Tiên lượng bệnh nhân thủng thực quản dựa
vào nhiều yếu tố. Jones và Ginsberg đã báo cáo
tỉ lệ tử vong do thủng thực quản, từ năm 1980
đến 1990 là 22%. Trong đó tỉ lệ tử vong do thủng
thực quản đoạn cổ chiếm 6%, thủng thực quản
đoạn ngực 34% và thủng thực quản đoạn bụng
29%. Trong nghiên cứu của Attar và cộng sự cho
biết tỉ lệ thủng thực quản đoạn cổ thấp hơn là do
cấu trúc giải phẫu vùng cổ có thể ngăn sự lan
rộng của nhiễm trùng. Đăc biệt, tỉ lệ tử vong cao
ở những bệnh nhân có bệnh lý trước đó, đặc biệt
là ung thư thực quản. Theo nghiên cứu của
David B. Skinner, thời gian từ lúc thủng thực
quản cho đến khi nhập viện điều trị quyết định
kết quả điều trị. Bệnh nhân điều trị sớm trong 24
giờ đầu, tỷ lệ tử vong khoảng dưới 10%, sau 24
giờ tỷ lệ tử vong lên 44%. Ngoài ra việc chọn
phương pháp điều trị thích hợp và an toàn cũng
đóng vai trò quyết định trong tiên lượng sống
còn của bệnh nhân(4).
Thủng thực quản do nguyên nhân nuốt
kiếm hiếm gặp. Năm 2002, Scott A đã báo cáo
một trường hợp thủng thực quản do nuốt kiếm.
Vị trí thủng ở thực quản đoạn ngực. Bệnh nhân
được mở ngực khâu lỗ thủng và dẫn lưu trung
thất. Hậu phẫu ngày thứ 19, bệnh nhân bị dò
ngay tại vị trí khâu lỗ thủng và được mở thực
quản đoạn cổ. Bệnh nhân xuất viện sau 11 ngày
điều trị(4).
Trường hợp 1 bệnh nhân đã hành nghề xiếc
lâu dài (15 năm) nhưng do vừa thay đổi dụng cụ
diễn mới nên đã xảy ra thủng thực quản.
Trường hợp 2 bệnh nhân tham gia biễu diễn
nuốt kiếm được 3 tháng, không có quá trình tập
luyện thuần thục và bệnh nhân có nhiều sô diễn
nên đòi hỏi phải diễn nhanh, dễ gây tai biến.
Diễn viên xiếc đòi hỏi phải có quá trình tập
luyện lâu dài. Đặc biệt là kiểm soát được sự dãn
của cơ nhẫn hầu và phản xạ nôn khi biễu diễn.
Xiếc là một nghề đòi hỏi phải có quá trình
tập luyện kéo dài và nguy hiểm luôn rình gập,
đặc biệt là nghề nuốt kiếm. Do đó thủng thực
quản như một lời cảnh báo cho những ai tham
gia vào nghề này phải có quá trình tập luyện
công phu và thận trọng. Khi xảy ra thủng thực
quản nên đến bệnh viện sớm, nhất là trong 24
giờ đầu.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 07/02/2022 | Lượt xem: 135 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Nuốt kiếm gây thủng hạ họng thực quản: Một số kinh nghiệm trong điều trị, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 591
NUỐT KIẾM GÂY THỦNG HẠ HỌNG THỰC QUẢN:
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TRONG ĐIỀU TRỊ
Trần Anh Bích*, Trần Minh Trường*
TÓM TẮT
Thủng thực quản là một tình trạng nghiêm trọng với tỷ lệ tử vong cao. Điều trị thành công phụ thuộc vào
kích thước lỗ thủng, thời gian từ lúc thủng đến khi chẩn đoán và tiền sử bệnh trước đó. Thủng thực quản phần
lớn do dị vật thực quản như hóc xương, có thể do bất kỳ thiết bị, dụng cụ đến hạ họng – thực quản. Dị vật thực
quản có thể can thiệp phẫu thuật. Ở đây, chúng tôi báo cáo 3 trường hợp thủng thực quản hiếm gặp, do nguyên
nhân nuốt kiếm. Các trường hợp đều đến ở giai đoạn muộn, khi đã có biến chứng áp-xe. Mục đích điều trị nhằm
đạt được mục tiêu dẫn lưu ổ nhiễm trùng, ngăn chặn nhiễm trùng lan trung thất, đảm bảo dinh dưỡng hợp lý
giúp mau lành đường tiêu hóa. Tất cả các trường hợp đều phục hồi hoàn toàn.
