Ngược lại, nếu đối tác của doanh
nghiệp Việt Nam là một doanh nghiệp Italia
thì sự xuất hiện của điều khoản PQPCT là
hoàn toàn hiện hữu. Bởi vì, nếu địa điểm
trọng tài là Roma, Milano, Napoli, Torino,
Palermo hay Genova như trong án lệ đã
trình bày, thì các PQPCT được thiết lập nhằm
giải quyết tranh chấp giữa doanh nghiệp Việt
Nam và doanh nghiệp Italia sẽ được các Tòa
Phúc thẩm khu vực đặt tại các thành phố này
công nhận và cho thi hành. Vậy, cần phải
toan tính xem doanh nghiệp Việt Nam có
nên đồng ý tham gia vào các quy trình trọng
tài phi chính thức hay không? Bên cạnh đó,
cho đến nay, các tòa án Việt Nam chưa từng
giải quyết các yêu cầu công nhận và cho thi
hành phán quyết trọng tài phi chính thức. Vì
thế, nếu một PQPCT được mang đến trước
các tòa án Việt Nam thì liệu rằng tòa án Việt
Nam có nên công nhận hay không? Tòa án
Việt Nam sẽ công nhận trực tiếp PQPCT
hay công nhận quyết định của Tòa án Italia
về việc công nhận PQPCT (hình thức công
nhận kép)?
Chúng tôi cho rằng, những lập luận
của Tòa Tư pháp tối cao Đức về việc không
công nhận và cho thi hành PQPCT là xác
đáng và có thể mang lại nhiều giá trị tham
khảo hữu ích cho Việt Nam. Do đó, để việc
công nhận và cho thi hành diễn ra thống
nhất, tránh những vấn đề pháp lý nảy sinh và
đảm bảo đúng tinh thần của Công ước New
York, Việt Nam không nên công nhận và cho
thi hành các PQPCT. Về mặt kỹ thuật, khi
một doanh nghiệp Việt Nam và một doanh
nghiệp Italia soạn thảo hợp đồng có đề cập
đến điều khoản giải quyết tranh chấp thì nên
quy định rõ rằng, tranh chấp giữa các bên
được giải quyết bằng một cơ quan trọng tài
cụ thể và các bên không áp dụng hình thức
trọng tài phi chính thức cũng như PQPCT.
Đây là biện pháp nhằm tránh những rắc rối
pháp lý không đáng có vì phán quyết trọng
tài khi được ban hành theo hướng thông
thường hoàn toàn có thể được công nhận và
cho thi hành một cách thuận lợi tại các Tòa
án Italia lẫn các Tòa án Việt Nam
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phán quyết trọng tài phi chính thức: Quy định của pháp luật Italia, thực tiễn thi hành tại đức và một số đề xuất cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÁN QUYẾT TRỌNG TÀI PHI CHÍNH THỨC: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT ITALIA,
THỰC TIỄN THI HÀNH TẠI ĐỨC VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT CHO VIỆT NAM
Tóm tắt:
Thông thường, quy trình tố tụng trọng tài sẽ được kết thúc thông
qua việc Hội đồng Trọng tài tuyên một phán quyết trọng tài, trong
đó nêu rõ các quyền và nghĩa vụ mà các bên phải thực hiện. Thế
nhưng, ở một số quốc gia, với đặc thù riêng, thay vì công nhận
phán quyết của Hội đồng Trọng tài, lại cho phép các bên tranh chấp
được tự mình quyết định về các nội dung của vụ tranh chấp. Phán
quyết trọng tài được các bên tự quyết định thông qua cách thức
như vậy được gọi là “phán quyết trọng tài phi chính thức” (lodo
irrituale). Italia ủng hộ phán quyết trọng tài phi chính thức, trong
khi đa phần các nước khác, điển hình là Đức, hoàn toàn không
chấp nhận loại hình phán quyết trọng tài này.
