Niên luận Nguyên tắc giúp đỡ giữa các quốc gia trong thời kỳ hội nhập hiện nay

PHẦN MỞ ĐẦU 1) Lý do chọn đề tài. Bước sang thế kỷ XXI, chúng ta đang đứng trước thời cơ mới. Nhân loại đang từng bước đi vào sử dụng tri thức cho phát triển và đang hình thành nền kinh tế giựa vào tri thức, sử dụng nhanh và gần như trực tiếp các thành tựu khoa học công nghệ vào phục vụ sản xuất đời sống. Đó là điều mà Các-Mác đã tiên đoán cách đây 150 năm về khả năng đưa khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Bước sang thế kỷ XXI, đây cũng là thời kỳ đang diễn ra quá trình biến đổi từ một nền kinh tế thế giới bao gồm nhiều nền kinh tế quốc gia sang nền kinh tế toàn cầu, từ sự phát triển kinh tế theo chiều rộng sang phát triển kinh tế theo chiều sâu. Những thành tựu khoa học và công nghệ đã cho thấy loài người đang quá độ từ nền sản xuất vật chất sang nền sản xuất tinh thần-cơ sở vật chất của xã hội tương lai. Và xu hướng quốc tế hoá ra đời như một nhu cầu tất yếu của tất cả các quốc gia trên thế giới. Nền kinh tế thế giới đang phát triển thành một thể thống nhất tuy vẫn bao gồm các mặt đối lập và mâu thuẫn nhau. Những quan hệ kinh tế thế giới vốn có những sức mạnh không thể cưỡng lại. Thực tế trong nhiều thập kỷ qua kể từ khi chủ nghĩa xã hội ra đời, sự đối đầu giữa hai hệ thống kinh tế xã hội đã đưa nền kinh tế thế giới đến những quy cơ to lớn chưa thể lường hết được, trái với xu thế khách quan quốc tế đang phát triển. Ngay trong thời kỳ chiến tranh lạnh và đối đầu gay gắt, các quan hệ kinh tế Đông - Tây vẫn tồn tại bất chấp ý chí của các chính phủ. Trong các điều kiện mới hiện nay, kinh tế các nước vừa phát triển vừa tăng cường liên kết. Mỗi nước không chỉ tăng cường tiềm lực kinh tế của mình, mà còn mở rộng buôn bán với các nước khác. Chính xu hướng hội nhập hiện nay đã buộc tất cả các quốc gia trên thế giới muốn phát triển thì phải tham gia vào sân chơi toàn cầu, nó cũng đặt ra nguyên tắc: các quốc gia phải có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển. Và Việt Nam cũng là một quốc gia không nằm ngoài quy luật đó. Việc nghiên cứu đề tài này có ý nghĩa quan trọng khi Việt Nam tham gia vào nền kinh tế thế giới, điều đó đồng nghĩa với việc phải tuân thủ các nguyên tắc và luật chơi chung. Vì vậy tôi chọn đề tài này để nghiên cứu. 2) Mục đích nghiên cứu. Tôi chọn vấn đề "nguyên tắc giúp đỡ giữa các quốc gia trong thời kỳ hội nhập" làm đề tài nghiên cứu của mình với mục đích đáp ứng các nhu cầu hiểu biết của bản thân và đông đảo công chúng trong xã hội về nguyên tắc giúp đỡ lẫn nhau giữa các quốc gia trong thời kỳ hội nhập, cũng như mong muốn đóng góp ý kiến mang tích chất xây dựng đối với công cuộc hoạch định chính sách và đường lối đối ngoại của Đảng và nhà nước trong bối cảnh hiện nay, khi Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại quốc tế( WTO). 3) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. Đề tài này lấy nguyên tắc trong quan hệ quốc tế hiện nay, cụ thể là nguyên tắc giúp đỡ giữa các quốc gia trong thời kỳ hội nhập làm đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu giới hạn trong mối quan hệ giữa các quốc gia trong thời kỳ hội nhập. Và giới hạn trong các nguyên tắc của luật quốc tế. 4) Phương pháp nghiên cứu. Trong quá trình nghiên cứu của mình, tôi sử dụng phương pháp duy vật biện chứng làm phương pháp nghiên cứu xuyên suốt. Đồng thời tôi cũng sử dụng các phương pháp bổ trợ khác như: phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh, các phương pháp điều tra, đánh giá, phương pháp lịch sử để cố gắng thực hiện tốt nhất, lý giải đúng đắn vấn đề cần nghiên cứu. 5) Bố cục. Niên luận gồm 3 phần: a) Phần mở đầu. 1) Lý do chọn đề tài. 2) Mục đích nghiên cứu. 3) Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. 4) phương pháp nghiên cứu. 5) Bố cục. b) Phần nội dung. Gồm 2 chương: Chương 1: cở sở lý luận và nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong quan hệ quốc tế. Chương 2: Xu thế hội nhập kinh tế và ý nghĩa của nguyên tắc giúp đỡ lẫn nhau trong bối cảnh hiện nay. Chương 3: Việc áp dụng nguyên tắc giúp đỡ lẫn nhau vào đường lối đối ngoại của Việt Nam và giải pháp nâng cao chất lượng quan hệ quốc tế, tăng cường sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau đối với các quốc gia trên thế giới. c) Phần kết luận.

doc28 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1553 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Niên luận Nguyên tắc giúp đỡ giữa các quốc gia trong thời kỳ hội nhập hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đều tiến hành cải tổ với các mức độ khác nhau, mà việc cải tổ kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia hoà nhập với trào lưu cải tổ, cải cách chung của thế giới.xu hướng cải tổ ở khu vực này nhằm chủ yếu vào việc mở cửa nền kinh tế với bên ngoài, thực hiện chính sách thu hẹp kinh tế quốc gia, mở rộng kinh tế tư nhân, tuy vẫn giữ quyền điều tiết và kiểm soát của Nhà nước đối với các hoạt động kinh tế, tăng cường đấu tranh cho một trật tự kinh tế quốc tế, phi chính trị hoá các hoạt động , quan hệ quốc tế về mặt kinh tế. Trên cái nền chung đó cải tổ kết cấu kinh tế xã hội và tăng cường các biện pháp điều tiết vĩ mô là xu hưỡng chủ yếu của hầu hết các quốc gia đang phát triển. Cuộc cải tổ, cải cách kinh tế được thực hiện theo hai hướng chính: cải tổ toàn diện và cải tổ kết cấu toàn phần. Cải tổ kết cấu toàn diện tức là cải tổ cả trên hai lĩnh vực kinh tế- xã hội. Phần lớn các quốc gia theo xu hướng này là các quốc gia đông dân, nền kinh tế xã hội khủng hoảng sâu sắc, đòi hỏi chính phủ phải tiến hành song song cả chính sách đối nội lẫn chính sách đối ngoại. Điển hình như các nước Mehico, Brazin, Argentina, Angieri. Mục tiêu dặt ra với cải tổ toàn diện nhằm khôi phục và nâng cao mức tăng trưởng kinh tế, hạn chế vay nợ nước ngoài trên cở sở trả dần vốn nợ cũ, thực hiện cân bằng tài chính, chi tiêu có lựa chọn, tăng cường các nguồn thu nhập trong nước, thực hiện đa dạng xuất khẩu, đa phương thị trường, kết hợp đồng bộ giữa các biện pháp kinh tế nhằm khắc phục các căn bệnh kinh niên của nền kinh tế chậm phát triển. Cải tổ kết cấu kinh tế từng phần là cải tổ một số mặt yếu kém hoặc cải tổ trọng điểm. Đây cũng là xu hướng cải tổ phổ biến ở các quốc gia đang phát triển như các nước NIC ở châu Á, hoặc một số nước ở châu Mỹ La Tinh. Điển hình về cải tổ xuất khẩu là Thái Lan và Nam Triều Tiên. Ở Thái Lan nhờ xuất khẩu thành phẩm dẫn đến tăng nhanh đầu tư, tăng nhanh tổng sản phẩm quốc dân. Nam Triều Tiên chú trọng cải tổ cơ cấu một số ngành công nghiệp xuất khẩu như sản phẩm chế tạo và hàng tiêu dùng cao cấp. Nhờ phát triển hai ngành này, mức tăng tổng sản phẩm quốc nội tăng lên và mức tăng xuát khẩu cũng được nâng lên. Chính phủ Malaixia đặc biệt chú ý đến điều chỉnh cơ chế thuế và các sản phẩm công nghiệp chế