Từ khoá: Thủng thực quản, hạ họng- thực quản, dẫn lưu, dinh dưỡng hỗ trợ, trung thất.
ABSTRACT
ESOPHAGEAL PERFORATION CAUSED BY SWORD SWALLOWERS:
SOME EXPERIENCES IN MANAGEMENT
Tran Anh Bich, Tran Minh Truong
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 15 - Supplement of No 4 - 2011: 591 - 595
Esophageal perforation is a serious condition with a high mortality rate. Successful treatment depends on the
size of the perforation, early diagnosis (less than 24 hours), and the underlying health of the patient. Esophageal
perforation can be caused by foreign body any instrument, device reaching the hypopharynx-esophagus. Foreign
body can be treated. We present three cases of esophageal perforation with an unusual cause: sword swallowing.
All of cases were diagnosed lately with abscess formation in and around the esophagus. The goal of all
management approaches is to achieve drainage of all affected compartment, to prevent further mediastinal
contamination, to provide mutritional support, and to restore the gastrointestinal tract. All of patients recovered
and have resumed their daily activitives.
Key words: Esophageal perforation, hypopharynx-esophagus, drainage, mutritional support, mediastinal
ĐẶT VẤN ĐỀ
Thủng thực quản là một tai biến có tỉ lệ tử
vong cao. Nguyên nhân thường do: dụng cụ,
thiết bị y tế, thủng thực quản tự phát (gia tăng
áp lực trong lòng ống thực quản, bệnh thực
quản kéo dài, thủng có liên quan đến di truyền
thần kinh), do chấn thương từ bên ngoài(3).
Ngoài ra nguyên nhân chúng tôi muốn đề cập
trong trường hợp này là dị vật đặt biệt gây ra
thủng thực quản có liên quan đến nghề nghiệp
là nuốt kiếm. Thủng thực quản do nguyên
nhân nuốt kiếm hiện nay trên thế giới có rất ít
tài liệu đề cập đến. Điều trị có thể bảo tồn hay
phẫu thuật phụ thuộc vào vị trí, thời gian từ
lúc thủng đến khi chẩn đoán, triệu chứng, dấu
hiệu, biến chứng.
Tại Khoa Tai Mũi Họng bệnh viện Chợ rẫy,
chúng tôi tiếp nhận và điều trị 3 trường hợp
thủng hạ họng thực quản do nguyên nhân
nuốt kiếm, với bệnh sử, triệu chứng và mức độ
* Khoa Tai Mũi Họng Bệnh viện Chợ Rẫy
Tác giả liên lạc: BSCKII. Trần Anh Bích, ĐT: 0913954972, Email: anhbich2005@yahoo.com
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 592
diễn tiến bệnh khác nhau, để từ đó chúng tôi
có những hướng giải quyết cho phù hợp.
TRÌNH BÀY BỆNH ÁN
Bệnh án 1
Bệnh nhân nam 41 tuổi làm nghề xiếc đã 15
năm. Cách nhập viện 3 ngày, ngay sau khi biểu
diễn tiết mục nuốt kiếm, bệnh nhân cảm thấy
đau nhói vùng ngực và rút kiếm ra có máu, kèm
nuốt khó. Bệnh nhân tự mua thuốc uống nhưng
không giảm, ngày hôm sau nhập viện bệnh viện
địa phương. Qua 2 ngày điều trị, bệnh nhân bị
sốt, kèm ớn lạnh, sưng cổ, nuốt đau và khó thở
khi nằm nên chuyển bệnh viện Chợ Rẫy.
Tình trạng lúc nhập viện: sốt 390C, mạch 88
lần/phút, thở nông 24 lần/phút, khó thở khi
nằm, sưng tấy vùng cổ, không dấu hiệu tràn
khí dưới da. Không ghi nhận bất thường các cơ
quan khác.