* NCS. GV. Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
** Sinh viên Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Lê Nguyễn Gia Thiện*
Lê Nguyễn Gia Thuận**
Abstract
Normally, the arbitration proceedings shall cease in the event
that the arbitral tribunal renders an arbitral award, which declares
legitimate rights and obligations of parties to the dispute.
Nevertheless, several jurisdictions, based on their own specific
legislations, allow parties to decide on the content of the dispute
without the rendering an award of the tribunal. Such awards made
in those cases have been called “free award” (or lodo irrituale in
Italian language). Italia has been the leading country that supports
and encourages free award, while others, including Germany,
totally refuse this type of arbitral award.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: tố tụng trọng tài, phán quyết
trọng tài, phán quyết trọng tài phi
chính thức, công nhận và cho thi hành
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 14/12/2018
Biên tập : 27/02/2019
Duyệt bài : 01/03/2019
Article Infomation:
Keywords: arbitration, arbitral
award, lodo irrituale, recognition and
enforcement
Article History:
Received : 14 Dec. 2018
Edited : 27 Feb. 2019
Approved : 01 Mar. 2019
1. Những vấn đề cơ bản về phán quyết
trọng tài phi chính thức
1.1. Quan niệm của Italia về phán quyết
trọng tài phi chính thức
Tố tụng trọng tài là một quy trình tố
tụng tư, hoàn toàn thượng tôn sự thỏa thuận
của các bên tranh chấp. Các bên tranh chấp,
tùy theo nhu cầu và nguyện vọng của mình,
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 5(381) T3/2019
có quyền thỏa thuận về tất cả các vấn đề, các
bước của toàn bộ quy trình tố tụng. Có một
nguyên tắc được thực tiễn trọng tài thương
mại quốc tế áp dụng rộng rãi cũng như được
ghi nhận rõ ràng trong pháp luật trọng tài
của các nước đó là: các bên hoàn toàn được
quyền thỏa thuận về nội dung vụ tranh chấp
của chính mình. Cơ quan giải quyết tranh
chấp, tức Hội đồng Trọng tài (HĐTT)1, sẽ
ghi nhận một cách cụ thể tất cả những sự
thỏa thuận của các bên về nội dung vụ tranh
chấp trong một phán quyết trọng tài, gọi là
“phán quyết đồng thuận” (agreed award hay
consent award)2. Phán quyết đồng thuận có
giá trị pháp lý và có khả năng thi hành một
cách hoàn toàn như phán quyết toàn phần3
và phán quyết từng phần4.
Quy trình tố tụng trọng tài kết thúc với
việc HĐTT ra một phán quyết, có hiệu lực
ràng buộc và chung thẩm như bản án của
Tòa án, là hết sức phổ biến và được dự liệu
trong pháp luật trọng tài của tất cả các quốc
gia trên thế giới. Thế nhưng, ở Italia5, lại có
hai quan niệm khác nhau về quy trình tố tụng
trọng tài. Theo đó, quy trình trọng tài mà các
bên lựa chọn có thể rơi vào một trong hai
tình huống hoàn toàn riêng biệt là quy trình
trọng tài chính thức (arbitrato rituale) và
quy trình trọng tài phi chính thức (arbitrato
irrituale). Quy trình trọng tài chính thức
là quy trình tố tụng trọng tài thông thường
được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới.
Theo quy trình này, trọng tài, đóng vai trò
là các thẩm phán tư, sẽ ban hành một hoặc
1 Trường hợp tranh chấp được giải quyết thông qua một trọng tài viên duy nhất được áp dụng hoàn toàn tương tự.
2 Về phán quyết đồng thuận và việc thi hành loại phán quyết này, xem: Yaraslau Kryvoi/Dmitry Davydenko, Consent
Awards in International Arbitration: From Settlement to Enforcement, Brooklyn Journal of International Law Volume
40, Issue 3, Article 3, 2015, tr. 827 - 868.