biến xuất khẩu. Các nước châu Mỹ La Tinh kết hợp cải tổ tài chính, giảm tỷ lệ lạm phát với chính sách mở rộng quan hệ ngoại thương, sử dụng tối ưu nguồn đầu tư nước ngoài... Bước sang thế kỷ XXI các xu thế trên vẫn tiếp tục thể hiện vai trò có tính bao trùm và thường xuyên quyết định, mặc dù có những sắc thái mới, đa dạng và phức tạp hơn. Những sắc thái này thể hiện ở những khía cạnh sau: Khía cạnh thứ nhất là: do tác động của khoa học, công nghệ với cường độ lớn hơn và tốc độ cao hơn làm thay đổi cơ cấu nghành sản xuất và dịch vụ mạnh mẽ hơn, sâu sắc hơn. Các nghành công nghiệp " cổ điển" giảm dần tỷ trọng và vai trò của nó trở nên "mãn chiều xế bóng". Các ngành có hàm lượng khoa học, công nghệ tăng nhanh, đặc biệt là các nghành dịch vị kỹ thuật phục vụ sản xuất. Chúng giữ vai trò khớp nối, đảm bảo cho toàn bộ quá trình tái sản xuất xã hội được thông suốt và phát triển với tốc độ cao. Cơ cấu kinh tế trở lên mềm hoá, khu vực kinh tế phi hình thức được mở rộng, nên kinh tế"tượng trưng" có quy mô lớn hơn nền kinh tế " thực tế " nhiều lần. Cơ cấu lao động phân theo nghành có sự biến đổi sâu sắc, xuất hiện nhiều nghề mới với sự đan kết của nhiều lĩnh vực khoa học công nghệ. Khía cạnh thứ hai là: do sự tác động của cách mạng khoa học và công nghệ, của sự phân công lao động quốc tế, do vai trò và tầm hoạt động mới của các công ty xuyên quốc gia, quá trình quốc tế hoá nền kinh tế thế giơi ngày càng phát triển mạnh mẽ cả chiều rộng lẫn chiều sâu trên hai cấp độ toàn cầu hoá và khu vực hoá đã đưa đến nền chuyển biến nhanh chóng của nền kinh tế thế giới, đưa nền kinh tế trên bước vào thời đại toàn cầu bên cạnh sự đẩy mạnh tìm kiếm hợp tác trong cạnh tranh. Thể chế kinh tế thế giới chuyển biến theo thụi trường hoá nền kinh tế của từng quốc gia, quốc tế hoá thể chế nền kinh tế giữa giữa các nước theo hướng mở cửa với sự xuyên suốt với thể chế kinh tế thị trường theo hướng nhất thể hoá và tập đoàn kinh tế khu vực. Khía cạnh thứ ba là: xu hướng toàn cầu hoá gia tăng với các biểu hiện mới về vai trò ngày càng lớn của hoạt động tài chính tiền tệ, sự gia tăng của mậu dịch quốc tế nhanh hơn nhiều tốc độ tăng trưởng kinh tế; việc gia tăng làn sóng sáp nhập các công ty xuyên quốc gia; vai trò ngày càng quan trọng của tri thức và sự phát triển của loại hình kinh tế tri thức. Công nghệ thông tin phát triển làm thay đổi cách thức tổ chức sản xuất và đời sống, đưa đến sự tác động ngày càng lớn của kinh tế đến chính trị và xã hội. Quá trình toàn cầu hoá diễn ra cả bề rộng lẫn chiều sâu, một mặt đưa tới những cơ hội cho sự phát triển kinh tế của từng quốc gia cũng như của toàn thế giới, giúp cho việc sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên hiện có trên Trái Đất cũng như gây tác động ngược trở lại đối với sự phát triển của khoa học - công nghệ đối với sự phân công lao động quốc tế. Tuy nhiên quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế cũng đưa đến những thách thức lớn ở nhiều góc độ khác nhau như sự gia tăng của các rủi ro khinh tế ( khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực, sự sụt giảm của thương mại toàn cầu, việc hình thành các "bong bóng" tài chính và tiền tệ...) cũng như gây nên mâu thuẫn giữa kinh tế với chính trị và xã hội ( làm suy giảm tính độc lập chủ quyền của quốc gia, gây nên sự phụ thuộc quá mức vào các trung tâm kinh tế lớn, phương hại đến sự phát triển văn hoá dân tộc...) trong qúa trình toàn cầu kẻ mạnh thu được nhiều lợi ích hơn còn kẻ yếu dễ bị thua thiệt. Những quốc gia có tiềm lực lớn, có điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh quốc tế sẽ tìm cách khai thác quá trình toàn cầu hoá và cài đặt lợi ích của họ. Các quốc gia phát triển chậm hơn không thể bị động theo sau, cũng không thể tham gia quá trình toàn cầu hoá một cách bị động và vô vọng được. Như vậy, ngày nay thế giới đang có sự biến động sâu sắc về nhiều mặt. Về phương diện kinh tế, các quan hệ kinh tế quốc dân đang hoà quyện vào nhau và chi phối nền kinh tế của tất cả các nước. Bối cảnh kinh tế mới tạo ra nhiều cơ hội mới tương đối thuận lợi, nhưng cũng tạo ra không ít khó khăn, thách thức mới đối với nền kinh tế của các quốc gia. Thời cơ mới là một nhân tố hết sức quan trọng, như một luồng gió mới sẽ có tác động rất lớn đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia. Sự diễn biến phức tạp của tình hình kinh tế thế giới đòi hỏi từng quốc gia phải có tư duy mới, biết tận dụng tối đa các nguồn lực sẵn có, phát huy thế mạnh của mình để hội nhập với nền kinh tế thế giới. Đối với Việt Nam, việc hội nhập vào nền kinh tế thế giới và khu vực là việc làm hết sức cần thiết, nền kinh tế Việt Nam không thể phát triển như hiện nay, trong thế kỷ XXI nếu đổi mới thành công nền kinh tế sẽ phát triển mạnh mẽ và trở thành một nước công nghiệp phát triển. 2.2 Ý nghĩa nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau trong thời kỳ hội nhập. Như chúng ta vừa nghiên cứu xu hướng hội nhập nền kinh tế thế giới ở trên, thì có thể thấy rằng, hiện nay tất cả các quốc gia trên thế giới nếu muốn phát triển đất nước của mình tiến kịp với nền văn minh chung của nhân loại, thì không còn con đường nào nhanh hơn, tiến bộ hơn bằng con đường hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Điều đó sẽ góp phần rút ngắn thời gian và tiền bạc cho công cuộc phát triển, đồng thời cũng có cơ hội đuổi kịp các nước đã phát triển đến một trình độ cao. Tuy nhiên, bên cạnh những thời cơ thuận lợi mà xu hướng hội nhập mang lại cho nền kinh tế của mỗi quốc gia thì nó cũng gây ra những ảnh hưởng xấu mà nếu một quốc gia đơn lẻ không thể làm được như các vấn đề: ô nhiễm môi trường toàn cầu, tình trạng nóng lên của trái đất, vấn đề bùng nổ đân số, các tổ chức khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, xung đột sắc tộc... Những điều đó đặt ra cho tất cả các quốc gia trên thế giới phải có nghĩa vụ hợp tác giúp đỡ lẫn nhau trong qua trình phát triển kinh tế, chuyển giao công nghệ, phương tiện kỹ thuật để nâng cao trinh độ sản xuất, tạo ra lượng của cải vật chất dồi dào đáp ứng các nhu cầu của con người. Các nước phát triển có nghĩa vụ giúp đỡ các nước chậm phát triển về các mặt xây dựng nền kinh tế hiện đại, một xã hội an ninh trật tự ổn định, một thể chế chính trị tiên tiến. Và một điều bắt buộc các quốc gia phải cùng nhau hợp tác để chống lại các hậu quả xấu từ xu hướng hội nhập, toàn cầu hoá nền kinh tế cụ thể : Xu hướng toàn cầu hoá làm cho an ninh truyền thống tức là vị thế an ninh quân sự giảm đi, và địa vị của an ninh tiền tệ tăng lên, vấn đề sinh thái lại càng biến đổi nghiêm trọng. Xu thế toàn cầu hoá dẫn đến sự tăng cường phụ thuộc lẫn nhau và tính tất yếu các quốc gia phải hợp tác, có thể lảm cho xung đột vũ trang giũa các nước giảm đi, từ đó làm cho tình trạng an ninh quân sự được cải thiện. Sự xấu đi của tình trạng biến