Cận lâm sàng: Bạch cầu 19000/mm3, CT Scan
có hình ảnh áp-xe vùng cổ và trung thất trên.
Bệnh nhân được phẫu thuật cấp cứu mở
cạnh cổ, dẫn lưu áp-xe và nuôi ăn qua ống thông
mũi dạ dày. Nội soi thực quản ống cứng thấy
thủng thành sau thực quản, cách cung răng trên
19cm. Sau khi kết hợp điều trị nội tích cực, chăm
sóc vết thương, nuôi ăn qua ống thông mũi dạ
dày và đường tĩnh mạch, bệnh nhân hồi phục.
Chụp X quang thực quản có uống chất cản
quang kiểm tra không thấy dò thực quản. Bệnh
nhân được xuất viện sau 2 tuần điều trị.
Bệnh án 2
Bệnh nhân nam 29 tuổi, làm nghề xiếc được
3 tháng. Cách nhập viện 2 ngày, ngay sau khi
biểu diễn tiết mục nuốt kiếm thì cảm thấy đau
nhói sau lưng, sau đó nuốt đau và sưng cổ.
Tình trạng lúc nhập viện: sốt 38,80C, mạch 87
lần/phút, thở nông 23 lần/phút, khó thở khi nằm
đầu thấp, sưng tấy vùng cổ, tràn khí dưới da
vùng cổ và ngực. Không ghi nhận bất thường
các cơ quan khác.
Cận lâm sàng: Bạch cầu 18000/mm3, CT scan
có hình ảnh áp-xe vùng cổ và trung thất trên.
Bệnh nhân được mở cạnh cổ 2 bên dẫn lưu
áp xe, đặt ống thông mũi dạ dày. Nội soi phát
hiện thủng thành sau hạ họng kích thước 0,5 x
0,5cm, có mủ nhầy trắng rỉ qua vết thủng.
Chăm sóc vết thương tại chỗ kết hợp với
kháng sinh và kháng viêm đường toàn thân.
Soi hạ họng – thực quản kiểm tra thấy lỗ thủng
lành. Sau 10 ngày điều trị, kết quả hồi phục
tốt, bệnh nhân xuất viện.
Bệnh án 3
Bệnh nhân nam 27 tuổi, làm nghề thổi kèn
tây. Bệnh nhân cho biết cách nhập viện 2 ngày,
sau khi thổi kèn thì phát hiện sưng cổ và đau
họng, sưng cổ ngày càng tăng kèm theo sốt.
Bệnh nhân nhập viện bệnh viện địa phương
điều trị 1 ngày, bệnh diễn tiến ngày càng nặng
nên chuyển bệnh viện Chợ Rẫy.
Tình trạng lúc nhập viện: nuốt đau, không
ăn uống được, sốt 39,10C, mạch 90 lần/phút, thở
nông 25 lần/phút, khó thở khi nằm, sưng tấy
vùng cổ và tràn khí dưới da vùng cổ ngực.
Không ghi nhận bất thường các cơ quan khác.
Cận lâm sàng: Bạch cầu 17000/mm3, CT
scan chỉ thấy hình ảnh tràn khí dưới da vùng
cổ ngực và trung thất, chưa ghi nhận áp-xe
vùng cổ ngực.
Bệnh nhân được nhập viện điều trị kháng
sinh, kháng viêm và giảm đau, với cảm nghĩ ban
đầu là vỡ phế nang do thổi kèn. Sau 2 ngày điều
trị tình trạng tràn khí ngày càng tăng kèm khó
thở và sốt không giảm. Kiểm tra công thức máu
bạch cầu 21000/mm3, CT scan có hình ảnh áp-xe
vùng cổ trung thất. Nội soi thực quản ống cứng
thấy thủng thành sau thực quản, cách cung răng
trên 20cm. Bệnh nhân được mở cạnh cổ 2 bên và
trung thất dẫn lưu áp-xe, mở dạ dày nuôi ăn.
Bệnh nhân được đặt tưới rửa liên tục ở cổ và
trung thất. Dò nước bọt ra vùng cổ bên trái.
