần sẽ được tính như thế nào? Ví dụ như đối với hoạt động nhượng quyền hệ thống nhà hàng phục vụ đồ ăn nhanh, thì đó là phần trăm thị trường của bánh hamburger, của đồ ăn nhanh, hay của dịch vụ nhà hàng? 3.2.3. Cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng quyền Thứ nhất, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể những nội dung cần cung cấp trong Bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại. Việc miêu tả cụ thể các thông tin cần cung cấp là cần thiết để tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng. Luật mẫu về thông tin nhượng quyền thương mại do Viện quốc tế về thống nhất luật tư (UNIDROIT) ban hành có bản hướng dẫn, giải thích hết sức chi tiết nội dung những thông tin mà bên nhượng quyền phải cung cấp. Quy định về Bản giới thiệu về nhượng quyền thương mại của Ủy ban Thương mại Liên bang Hoa Kỳ, có hiệu lực ngày 1 tháng 7 năm 2007, khi đưa ra 19 loại thông tin mà bên nhượng quyền phải cung cấp cho bên dự kiến nhận quyền, đối với mỗi loại thông tin đều làm rõ chi tiết bằng một số hoặc thậm chí rất nhiều đề mục. Các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng quyền phải đủ cụ thể, chi tiết để bên dự kiến nhận quyền có thể đánh giá hệ thống nhượng quyền. Mặt khác, các quy định này cũng phải đảm bảo không can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của bên nhượng quyền, đảm bảo quyền tự do kinh doanh của bên nhượng quyền. Thứ hai, khi quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin về hệ thống NQTM, cần quan tâm hơn đến yếu tố quảng bá cho bên nhượng quyền. Mặt khác, phải cân đối giữa mục tiêu thu hút đầu tư nước ngoài và mục tiêu bảo vệ bên nhận quyền - thường là các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. 3.2.4. Cần bổ sung thêm một số trường hợp chấm dứt hợp đồng nhượng quyền thương mại trước thời hạn và quy định rõ hơn sự ràng buộc giữa các bên sau khi hợp đồng chấm dứt Cần tiếp tục hoàn chỉnh các quy định về chấm dứt hợp đồng NQTM trước thời hạn, đảm bảo bao quát được tất cả những trường hợp có thể xảy ra. Ví dụ, trường hợp bên nhượng quyền là cá nhân chết mà không có người thừa kế, bên nhượng quyền là tổ chức bị phá sản, giải thể theo quy định của pháp luật… Đây là những trường hợp có thể xảy ra mà pháp luật chưa đề cập đến. Đồng thời với việc bổ sung này, pháp luật cũng cần phải giải quyết hậu quả pháp lý sau khi hợp đồng chấm dứt sao cho có lợi nhất đối với cả các bên và nền kinh tế. 3.2.5. Cần quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động nhượng quyền thương mại cụ thể hơn, để có thể áp dụng được trong thực tiễn Trong pháp luật Canada, mức chế tài hình sự đối với người vi phạm trong hoạt động NQTM được quy định rõ tại Mục 34 Đạo luật về NQTM của Bang Alberta (Canada) (1980), theo đó: phạt tiền tối đa 2.000 USD hoặc phạt tù tối đa 1 năm đối với cá nhân, phạt tiền tối đa 25.000 USD đối với pháp nhân [12, tr. 772-805]. Trong pháp luật về NQTM của Việt Nam không có những quy định cụ thể, chi tiết theo kiểu nêu trên. Cần quy định rõ các chế tài trong các văn bản pháp luật. Nếu có riêng một văn bản pháp luật về NQTM, ví dụ Luật về NQTM, thì phải quy định rõ các chế tài dân sự, hành chính, hình sự. Cách thiết kết này tương tự như kỹ thuật lập pháp trong việc xây dựng Luật Sở hữu trí tuệ (2005) và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tác giả đề tài cho rằng kiến nghị này có tính khả thi. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 1. Quá trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật về NQTM phải dựa trên những quan điểm và định hướng mang tính khoa học. Pháp luật NQTM phải phù hợp với những đặc điểm cụ thể của hoạt động NQTM, đồng thời phải có tính dự báo, định hướng cho hoạt động này phát triển. Mặt khác, khi đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, cần phải quán triệt đường lối phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước. 2. Trên cơ sở những quan điểm đó, phải vạch ra được những định hướng chủ yếu của việc hoàn thiện pháp luật về NQTM. Việc hoàn thiện pháp luật về NQTM cần theo định hướng đảm bảo tính đồng bộ của cả hệ thống pháp luật; đảm bảo tính tương thích với pháp luật quốc tế và pháp luật các nước. 3. Xuất phát từ những quan điểm và định hướng nêu trên, đề tài đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về NQTM. Ví dụ: cần có những quy định pháp luật cụ thể hơn, chi tiết hơn để điều chỉnh hoạt động NQTM; phải giải quyết được mối quan hệ giữa NQTM và cạnh tranh bằng một văn bản pháp luật riêng; cần tiếp tục hoàn thiện các quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng quyền; bổ sung thêm một số trường hợp chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và làm rõ hậu quả pháp lý của việc chấm dứt hợp đồng; cần quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động NQTM cụ thể hơn, để có thể áp dụng được trong thực tiễn; … Các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về NQTM được đưa ra trên cơ sở đánh giá những hạn chế của pháp luật nước ta trong lĩnh vực này, và tiếp thu có chọn lọc những kinh nghiệm pháp luật của các nước trên thế giới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNQTM.TTH.doc
Tài liệu liên quan