đổi xã hội nhanh chóng, bất bình đẳng xã hội mà toàn cầu hoá mang lại, xu hướng toàn cầu hoá văn hoá làm cho nhận thức chung văn hoá ở một số nơi gặp phải những thách thức to lớn, có thể dẫn đến mất ổn định xã hội, thậm chí kích thích xung đột vũ trang. Nơi nào mà tình trạng an ninh dành được thành công trong việc ứng phó với thách thức toàn cầu hoá thì có hy vọng cải thiện, còn quốc gia nào chưa thể thích ứng được với thách thức toàn cầu thì có thể do khả năng căng thẳng trong xã hội mà dẫn đến xung đột, chia rẽ, từ đó làm cho tình trạng an ninh xấu đi hơn. Một học giả người Anh cho rằng: sau khi kết thúc chiến tranh lạnh trong thời kỳ toàn cầu hoá diễn ra nhanh chóng, thế giới diễn ra hai xu thế song hành với nhau: xung đột giữa các nước giảm đi nhưng chiến tranh trong nội bộ các nước và xung đột mang tính dân tộc, bộ tộc, tôn giáo... lại tăng lên nhiều. Nhìn về lâu dài sự phát triển kinh tế quân sự cũng có chiều hướng toàn cầu hoá nào đó. Sau chiến tranh, sự phát triển của vũ khí hạt nhân và vũ khí tên lủa đạn đạo, một mặt làm cho sự phá huỷ tăng lên đến một trình độ mà lịch sử 5000 năm về trước không thể tưởng tượng nổi, mặt khác cục diện bảo đảm huỷ diệt lẫn nhau cũng được hình thành trong đối đầu hạt nhân Mỹ-Nga đã phát huy công năng hạn chế bên ngoài, thúc giục mọi người tự ràng buộc mình trong quan hệ quốc tế, nó buộc các nước lớn tự kiềm chế mình, và phải hết sức cẩn trọng trong quân sự. Sau chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ - Nga đã ký điều ước cắt giảm vũ khí hạt nhân, và đầu đạn hạt nhân của mình không chĩa vào đối phương nữa, nhưng một sự cân bằng nào đó mà vũ khí hạt nhân hình thành trong " sự bảo đảm huỷ diệt lẫn nhau" lại chưa có thay đổi, vẫn là nhân tố bên ngoài ép buộc các nước lớn phải có hành vi hoà bình. Vì thế ý đồ thông qua mở rộng quân sự, mưu cầu bá quyền vẫn còn tồn tại, nhưng nguy cơ xẩy ra xung đột quân sự trên quy mô lớn giưa các nước lớn là không nhiều. Sự giảm sút địa vị an ninh quân sự đương đại, còn có nguyên nhân là toàn cầu hoá sản xuất.và thị trường làm giảm khả năng xảy ra chiến tranh giữa các nước. "thuyết hoà bình dân chủ", "không có chiến tranh giưa các nước tự do dân chủ" đáng để nghiên cứu tìm hiểu, nhưng lợi ích chung được hình thành do toàn cầu hoá và xuyên quốc gia hoá của tư bản mở rộng. Nói tóm lại, việc thực sự giảm bớt nhân tố xảy ra chiến tranh giữa các nước đã có sự tiến triển tương đối lớn trong toàn cầu hoá và xuyên quốc gia hoá của tư bản lại mở rộng. Do tác dụng của toàn cầu hoá, cạnh tranh giữa các nước trở thành cạnh tranh về kinh tế. Còn cạnh tranh về kinh tế thường không phải trò chơi bằng không, một bên mất không có nghĩa là bên kia được, chỉ có bên kia an toàn thì bản thân mới an toàn. Vì vậy các quốc gia phải giữ gìn ổn định, tăng cường hợp tác, cùng tồn tại phồn vinh mới phù hợp với lợi ích hai bên cạnh tranh, kết quả cạnh tranh hai bên thường là "hai bên đều thắng". Như đã nói ở trên, toàn cầu hoá là một quá trình phức tạp đa chiều, hình thức biểu hiện, nguyên nhân và hậu quả của nó không phải là đơn nhất. Một quá trình như vậy là một sự "tiến hoá" hơn là một cuộc ''cách mạng". Xu thế toàn cầu hoá đương đại chẳng qua chỉ là một biểu hiện đương đại của một qua trình tiến hoá như vậy. Hiện nay, các học giả nghiên cứu về toàn cầu hoá có ý kiến khác nhau về vấn đề toàn cầu hoá bắt đầu từ khi nào. Một số người cho rằng, toàn cầu hoá bắt đầu ngay từ khi có lịch sử loài người, một số người khác cho rằng, toàn cầu hoá xảy ra đồng thời với công nghiệp hoá và chủ nghĩa tư bản, một số nữa cho rằng toàn cầu hoá là một hiện tượng tương đối muộn màng, có liên quan đến hậu công nghiệp hoá, hậu hiện đại hoá, và tổ chức hoá của chủ nghĩa tư bản. Dù thế nào đi nữa họ vẫn cho rằng những năm gần đây toàn cầu hoá tăng tốc mạnh mẽ. Sự tăng tốc đó chủ yếu liên quan đến ba nhân tố: Một là, sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật công nghệ trên lĩnh vực giao lưu từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX đến nay ( thông tin, tin tức, giao thông siêu tốc, không gian vũ trụ và công nghệ không gian vũ trụ). Do thông tin điện tử thực tế chỉ xảy ra trong chớp mắt, vì thế nó nối liền tất cả các nơi trên thế giới và những sự kiện lại với nhau ( thu hẹp không gian, thời gian) hình thành mạng lưới thông tin toàn cầu giống như mang lưới thần kinh trung ương của con người. Mạng lưới đó khiến chúng ta có thể cảm nhận được thể giới là một chỉnh thể. Hai là,một bối cảnh quan trọng của toàn cầu hoá đương đại tăng tốc là trào lưu chủ nghĩa tự do mới xuất hiện ở các nước phát triển phương Tây gần 20 năm nay. Sau chiến tranh thế giói thứ II, các nước phương Tây luôn sùng bái chính sách của chủ nghĩa Keynes, lấy việc mở rộng chi phí công cộng để kích thích tăng trưởng kinh tế, kết quả là thâm hụt ngân sách khổng lồ, gây ra lạm phát nghiêm trọng. Thời kỳ cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX, các nước phương tây xuất hiện phổ biến tình trạng trì trệ. Cục diên này khiến mọi người hoài nghi học thuyết Keynes lấy chi phí công cộng để kích thích tăng trưởng kinh tế. Cùng với sự phủ định của các nước phương Tây với chính sách của chủ nghĩa Keynes, đã hình thành một thế lực " chủ nghĩa tự do mới, chủ trương nới lỏng giám sát quản lý, để thị trường hoàn toàn tự do, cho thị trường phân phối các nguồn tài nguyên. Kết quả là thị trường chi phối tất cả, là hàng loạt xí nghiệp bắt đầu đầu tư xuyên quốc gia, tìm kiếm sức lao động rẻ. Cùng với đó các nước phương Tây theo nhau vứt bỏ sự quản chế tiền tệ. Tiền vốn quốc tế càng tự do lưu động tìm đến nơi có thể đầu tư tôt nhất. Ba là, các xí nghiệp quy mô lớn sản xuất theo keo Taylo và thực hiện "chủ nghĩa Ford", vào những năm 50-60 của thế kỷ XX đã từng kéo theo sự phát triển của kinh tế thế giới, nay do thiếu sáng tạo trong kỹ thuật và tổ chức, nên đến những năm 70 của thế kỷ XX cơ bản bị rơi vào đình trệ, càng làm cho hiện tượng " trì trệ" kinh tế của Tây Âu và Mỹ vào nửa cuối những năm 70 của thế kỷ XX thêm nghiêm trọng. Để thoát khỏi gông cùm mà thể chế Taylo mang lại, các nước phương Tây, đặc biệt là các công ty xuyên quốc gia của Mỹ bắt đàu tìm kiếm nơi đầu tư mới để hại thấp giá thành tiền công, bảo đảm lợi nhuận. Sự thay đổi đó là nhân tố thúc đẩy tư bản và sản xuất chuyển dời đến các nước đang phát triển. Ba nguyên nhân nói trên lã làm cho toàn cầu hoa những năm 80 của thế kỷ XX tăng tốc. Cùng với đó phương thức thúc đẩy toàn cầu hoá cũng đa dạng hoá, mang tính thẩm thẩm thấu và phổ biến rộng hơn nhiều, động chạm nhiều đến các vấn đề xã hội mang tính địa phương, càng đi sâu hơn vào trong đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và văn hoá của các nước. Từ những điều ấy có thể nói, hiện nay là toàn cầu hoá đích thực. Các quốc gia trên thế giới không thể đứng nhìn, mà phải chủ động