Bệnh nhân thở máy 6 ngày. Bệnh nhân xuất viện
sau 4 tuần. Chụp X quang thực quản có uống
cản quang không thấy dò
Khi hỏi kĩ bệnh sử, bệnh nhân mới nhớ lại
chi tiết quan trọng trước khi thổi kèn 2 ngày
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 593
bệnh nhân có biểu diễn tiết mục nuốt kiếm,
đang lúc biểu diễn thì cảm thấy có đau nhói
vùng ngực lan ra lưng, nhưng về nghỉ ngơi thì
giảm đau, ăn uống đau ít nên bệnh nhân không
để ý đến tình trạng này. Chi tiết này đã làm sai
lệch chẩn đoán lúc ban đầu khi nhập viện.
BÀN LUẬN
Những thông tin liên quan đến thủng thực
quản và công tác điều trị hiện nay trên thế giới
đã có nhiều thay đổi. Năm 1724, Hermann
Boerhaave là người đầu tiên đã báo cáo một
trường hợp thủng thực quản sau nôn ói nhiều,
và tử vong nhanh chóng. Boerhaave đã nói rằng
những trường hợp này khi xảy ra, có thể chẩn
đoán được nhưng không thể cứu chữa được.
Nhưng đến năm 1947, Barrett đã chứng minh
câu nói trên không còn đúng nữa khi đã điều trị
thành công một trường hợp thủng thực quản(4).
Có nhiều nguyên nhân gây ra thủng thực
quản. Thủng thực quản thường do hóc xương
hay dụng cụ, thiết bị y tế. Thủng có thể xảy ra
trong quá trình soi thực quản, dạ dày, tá tràng
Katz đã báo cáo tỷ thường gặp lệ thủng thực
quản do nội soi ống cứng là 0,074%, ống mềm là
0,093%, vùng dễ bị tổn thương nhất là vùng cơ
nhẫn hầu. Bất kỳ ống nào đặt qua thực quản đều
có thể gây thủng thực quản, thậm chí chấn
thương sau đặt nội khí quản, phẫu thuật ở
những vùng quanh thực quản, hoặc những thiết
bị theo dõi được đặt qua thực quản trong thiết bị
hồi sức tim phổi. Nguyên nhân có thể kể đến là
thủng thực quản tự phát. Một số yếu tố liên
quan đến thủng thực quản tự phát: gia tăng áp
lực trong lòng ống thực quản, bệnh thực quản
kéo dài, thủng có liên quan đến di truyền thần
kinh. Ngoài ra còn có thủng thực quản do chấn
thương từ bên ngoài. Do đó nhiều chuyên gia
khuyến cáo tất cả các trường hợp vết thương ở
vùng cổ xuyên qua lớp cơ bám da cổ đều phải
được mở cổ để thám sát(3). Nguyên nhân sau
cùng chúng tôi muốn đề cập là dị vật, và dị vật
đặt biệt gây ra thủng thực quản có liên quan đến
nghề nghiệp là nuốt kiếm. Có 2 bài báo thảo
luận về cơ chế của nuốt kiếm và sử dụng cơ chế
này áp dụng cho nội soi thực quản. Adolph
Kussmaul đã thực hiện nội soi thực quản đầu
tiên trên bệnh nhân nuốt kiếm chuyên nghiệp
năm 1868. Ông đã quan sát thực quản và dạ dày
với ống cứng 47cm. Kussmaul nghiên cứu cơ
chế của nuốt kiếm và rút ra được kết luận: khi
nuốt kiếm từ họng đến dạ dày với sự dãn của cơ
nhẫn họng có thể tạo thành một đường thẳng,
cho phép ống soi từ thực quản đến dạ dày(4).