3 Phán quyết toàn phần (full award) giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp.
4 Phán quyết từng phần (partial award) giải quyết một phần nội dung vụ tranh chấp.
5 Chỉ có Italia.
6 Pháp luật nước này không ghi nhận trọng tài phi chính thức như là một phương thức minh thị bên cạnh trọng tài chính
thức. Bằng chứng là pháp luật trọng tài của Italia năm 1994 (sửa đổi năm 1997) không đề cập bất kỳ điều khoản nào
trọng tài phi chính thức, xem: Reisman/Craig/Park/Paulsson, International Commercial Arbitration: Cases, Materials
and Notes on the Resolution of International Business Disputes, Nxb. The Foundation Press, 1997, tr. 327-346.
7 Điển hình nhất là vấn đề liệu rằng toàn bộ các điều khoản của Thiên VIII Quyển IV Bộ luật Tố tụng dân sự Italia có
được áp dụng cho tố tụng trọng tài phi chính thức hay không?, xem: Valerio Sangiovanni, Arbitrato irrituale e regole
procedurali nel nouvo diritto italiano (Free arbitration and procedural rules in the new Italian law), ASA Bulletin, 2008,
Issue 4, tr. 688-698.
nhiều phán quyết về nội dung vụ tranh chấp,
phán quyết này mang giá trị chung thẩm và
ràng buộc các bên như là bản án của Tòa án.
Ngược lại, quy trình trọng tài phi chính thức
không dẫn đến việc ban hành phán quyết của
cơ quan trọng tài. Trong quá khứ, pháp luật
Italia chỉ xem trọng tài phi chính thức như
là một hình thức tập quán giải quyết tranh
chấp6. Tuy nhiên sau đó, Luật Trọng tài
Italia đã quy định rất cụ thể hình thức trọng
tài này. Dù vẫn còn có nhiều cách hiểu khác
nhau giữa các luật gia Italia về nội dung và
cách thức áp dụng quy trình trọng tài phi
chính thức, nhưng các luật gia đều đồng ý
rằng, quy trình trọng tài phi chính thức là
quy trình hoàn toàn dựa trên sự chủ động
của các bên, và chính các bên, chứ không
phải HĐTT, mới là người thiết lập nên phán
quyết trọng tài nhằm giải quyết tranh chấp.
Phán quyết được thiết lập dựa hoàn toàn
vào ý chí của các bên và trọng tài chỉ đóng
vai trò là người chứng kiến sự thỏa thuận
được gọi là phán quyết trọng tài phi chính
thức (PQPCT)7.
1.2. So sánh phán quyết trọng tài phi chính
thức với phán quyết đồng thuận và thỏa
thuận hòa giải thành
Điểm giống nhau cơ bản giữa PQPCT
và phán quyết đồng thuận là ở chỗ, cả hai
loại phán quyết này đều hình thành từ ý
chí tuyệt đối thông qua sự thỏa thuận của
các bên. HĐTT chỉ giúp các bên hiểu được
nguyện vọng của đối phương và mang các
bên lại với nhau, chứ HĐTT tuyệt đối không
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 5(381) T3/2019
dựa vào sự nhận thức và xem xét của chính
mình để ban hành một phán quyết trọng tài.
Thế nhưng, điểm khác biệt giữa PQPCT và
phán quyết đồng thuận là rất rõ ràng. Nếu
như ở phán quyết đồng thuận, HĐTT phải
ban hành một phán quyết nhằm hiện thực
hóa sự thỏa thuận của các bên, thì trong
PQPCT vấn đề lại khác hoàn toàn. Trong
PQPCT, HĐTT chỉ xuất hiện như là “người
làm chứng” cho những sự thỏa thuận của
các bên tranh chấp, HĐTT hoàn toàn không
có thẩm quyền ban hành một phán quyết
trọng tài.