hội nhập, cùng nhau chia sẻ những kinh nghiệm, giúp đỡ, hợp tác, mở rộng quan hệ, tăng cường các mối quan hệ với thế giới bên ngoài. Từ những phân tích ở trên chúng ta thấy, trong chính trị quốc tế việc các quốc gia theo đuổi an ninh, bao giờ cũng là xự nói theo sự so sánh với quốc gia khác hoặc hệ thống quốc tế, tức là luôn luôn liên quan đến quan hệ song phương hoặc quan hệ đa phương, vì thế không thể tránh khỏi tạo thành quan hệ an ninh nhất định với nước khác, với tổ chức quốc tế và toàn bộ xã hội quốc tế. Quan hệ an ninh đó khiến cho các nước luôn luôn tác động đến nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, hay nói cách khác an ninh của một nước luôn chịu ảnh hưởng bởi an ninh một nước hay một số nước khác và ngược lại. Trong thời kỳ toàn cầu hoá, các quốc gia không chỉ hội nhập về kinh tế mà nó còn kéo theo sự hợp tác về vấn đề an ninh. Quan hệ an ninh có thể là khái niệm trung tâm của lý luận an ninh. Khái niệm này nhấn mạnh đến tính tác động lẫn nhau, tính quốc tế và tính hệ thống của an ninh quốc gia, từ đó cung cấp một cơ sở lý luận không thể thiếu được để phân tích chiến lược an ninh, hành vi an ninh và các quy tắc vận hành hệ thống an ninh trong phạm vi toàn cầu. Quan hệ an ninh có thể là quan hệ cá thể, cũng có thể là quan hệ tập thể, có thể là quan hệ căng thẳng, cũng có thể là quan hệ hoà nhập, có thể là quan hệ hợp tác cũng có thể là quan hệ đối kháng. Ví dụ như chiến traanh là một loại quan hệ đối kháng, còn đàm phán hoà bình là một loại hợp tác, chạy đuua vũ trang là một loại đôi kháng, conf giải trừ quân bị lại là một loại hình hợp tác. Trong chiến tranh thế giới thứ II Anh và Pháp thực hiện chính sách "vỗ về" với Đức là một lần hợp tác thất bại, còn sau này hợp thành đồng minh chống lại phát xít Đức lại là hợp tác thành công. Quan hệ Xô-Mỹ, các nước Arap-Ixrael trong chiến tranh lạnh cơ bản là đối kháng, còn quan hệ trong nội booj châu Âu, về cơ bản là quan hệ hợp tác. Đương nhiên tình hình thực tế trong đời sống chính tri quốc tế thường là phức tạp hơn nhiều so với sự khái quát đó. Giữa các nước, có thể có lúc ử vào tình trạng đối kháng, có lúc ở vào tình trạng hợp tác. Ví dụ như quan hệ Mỹ-Nhật Bản. Quan hệ an ninh tổng thể của hai nước là hợp tác, nhưng trong một số vấn đề cụ thể như vấn đề kinh tế, căn cứ quân sự lại có lúc mâu thuẫn gay gắt. Vấn đề Mỹ xâm nhập vào thị trường Nhật Bản, Mỹ đã nhiều lần định áp dụng cấm vận thương mại, đó là một hành vi đối kháng điển hình. Hiệu ứng tác động lẫn nhau trong quan hệ an ninh đã tạo thành kết quả như vậy, tức là một bên cảm thấy không an ninh, bên kia thường là cũng không cảm thấy an ninh. Một nước coi nước khác là nhân tố không an ninh, coi nước khác là uy hiếp, biến quan hệ an ninh thành quan hệ thù địch, thì ngược lại bản thân cũng trở thành kẻ thù của nước khác, từ đó đã cấu thành sự uy hiếp đối với nhau. Lấy chính trị cường quyền để mưu cầu an ninh, thực chất là mô hình như vậy. Chính trị cường quyền không thể xây dựng quan hệ hợp tác, mà chỉ có thể xây dựng theo kiểu quan hệ chi phối. Sự chi phối của nước mạnh đối với nước yếu là một sự uy hiếp hiện thực đối với nước yếu. Trừ phi nước mạnh với nước yếu có nhu cầu đối phó với kẻ thù chung, nếu không, nước yếu không thể chấp nhận mô hình đó lâu dài. Vì thế muốn thực hiện an ninh chỉ có thể làm cho các bên cảm thấy an ninh. An ninh của một bên không thể là an ninh lâu dài. Có rất nhiều ví dụ để chứng minh điều này, như Ixrael khi thành lập nước đã dựa trên sự uy hiếp trong một thời gian dài. Sự thù địch sâu sắc của các nước Arap đối với Ixrael khiến cho nó cũng hông có sự lựa chọn nào khác. Trong nhiều lần chiến tranh Trung Đông, Ixrael đã chiếm nhiều lãnh thổ của các nước Arap, xây dựng lá chắn an ninh của mình, nhưng điều đó không hề thay đổi được thái độ thù địch của các nước Arap, không thể thực hiện được hoà bình cuối cùng, mà chỉ có thể ở vào tình trạng luôn chiến tranh. Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX trở đi, Ixael có sự lựa chọn khác, nghĩa là mưu cầu hoà giải, đổi đất lấy hoà bình. Ixrael liên tục cùng các nước: Ai cập. Giocdani, Palextin thông qua đàm phán bắt đầu tiến trình hoà bình. Tình hình đó cho thấy người lãnh đạo có tầm nhìn trong chính phủ Ixrael ngày càng nhận thấy sự giải quyết cuối cùng trong vấn đề an ninh của bản thân người Do Thái chỉ có thể thực hiện dữa vào sự hoà bình toàn khu vực. Năm 1982 Uỷ ban độc lập về vấn đề giải trừ quân bị và an ninh do Olop panmo của Thuỵ Điển đứng đầu lần đầu tiên đưa ra khái niệm an ninh chung. Việc đưa ra khái niệm đó là dựa trên nhận thức cho rằng chiến tranh hạt nhân cơ bản không có hy vọng thắng lợi, hai bên tham chiến chỉ có thể đi đến chỗ chết, vì thế hai bên đối kháng buộc phải mưu cầu sự sinh tồn chung. Uỷ ban đó cho rằng sự an ninh lâu dài chỉ có thể thực hiện được khi tất cả các nước có liên quan đều được thụ hưởng trạnh thái đó, điều này chỉ có thể thực hiện được trên nguyên tắc bình đẳng, chính nghĩa và cùng có lợi. Những năm gần đây an ninh chung và an ninh hợp tác đã ttrowr thành khái niệm thường dùng của các học giả. Tư tưởng mà hai khái niệm đó nhấn mạnh, nói một cách đơn giản, là an ninh của một nước phải lấy an ninh của tất cả các nước làm điều kiện. Do trong chính trị quốc tế, giữa các quốc gia sẽ hình thành một mối quan hệ tác động lẫn nhau, vì thế mọi người phải xem xét vấn đề như vậy, tức là an ninh quốc gia trong một mức độ nào đó đều phải phụ thuộc vào việc làm và hành vi của các nước khác. Sự đối kháng trong thời kỳ chiến tranh lạnh mà Bredinxky đã từng nói, nghĩa là mức thuế thu nhập của nước Mỹ được định ra ở Matxcova, còn thành phàn phụ gia của nó lại được định ra ở Bắc Kinh. Đương nhiên các nói đó không thể coi là luận đoán khoa học, nhưng đã vạch ra thái tâm lý của những người đưa ra quyết sách của Mỹ, nó cũng đã phản ánh sinh động sự thực nào đó, tức là sự tác động lẫn nhau trong quan hệ đối kháng. Trong sự tác động lẫn nhau đó, an ninh quốc gia vừa được quyết định bởi hành vi của bản thân, đồng thời cũng được quyết định bởi các nước khác phản ứng như thế nào. Do một quốc gia chỉ có thế khống chế hành vi của mình mà khoong có cách nào xác định được phản ứng của một quốc gia khác nên nó thường khó dự đoán được hậu quả của một hành vi. Như vậy, một quốc gia hành động vì an ninh của minh thì sẽ xảy ra hai loại phản ứng: hoặc là làm cho an ninh hơn, hoặc là làm cho mình không an ninh hơn. Quốc gia này có thể có hai loại lựa chọn, một là tăng cường sức mạnh của mình, hai là làm yếu sức mạnh của mình. Quốc gia tăng cường được sức mạnh bản thân nếu nó có sức mạnh răn đe nước khác, khiến nước khác giảm bớt thù địch, như vậy sẽ làm cho bản thân càng an ninh hơn, nhưng nếu nó có tác dụng khiêu khích thì sé làm tăng thêm thù địch, khiến cho bản thân càng không an ninh. Cũng tương tự như vậy, một