Chẩn đoán thủng hạ họng thực quản
thường được nghĩ đến chủ yếu dựa vào bệnh
sử. Triệu chứng chính, xuất hiện đầu tiên
thường là đau, nhưng tình trạng có thể diễn
tiến nhanh chóng dẫn đến sốc, thậm chí tử
vong nếu không được điều trị kịp thời. Các
triệu chứng khác bao gồm nuốt đau, nuốt khó,
đau ngực, nôn ra máu. Khám có thể phát hiện
nhịp thở nhanh, mạch tăng, huyết áp tụt, sốt,
ớn lạnh, có thể kèm khó thở. Nếu lỗ thủng ở
phần trên của thực quản thì triệu chứng có thể
là đau vùng cổ, co cứng, sưng tấy vùng cổ,
tràn khí dưới da. Nếu lỗ thủng ở phần giữa và
dưới của thực quản thì bệnh nhân có thể nuốt
khó, đau ngực, và khó thở. Cận lâm sàng:
Công thức máu với biểu hiện của tình trạng
nhiễm trùng. Xquang ngực cho thấy có khí
trong mô mềm vùng ngực hoặc dịch dò từ
thực quản vào trong khoang quanh phổi.
CTscan có hình ảnh tràn khí, áp xe vùng cổ
ngực. Chụp X quang sau uống thuốc cản
quang có thể giúp xác định vị trí lỗ thủng(2).
Trong các trường hợp của chúng tôi, có 2
trường hợp có tràn khí dưới da vùng cổ ngực.
so với tác giả Scott A thì trường hợp này
không có tràn khí dưới da.
Mục tiêu điều trị là ngăn ngừa nhiễm trùng
trung thất, dẫn lưu ổ nhiễm trùng, cung cấp
dinh dưỡng cho bệnh nhân, bảo tồn đường tiêu
hóa. Điều trị có thể được chia làm 2 giai đoạn:
Giai đoạn đầu bao gồm chẩn đoán xác định vị trí
và nguyên nhân gây lỗ thủng. Kháng sinh và
truyền dịch để ngăn ngừa hoặc điều trị nhiễm
trùng. Giai đoạn sau bao gồm giải quyết lỗ
thủng. Đối với những lỗ thủng thực quản đoạn
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 594
cổ, lỗ thủng có thể tự lành nếu bệnh nhân không
ăn uống trong suốt thời gian này, dinh dưỡng có
thể được cung cấp bằng ống mũi-dạ dày. Đối
với những lỗ thủng ở đoạn giữa hoặc cuối của
thực quản, thường cần phải phẫu thuật để giải
quyết lỗ thủng(2).
Ba trường hợp của chúng tôi đều đến trễ.
Một trường hợp thủng hạ họng gây áp-xe cổ.
Hai trường hợp còn lại đều thủng thực quản cổ.
Trường hợp 1 và 2, bệnh nhân được mở cổ dẫn
lưu áp-xe, đặt ống nuôi ăn mũi dạ dày hay mở
dạ dày nuôi ăn, trường hợp 3 phải mở trung thất
dẫn lưu áp-xe. Trường hợp 3 bệnh nhân không
mô tả chi tiết nuốt kiếm khi nhập viện, do đó đã
làm sai lệch chẩn đoán và điều trị. Khi phát hiện
đã áp-xe cổ lan trung thất nên phải mở cạnh cổ,
mở trung thất dẫn lưu áp-xe gây tình trạng bệnh
càng trở nên nặng nề, có thể ảnh hưởng đến tính
mạng. Các trường hợp trên đều được chụp thực
quản có uống cản quang kiểm tra trước xuất
viện, không thấy dò thực quản.
Tiên lượng bệnh nhân thủng thực quản dựa
vào nhiều yếu tố. Jones và Ginsberg đã báo cáo
tỉ lệ tử vong do thủng thực quản, từ năm 1980
đến 1990 là 22%. Trong đó tỉ lệ tử vong do thủng
thực quản đoạn cổ chiếm 6%, thủng thực quản
đoạn ngực 34% và thủng thực quản đoạn bụng
29%. Trong nghiên cứu của Attar và cộng sự cho
biết tỉ lệ thủng thực quản đoạn cổ thấp hơn là do
cấu trúc giải phẫu vùng cổ có thể ngăn sự lan
rộng của nhiễm trùng. Đăc biệt, tỉ lệ tử vong cao
ở những bệnh nhân có bệnh lý trước đó, đặc biệt
là ung thư thực quản. Theo nghiên cứu của
David B. Skinner, thời gian từ lúc thủng thực
quản cho đến khi nhập viện điều trị quyết định
kết quả điều trị. Bệnh nhân điều trị sớm trong 24
giờ đầu, tỷ lệ tử vong khoảng dưới 10%, sau 24
giờ tỷ lệ tử vong lên 44%. Ngoài ra việc chọn
phương pháp điều trị thích hợp và an toàn cũng
đóng vai trò quyết định trong tiên lượng sống
còn của bệnh nhân(4).