quốc gia làm yếu sức mạnh của mình để hoà giải sé làm cho đôií phương bớt thù địch, thì bản thân càng an ninh hơn. Ngược lại nếu làm cho đối phương tăng thêm thù địch thì bản thân không an ninh. Cho nên bất luận dùng chiến thuật như thế nào đều có sự mạo hiểm nhất định. Nói chung, trong chính trị hiện thực, các quốc gia phần nhiều áp dụng phương thức tăng cường sức mạnh bản thân, cách làm làm yếu đi sức mạnh bản thân rất ít. Quả thực kết quả của sự lựa chọn chỉ có thể biết được qua thực tiễn. Hơn nữa, cho dù biết được sự lựa chon lúc đầu không rõ ràng, cũng không thể biết được nếu nếu đổi sự lựa chọn liệu có thể có kết quả tốt hơn không. Mọi người thường cho rằng phạm phải sai lầm mà có thừ sức mạnh vẫn tốt hơn khi phạm phải sai lầm mà sức mạnh không đủ. Bởi vì thực hiện chính sách thoả hiệp, caaud an còn nguy hiểm gấp bội so với thực hiện chính sách gây chiến. Hai loại lựa chon trong vấn đề an ninh quốc gia vừa nói ở trên, được các học giả nước ngoài gọi là "hoàn cảnh khó khăn của an ninh" . Ở đây vấn đề cốt lõi là lo sợ và không tin tưởng giữa các quốc gia. Herbert Buterfiet đưa ra khái niệm "hoàn cảnh khó khăn của an ninh", gọi đó là " sự lo sợ của chủ nghĩa Hobbesian- Fear). Năm 1951, trong cuốn sách " Quan hệ nhân loại và lịch sử" ông ta chỉ ra rằng, trong một cục diện như vậy, quốc gia này có thể có sự lo sợ hiện thực đối với quốc gia khác, và quốc gia khác cũng có sự lo sợ như vậy đối với quốc gia này. Có lẽ, một nước căn bản không có ý làm hại nước khác, chỉ làm một số việc bình thường, nhưng nước đoa không có cách nào làm nước khác hiểu đúng ý đồ của mình. Nước đó cũng không có cách nào lý giải được suy nghĩ của nước khác tại sao lại như vậy. Ngược lại cũng vậy. Trong tình hình đó cả hai bên đều coi đối phương là thù địch, nếu không dám đưa ra sự bảo đảm khiến cho mọi người đều có an ninh. Chạy đua vũ trang không ngừng đó là sản phẩm của trạng thái đó. Trong tình trạng căng thẳng cũng như vậy, dùng lời của "tể tướng máu và sắt" Bismark để nói, rất giống quan hệ của những người khách ở cùng một toa xe, mỗi một người đều luôn chú ý đến người khác, khi một người đút tay vào túi, người bên cạnh cũng nắm lấy khẩu súng Côn của mình sẵn sàng khai hoả trước. Học giả nghiên cứu chiến lược xung đột - T.C.Schelling đã gọi cục diện đó một cách sinh động là "mô hình có tính chất căng thẳng thần kinh". Gievis cho rằng: hoàn chảnh kkhos khăn của an ninh không thể loại trừ được, mà chỉ có thể cố gắng hoàn thiện nó. Biện pháp cải thiện là tìm ra một phương pháp, đưa ra sự hạn chế mang tính quy phạm nào đó đối với cuộc đấu tranh quyền lực giữa các nước, khiến các quốc gia cùng nhau hình thành một thể chế an ninh. Trong thể chế đó, các nước cùng chấp nhận những chuẩn tắc, nguyên tắc nhất định. Những quy phạm đó khiến cho các nước tham gia vào cùng có lợi, cùng hạn chế lẫn nhau. Phương pháp đó thực chất là phương pháp hợp tác, hay là lấy an ninh quốc tế bảo đảm an ninh quốc gia. Thời đại chiến tranh lạnh Đông - Tây, những người theo chủ nghĩa hiện thực lúc đầu chỉ quan tâm đến an ninh quốc gia mà không quan tâm đến an ninh quốc tế. Sau khủng hoảng tên lửa CuBa, người nhận thức được rằng: an ninh phương Tây và an ninh Liên xô có mối liên hệ mật thiết với nhau. Tăng thêm sự mất an minh với Liên xô không có nghĩa tăng lên sự an ninh đối với phương Tây. Vì thế "sự khó khăn của an ninh" chưa hẳn là một trò chơi bằng không, mà là có thể thông qua phương thức hợp tác để giải quyết. Trong tình hình đó, chiến lược ăn miếng trả miếng lại không phhair là lựa chọn duy nhất, mà cần được thay thế bằng phương pháp hợp tác. Khống chế vũ trang bắt đầu từ thập kỷ 70 thế kỷ XX chính là một loại hợp tác. Mọi người đều nhận thức rằng, ở thời đại vx khí hạt nhân, chiến lược an ninh quốc gia không thể ngăn được chiến tranh hạt nhân, vì thế buộc họ phải thay thế bằng chiến lược an ninh quốc tế. Thực hiện chiến lược an inh quốc tế có thể có các loại hình khác nhau. Đàm phán giữa các đối thủ là một loại hợp tác, liên kết giũa các nước bạn bè cũng là một loại hình hợp tác. Giữa các nước kết thành quan hệ hợp tác chiến lược không bạn, không thù, lại là một mô hình hợp tác tương đối phổ biến trong quan hệ giữa các nước trong những năm gần đây. Về mức đọ mà nói, kết thành đồng minh là hợp tác an ninh quốc gia mật thiết nhất. Cái gọi là kết thành đồng minh, hàm nghĩa cơ bản nhất là hai nước haoawch hai nước trở lên, vì lợi ích của nhau mà hứa cùng tham chiến. Hình thức đó có thể là cho các quốc gia hữu quan tăng thêm sức mạnh, có thể chi phối tình hình, không bị tổn hại đến chủ quyền. Các nước đủ khả năng kết thành đồng minh, chứng minh họ có những điểm chung. Nhưng bất kỳ nước nào kết thành đồng minh, ngoài lợi ích chung ra đều có lợi ích riêng của mỗi quốc gia, hay nói cách khác tất cả các nước tham gia đồng minh đều không thống nhất lợi ích chung. Trong hợp tác của họ một mặt là tồn tại nhất trí, một mặt cũng tồn tại những xung đột, một mặt tồn tại những dung hoà, mặt hác cũng tồn tại những căng thẳng. Trong thể chế như thế, những nước kết thành đồng minh có hai lỗi thường gặp nhất, nước yếu sợ bị vứt bỏ, nước mạnh sợ bị kéo xuống. Thực hiện hợp tác, thì một số nước trả giá giá nhiều, có một số nước trả giá ít hơn. Trong thời kỳ chiến tranh Mỹ - Xô là nòng cốt của khối NATO và Vacxava, hiển nhiên là họ phải trả giá nhiều nhất. Họ dùng sức mạnh hạt nhân của mình và đóng quân ở các nước khác để bảo vệ an ninh cho đồng minh của minh. Trong tình hình đối đầu nghiêm trọng Đông - Tây, các nước vừa và nhỏ thuộc về hai tập đoàn lớn hầu như không còn có cách lựa chọn nào khác, họ chỉ có thể được che trở dưới hệ thống như vây, sự trả giá của các siêu cường là lớn nhất, một mặt là vì họ có lợi ích lớn nhất, mặt khác cũng là vì họ có thực lực như vậy. Cái giá phải trả để bảo vệ lợi ích an ninh chung của nước siêu cường và các nước vừa và nhỏ là không công bằng. Điều đó đã đề cập ở một khái niệm mà người phương Tây vẫn thường dùng là Free ride. Ý nghĩa cơ bản của vấn đề này là không bỏ tiền hoặc cố gắng nhờ sự ân huệ của người khác mà được lợi. Hiển nhiên các nước lớn cho rằng các nước khác đi nhờ xe của mình, nghĩa là không trả tiền mà vẫn được lợi. "Free ride" hầu như là một hiện tượng không thể tránh khỏi trong việc kết thành đồng minh. Đối với siêu cường mà nói, để một loạt nước đi nhờ xe là ghánh nặng trầm trọng của bản thân. Đối với các nước nhỏ mà nói, đem an ninh của mình dựa hoàn toàn vào sự ảo vệ của nước lớn. Nước Mỹ dường như càng ngày cang không hài lòng với điều đó. Bởi vì nhiều việc quan hệ lợi hại với đồng minh khác lớn hơn, nhưng họ lại không tự nguyện bỏ sức ra. Vì thế Mỹ bắt đầu thu bớt sức mạnh của mình, điều đó lại gây ra sự không bằng lòng của các đồng minh châu Âu. Phương thức lý tưởng nhất để thực hiện hợp tác an ninh là làm cho tất cả các nước có lợi hại về an ninh đều phải tham dự vào trong đó. Hội đồng an ninh châu Âu là một tổ chức như vậy. Đối với một quốc gia, bị một tập đoàn an ninh khu vực gạt ra ngoài thì tất nhiên sẽ có cảm giác căng thẳng. Kế hoạch mở rộng sang phía Đông của NATO đã gây ra sự bất an rất lớn cho Nga. NATO mở rộng sang phía Đông đã tạo ra hàn cảnh khó khăn an ninh cho cả NATO và Nga. Nga không thể xác định hành động đó của NATO cuối cùng là thù địch nhằm vào mình không, cong NATO cũng không thể xác định hành động đó cuối cùng có tăng thêm an ninh ho mình hay không. Trng hệ thống an ninh quốc tế, bất kể sự hợp tác nào cũng không thể cố định, không thể phá vỡ, bất kể quôc gia nào xuất phát từ lợi ích bản thân phá vỡ chính sách cơ bản đều có thể làm yếu hoặc phá hoai sự hợp tác đó. Ở đây, chúng ta thấy hợp tác an ninh có tính chất dễ phá vỡ. Tuy nhiên một hợp tác nếu khiến cho mọi người đều có lợi thì đa số các nước vẫn còn tự nguyện lựa chọn hợp tác với hình thức nào đó. Từ khi kết thúc chiến tranh lạnh đến nay, xu thế lấy hợp tác mưu cầu an ninh hầu như đang tăng lên, điều đó có nghĩa là sự biểu hiện của một xã hội nhân loại tiến bộ, bởi vì đa số mọi người cuối cùng đều không thích chiến tranh. Tuy nhiên hiện nay ở các nước trên thế giới vẫn còn xung đột, nhưng chúng ta vẫn có thể tin tưởng nhân tố hoà bình của thế giới đang tăng lên, mô thức lấy hợp tác mưu cầu an ninh đã có khả năng rất lớn. Chương 3: Việc áp dụng nguyên tắc giúp đỡ lẫn nhau vào đường lối đối ngoại của Việt Nam và giải pháp nâng cao chất lượng quan hệ quốc tế, tăng cường sự hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau đối với các quốc gia trên thế giới. Thực tiễn 20 năm qua đã khẳng định đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Theo tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng, công tác đối ngoại trong thời gian tới cần bám sát những định hướng như: tiếp tục mở rộng, phát triển những mối quan hệ đi vào chiều sâu, bền vững, thúc đẩy giải quyết những vấn đề tồn đọng bằng thương lượng hòa bình, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tích cực tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người… 1 - Đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước - một bộ phận trong đường lối chính trị của Đảng góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam. Năm 1986, tại Đại hội VI, Đảng ta khởi xướng công cuộc đổi mới trong bối cảnh đất nước đang ở trong tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, bị bao vây, cấm vận, đồng thời đứng trước những thách thức và tác động sâu sắc từ những đảo lộn diễn ra trên thế giới. Tiến hành đổi mới, về mặt đối ngoại, có hai vấn đề lớn, hết sức cấp bách mà chúng ta phải xử lý: một là, phá thế đất nước bị bao vây, cấm vận; hai là, thích ứng bối cảnh khách quan của thế giới đang biến đổi sâu sắc với quá trình toàn cầu hóa kinh tế dưới tác động của cách mạng khoa học - công nghệ, với sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô, với những đảo lộn trong cục diện chính trị thế giới... Chính từ việc xử lý các vấn đề này, Đảng ta đã đổi mới đường lối đối ngoại, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ. Quá trình hình thành và phát triển đường lối đối ngoại thời kỳ đổi mới của Đảng ta được đánh dấu bởi các mốc lớn như sau: - Nghị quyết số 13 của Bộ Chính trị (khóa VI) tháng 5-1988 là mốc khởi đầu của quá trình đổi mới tư duy, nhận thức và đường lối đối ngoại của Đảng ta. Nghị quyết nhận định rằng, tình trạng kinh tế yếu kém, tình thế bị bao vây về kinh tế và cô lập về chính trị sẽ thành nguy cơ lớn đối với an ninh và độc lập dân tộc. Từ đó, đề ra nhiệm vụ ra sức tranh thủ các nước anh em, bè bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới, phân hóa hàng ngũ đối phương, làm thất bại âm mưu cô lập ta về kinh tế và chính trị; chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình; ra sức lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật và xu thế quốc tế hóa cao của kinh tế thế giới, đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế. - Hội nghị Trung ương 6 (tháng 3-1989), Hội nghị Trung ương 7 (tháng 8-1989) và Hội nghị Trung ương 8 (tháng 3-1990) của khóa VI với "các nguyên tắc cơ bản cần được quán triệt trong quá trình đổi mới" và các nghị quyết "Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay", "Tình hình các nước xã hội chủ nghĩa, sự phá hoại của chủ nghĩa đế quốc và nhiệm vụ cấp bách của Đảng ta" đã tập trung đánh giá tình hình thế giới liên quan đến những biến động xảy ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu, đề ra các quyết sách đối phó với những tác động phức tạp từ diễn biến của tình hình thế giới đối với nước ta và công cuộc đổi mới ở Việt Nam. - Hội nghị Trung ương 3, khóa VII (tháng 6-1992) đã ra Nghị quyết chuyên đề về công tác đối ngoại. Nghị quyết xác định rõ nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ trương mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ đối ngoại của Việt Nam, cả về chính trị, kinh tế, văn hóa..., trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hợp tác bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ gìn và phát huy những truyền thống tốt đẹp và bản sắc văn hóa dân tộc... Nghị quyết Trung ương 3, khóa VII là văn kiện đánh dấu sự hình thành đường lối đối ngoại của Đảng ta cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước. - Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) và Đại hội VIII (tháng 6-1996) của Đảng ta đã chính thức khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ với tinh thần "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". - Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) khẳng định Đảng và Nhà nước ta tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại đó với một tinh thần mạnh mẽ hơn và một tâm thế chủ động hơn bằng tuyên bố "Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển". - Hội nghị Trung ương 8, khóa IX (tháng 7-2003) đã ra Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong đó đề cập nhiều nội dung hết sức quan trọng về đối ngoại, đặc biệt là ba vấn đề: về các mâu thuẫn của thế giới hiện nay; về lợi ích của Việt Nam; về đối tượng, đối tác. Cần nhấn mạnh vấn đề cốt lõi trong mọi hoạt động đối ngoại là phải tìm cách thực hiện tối đa lợi ích của đất nước. Do đó, việc nhận thức thật rõ lợi ích của đất nước ta, dân tộc ta là điều vô cùng quan trọng. Hội nghị Trung ương 8, khóa IX đã khẳng định một lần nữa: "độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là mục tiêu cơ bản của cách mạng và cũng là lợi ích căn bản của quốc gia", "kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của Tổ quốc"(1). Hội nghị cũng đã nhấn mạnh cách nhìn biện chứng về đối tượng, đối tác: "trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta"(2), làm cơ sở mở rộng và phát triển các mối quan hệ vừa hợp tác vừa đấu tranh với các chủ thể quan hệ quốc tế. - Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) đã khẳng định: "Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực"(3). 