Thủng thực quản do nguyên nhân nuốt
kiếm hiếm gặp. Năm 2002, Scott A đã báo cáo
một trường hợp thủng thực quản do nuốt kiếm.
Vị trí thủng ở thực quản đoạn ngực. Bệnh nhân
được mở ngực khâu lỗ thủng và dẫn lưu trung
thất. Hậu phẫu ngày thứ 19, bệnh nhân bị dò
ngay tại vị trí khâu lỗ thủng và được mở thực
quản đoạn cổ. Bệnh nhân xuất viện sau 11 ngày
điều trị(4).
Trường hợp 1 bệnh nhân đã hành nghề xiếc
lâu dài (15 năm) nhưng do vừa thay đổi dụng cụ
diễn mới nên đã xảy ra thủng thực quản.
Trường hợp 2 bệnh nhân tham gia biễu diễn
nuốt kiếm được 3 tháng, không có quá trình tập
luyện thuần thục và bệnh nhân có nhiều sô diễn
nên đòi hỏi phải diễn nhanh, dễ gây tai biến.
Diễn viên xiếc đòi hỏi phải có quá trình tập
luyện lâu dài. Đặc biệt là kiểm soát được sự dãn
của cơ nhẫn hầu và phản xạ nôn khi biễu diễn.
Xiếc là một nghề đòi hỏi phải có quá trình
tập luyện kéo dài và nguy hiểm luôn rình gập,
đặc biệt là nghề nuốt kiếm. Do đó thủng thực
quản như một lời cảnh báo cho những ai tham
gia vào nghề này phải có quá trình tập luyện
công phu và thận trọng. Khi xảy ra thủng thực
quản nên đến bệnh viện sớm, nhất là trong 24
giờ đầu.
KẾT LUẬN
Thủng thực quản do nuốt kiếm hiếm gặp,
điều trị thường khó khăn, khả năng tử vong cao.
Chẩn đoán và điều trị sớm (trong 24 giờ
đầu) cho kết quả điều trị khả quan. Cả 3
trường hợp thủng hạ họng, thực quản đoạn cổ,
nhập viện ở giai đoạn muộn khi đã có biến
chứng áp-xe, gây cho tình trạng bệnh càng trở
nên nặng nề.
Mục tiêu điều trị là ngăn ngừa nhiễm trùng
trung thất, dẫn lưu ổ nhiễm trùng, cung cấp
dinh dưỡng cho bệnh nhân, bảo tồn đường
tiêu hóa.
Xiếc là một nghề đòi hỏi phải có quá trình
tập luyện kéo dài và có tính chuyên nghiệp cao.
Do đó chỉ cần không cẩn thận có thể gây hậu
quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tính mạng.
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 15 * Phụ bản của Số 4 * 2011 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật BV. Chợ Rẫy 2011 595
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Skinner DB., Little AG., DeMeester TR. (1980). “Management
of Esophageal perforation”. The American Journal of Surgery,
Vol 139, pp.760-764.
2. Kiey J, Amendola M, Bouhaider D, Sandhu BS, Zhao X,
Maher J (2007). A management algorithm for esophageal
perforation. American J Surg. ;194:103-106.
3. Luc M, Grillo HC., Malt RA. (1982). Esophageal perforation.
The Annals of Thoracic Surgeon, Vol 33(2), pp.203-208.
4. Scheinn SA, Wells PR (2001). “Esophageal perforation in a
sword Swallower”. Texas Heart Institude Journal; 28(1): 65–68.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nuot_kiem_gay_thung_ha_hong_thuc_quan_mot_so_kinh_nghiem_tro.pdf