2 - Nhìn lại 20 năm đổi mới, Đại hội X của Đảng ta đã khẳng định: "công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử" (4). Trong những thành tựu đó có đóng góp không nhỏ của công tác đối ngoại. Các hoạt động đối ngoại đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị - xã hội, củng cố an ninh, quốc phòng, đưa đất nước vượt qua những thách thức và đi vào giai đoạn phát triển mới; vị thế của nước ta trên trường quốc tế không ngừng nâng cao. Từ chỗ bị bao vây, cấm vận về kinh tế, cô lập về chính trị, đến nay nước ta đã phát triển quan hệ đa phương, đa dạng với các chủ thể quan hệ quốc tế. Tính đến thời điểm này, Việt Nam hiện có quan hệ ngoại giao với 169 nước, quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư với 165 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Nước ta hiện là thành viên của 63 tổ chức quốc tế và khu vực. Đảng ta có quan hệ ở các mức độ khác nhau với trên 200 chính đảng ở các nước trên khắp các châu lục. Các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta có quan hệ với hàng trăm tổ chức nhân dân, tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế. Trong hai thập kỷ qua, thông qua đàm phán hòa bình, ta đã giải quyết được một số vấn đề do lịch sử để lại về biên giới, lãnh thổ, vùng chồng lấn trên biển với các nước liên quan, phấn đấu xây dựng đường biên giới trên đất liền và trên biển thành đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định, hợp tác cùng phát triển. Nước ta đã ký kết Hiệp ước phân định biên giới trên đất liền, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định về hợp tác nghề cá ở Vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc; đã ký Hiệp ước bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới năm 1985 với Cam-pu-chia; đã ký kết các hiệp định về phân định thềm lục địa, phân định vùng chồng lấn trên biển với Ma-lai-xi-a, Thái Lan và In-đô-nê-xi-a. Việt Nam cùng các nước ASEAN và Trung Quốc đã ký kết Tuyên bố về cách ứng xử của các bên ở biển Đông (DOC), thúc đẩy việc giải quyết hòa bình các tranh chấp chủ quyền biển đảo ở biển Đông. Việt Nam đã tăng cường quan hệ đoàn kết, hữu nghị và hợp tác với các đảng cộng sản và công nhân, các đảng cánh tả, các phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới; góp phần tích cực vào sự hồi phục của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vào việc củng cố phong trào Không liên kết, vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển bền vững, công bằng và tiến bộ xã hội. Đường lối chính trị của Đảng ta và những thành tựu đổi mới của Việt Nam được bạn bè quốc tế đánh giá cao. Nhiều đảng cộng sản và công nhân trên thế giới cho rằng, đổi mới của Việt Nam là sự phát triển sáng tạo và đóng góp về lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, các hoạt động đối ngoại của Đảng, của các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta đã góp phần làm cho dư luận thế giới hiểu đúng về Việt Nam, đồng tình và ủng hộ công cuộc đổi mới, tăng cường hậu thuẫn chính trị quốc tế cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta. Nền kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới đang toàn cầu hóa. Chúng ta tích cực tham gia hình thành các khu vực mậu dịch tự do của ASEAN (AFTA), giữa ASEAN và Trung Quốc (CAFTA), xây dựng quan hệ đối tác kinh tế toàn diện ASEAN - Nhật Bản... Ta đã kết thúc đàm phán song phương với 28 nước và đang hoàn tất quá trình đàm phán đa phương để gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) trong năm 2006. Hàng hóa sản xuất tại Việt Nam đã có mặt trên 200 thị trường quốc gia, khu vực và quốc tế. Trong vòng hai thập kỷ qua, từ một nước nhập khẩu lương thực, Việt Nam đã trở thành một trong những nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới. Trong giai đoạn từ năm 1993 - 2004, Việt Nam đã nhận được cam kết tài trợ hơn 20 tỉ USD từ cộng đồng quốc tế, trong đó 85% là vốn vay ưu đãi, còn lại là viện trợ không hoàn lại. Riêng năm 2005, cam kết tài trợ vốn ODA cho Việt Nam là 3,4 tỉ USD. Với sự ổn định về chính trị - xã hội, truyền thống văn hóa, sự phát triển kinh tế năng động và chính sách đối ngoại rộng mở, môi trường đầu tư thông thoáng, Việt Nam ngày càng trở thành một điểm đến an toàn và hấp dẫn cho hợp tác và đầu tư quốc tế. Tính đến hết tháng 7-2005, đã có hơn 5.500 dự án đầu tư nước ngoài từ 64 nước và vùng lãnh thổ đang hoạt động tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký trên 48,7 tỉ USD, trong đó số vốn thực hiện đạt gần 29 tỉ USD. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam, đóng góp gần 15% GDP và 4,9% tổng thu ngân sách nhà nước, chiếm trên 30% tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo ra hàng vạn công ăn việc làm. Việt Nam đã được các nước ủng hộ đăng cai tổ chức và đã tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh Cộng đồng các nước có sử dụng tiếng Pháp năm 1997, Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998, Hội thảo quốc tế về hợp tác và phát triển Việt Nam và châu Phi năm 2003, Hội nghị cấp cao ASEM-5 năm 2004. Qua các hội nghị cấp cao này, Việt Nam đã để lại dấu ấn của mình trong đời sống chính trị quốc tế đương đại. Việt Nam đang phối hợp chặt chẽ với các nền kinh tế thành viên APEC và tích cực chuẩn bị để tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnh APEC tại Hà Nội vào tháng 11-2006. Các mặt công tác thông tin đối ngoại, công tác đối với cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài... cũng đạt được nhiều kết quả quan trọng. Đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại đã có bước trưởng thành nhất định, triển khai thực hiện có kết quả đường lối và các chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng. 3 - Thực tiễn hoạt động đối ngoại của ta trong 20 năm đổi mới đã khẳng định đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển của Đảng ta là đúng đắn. Chúng ta kiên trì thực hiện nhất quán đường lối đó. Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội X của Đảng, công tác đối ngoại trong thời gian tới bám sát những định hướng lớn như sau: - Tiếp tục mở rộng và phát triển các mối quan hệ đối ngoại của ta đi vào chiều sâu, ngày càng ổn định và bền vững. Đặc biệt coi trọng và phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện với các nước láng giềng có chung biên giới, các nước Đông - Nam Á và Hiệp hội các quốc gia Đông - Nam Á (ASEAN). Thúc đẩy quan hệ hợp tác ổn định lâu dài với các nước lớn, các trung tâm kinh tế, chính trị của thế giới. Mở rộng và tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước bạn bè truyền thống, các nước độc lập dân tộc, các nước đang phát triển ở châu Á, châu Phi, Trung Đông và Mỹ La-tinh, các nước trong phong trào Không liên kết... Tích cực hoạt động tại các tổ chức quốc tế và khu vực. Không ngừng phát triển quan hệ với các đảng cộng sản và các đảng cầm quyền ở các nước xã hội chủ nghĩa và các nước láng giềng có chung biên giới. Tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, đảng cánh tả, phong trào cách mạng và tiến bộ có nhiều ảnh hưởng ở các khu vực trên thế giới. Mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền, đảng tham chính ở các nước trong khu vực và các nước có quan hệ đối tác quan trọng với nước ta. Tăng cường quan hệ với các chính đảng khác có quan hệ với Đảng ta và hữu nghị với Việt Nam. Phát triển quan hệ với các đoàn thể, các tổ chức nhân dân ở các nước láng giềng có chung biên giới, các nước xã hội chủ nghĩa, các nước trong khu vực và các nước lớn. Tích cực hoạt động tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng mà các đoàn thể và tổ chức nhân dân ta là thành viên. Chủ động tham gia tích cực các phong trào, diễn đàn quốc tế của nhân dân thế giới chống chiến tranh và chạy đua vũ trang, chống các mặt trái của toàn cầu hóa, chống chủ nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền, vì hòa bình, công lý, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển bền vững, công bằng và tiến bộ xã hội. Mở rộng quan hệ với các tổ chức nhân dân các nước, các tổ chức phi chính phủ quốc gia và quốc tế... - Tiếp tục thúc đẩy giải quyết bằng thương lượng hòa bình những vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan; phấn đấu xây dựng đường biên giới trên đất liền và trên biển với các nước láng giềng thành đường biên giới hòa bình, ổn định, hợp tác cùng phát triển. - Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình, phù hợp với chiến lược phát triển đất nước từ nay đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Mở rộng và củng cố quan hệ kinh tế đối ngoại, tạo lập lợi ích đan xen, nhất là với các đối tác chủ yếu. Kết thúc đàm phán để gia nhập WTO; chuẩn bị tốt các điều kiện để tham gia các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương; tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tích cực tranh thủ và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA, thu hút FDI, chuyển giao công nghệ, mở rộng thị trường, xây dựng các mối quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư lâu dài. Khai thác có hiệu quả các cơ hội và giảm tối đa những thách thức, rủi ro khi nước ta là thành viên WTO. - Chủ động tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền. Kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi dụng các vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", "dân tộc", "tôn giáo" hòng can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh và ổn định chính trị của Việt Nam. - Tích cực tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu; ủng hộ và cùng nhân dân thế giới đấu tranh bảo vệ hòa bình, chống nguy cơ chiến tranh và chạy đua vũ trang; góp phần xây dựng trật tự chính trị, kinh tế quốc tế dân chủ, công bằng. - Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại, làm cho thế giới hiểu đúng về tình hình mọi mặt và công cuộc đổi mới của Việt Nam, ủng hộ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, tình hữu nghị và sự hợp tác bình đẳng, cùng có lợi, cùng phát triển giữa nhân dân ta và nhân dân các nước. - Đẩy mạnh công tác vận động người Việt Nam ở nước ngoài, thực hiện có kết quả Nghị quyết 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX. Chăm lo bảo vệ quyền lợi chính đáng của bà con, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế; khuyến khích đồng bào hội nhập và thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp nước sở tại, chăm lo xây dựng cuộc sống thành đạt, nêu cao tinh thần tự trọng và tự hào dân tộc, giữ gìn tiếng Việt, bản sắc văn hóa và truyền thống dân tộc Việt Nam, đoàn kết đùm bọc, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau; vận động bà con hướng về quê hương, đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tích cực phát huy vai trò là "cầu nối" hữu nghị, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và quan hệ hợp tác giữa nước sở tại mà họ sinh sống với Việt Nam. - Thực hiện nghiêm Quy chế quản lý thống nhất các hoạt động đối ngoại (do Bộ Chính trị ban hành theo Quyết định số 101-QĐ/TW), bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng và sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại. Phối hợp chặt chẽ giữa hoạt động đối ngoại của Đảng, hoạt động ngoại giao của Nhà nước và hoạt động đối ngoại nhân dân, giữa chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại, hoạt động đối ngoại và hoạt động quốc phòng, an ninh, giữa thông tin trong nước và thông tin đối ngoại, tạo thành sức mạnh tổng hợp trên lĩnh vực công tác đối ngoại. Phân công, phân nhiệm rõ ràng, đề cao trách nhiệm và vai trò chủ động của các ngành, các cấp trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ được giao liên quan đến đối ngoại; bảo đảm sự giám sát, kiểm tra chặt chẽ. - Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại; có cơ chế quy tụ, phát huy trí tuệ tập thể và phối hợp tổ chức nghiên cứu các vấn đề cơ bản phục vụ công tác đối ngoại. - Chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại vững vàng về chính trị, có năng lực nghiệp vụ cao, có đạo đức và phẩm chất tốt. PHẦN KẾT LUẬN Như vậy trong bối cảnh quốc tế hiện nay, yêu cầu hội nhập bắt buộc các quốc gia phải mở rộng quan hệ hợp tác lẫn nhau, cùng giúp đỡ nhau vượt qua những bất đồng, xung đột, hướng tới sự bình đẳng, công bằng, văn minh và tiến bộ. Trong bối cảnh chung của thế giới, Việt Nam cũng nên tự nhận thấy vai trò và trách nhiệm của mình đối với an ninh toàn cầu, tự thân vận động tăng cường sức mạnh bản thân, đồng thời cũng phải tăng cường hợp tác, chuyển giao công nghệ đối với các nước phát triển, đồng thời giúp đỡ các nước kém phát triển hơn, để có thể tiến kịp vân minh nhân loại, chống lại đói nghèo và lạc hâu. Khi thực hiện đề tài này, tôi mong rằng sẽ đưa ra được những vấn đề mấu chốt của nguyên tắc hợp tác giúp đỡ, lẫn nhau, đồng thời cũng khái quát được xu hướng phát triển chung của thế giới đương đại, từ đó thể hiện được tầm nhìn, cũng như ước vọng của giới trẻ về một thế giới hoà bình, ổn định, văn minh và tiến bộ. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Luật quốc tế - Đại học luật Hà Nội, Nhà xuất bản công an nhân dân, Hà Nội 2000. Tập bài giảng Luật quốc tế, th.s Nguyễn Thị Hà, Khoa luật Đại học Huế. An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hoá, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội 2004. Các wed site: www. Cpv.org.vn/ www. Chinhphu.vn/ www. Google.com.vn www. Vi.wikipedia.org.vn/ Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNiên luận Thắn.doc
Tài liệu liên quan