Dù hoàn toàn khác với phán quyết
đồng thuận, nhưng PQPCT và thỏa thuận
hòa giải thành (TTHGT) lại có nhiều điểm
tương đồng8. Khác với trọng tài, quy trình
mà HĐTT đóng vai những thẩm phán tư
đứng ra giải quyết tranh chấp cho các bên
hòa giải là một biện pháp giải quyết tranh
chấp hoàn toàn tùy thuộc vào sự thiện
chí của các bên tranh chấp. Các bên tranh
chấp sẽ là người quyết định cho sự thành
công của hòa giải thông qua việc thiết lập
TTHGT9, còn hòa giải viên chỉ có nhiệm vụ
giúp các bên thấu hiểu yêu cầu của bên kia
và giúp các bên tìm ra tiếng nói chung. Hòa
giải viên tuyệt đối không có thẩm quyền ban
hành một văn bản mang tính ràng buộc và
chung thẩm như trọng tài. Có thể thấy rằng,
cả PQPCT và TTHGT đều do chính các bên
chủ động thiết lập, cơ quan giải quyết tranh
chấp là trọng tài (tức HĐTT) và hòa giải chỉ
đóng vai trò hỗ trợ và giúp các bên đạt được
những sự thỏa thuận nhằm giải quyết nội
dung vụ tranh chấp.
Pháp luật Italia quan niệm rằng,
PQPCT đã ghi nhận rất rõ sự đồng thuận của
8 Marike Paulsson, The 1958 New York Convention in Action, Nxb. Kluwer Law International, 2016, tr. 85.
9 Lê Nguyễn Gia Thiện/Nguyễn Thị Thùy Linh, Hòa giải thương mại và thi hành thỏa thuận hòa giải thành ở Cộng hòa
Liên bang Đức, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Bộ Tư pháp, 2018, Số 5 (314), tr. 46 và tiếp theo.
10 Valerio Sangiovanni, tlđd, tr. 692.
11 PQPCT muốn được thi hành thì phải được Tòa án công nhận, trong khi phán quyết chính thức thì có thể thi hành ngay,
xem: Gianluca Buoro, Drafting Arbitration Clauses and Arbitration Agreements Governed by Italian Law, International
In-house Counsel Journal, Vol. 2, No. 5, 2008, tr. 795.
12 Tòa án có thẩm quyền là Tòa phúc thẩm khu vực nơi bên phải thi hành cư trú hoặc Tòa phúc thẩm khu vực Roma (nếu
không xác định được nơi cư trú của bên phải thi hành hoặc bên phải thi hành không cư trú tại Italia).
13 Phán quyết BGH, Urteil 8/11/1981 III ZR 42/80.
các bên về việc giải quyết nội dung vụ tranh
chấp, vì vậy hình thức phán quyết này hoàn
toàn có giá trị ràng buộc các bên10. Theo quy
định của Điều 825 Bộ luật Tố tụng dân sự
Italia, các bên có thể nộp phán quyết trọng
tài tại Tòa phúc thẩm khu vực nơi mà phán
quyết được lập để yêu cầu Tòa án công nhận
và cho thi hành11. Nếu một phán quyết trọng
tài nước ngoài được thiết lập theo phương
thức phi chính thức, phán quyết này sẽ được
Tòa án phúc thẩm khu vực12 của Italia đảm
bảo thi hành như là một phán quyết chính
thức thông thường theo tinh thần của Điều
839 và 840 Bộ luật Tố tụng dân sự.
2. Thực tiễn công nhận và cho thi hành
phán quyết trọng tài phi chính thức tại Đức
Nhiều năm trước đây, Tòa án Đức đã
từng đối mặt với yêu cầu công nhận và cho thi
hành PQPCT tại Đức. Theo đó, một PQPCT
được các bên thống nhất thông qua tại
Genova (PQPCT Genova) ngày 10/5/1976
dựa trên cơ sở thỏa thuận giữa một doanh
nghiệp Đức (Ag) và 18 doanh nghiệp khác
về vấn đề doanh nghiệp Đức đồng ý thực
hiện nghĩa vụ trả nợ cho việc tái bảo hiểm
của 18 doanh nghiệp kia. Thế nhưng, sau đó
doanh nghiệp Ag của Đức từ chối thực hiện
nghĩa vụ của mình, điều này làm 18 doanh
nghiệp tái bảo hiểm cùng thống nhất cử
Công ty bảo hiểm E làm đại diện và mang
PQPCT Genova giữa các bên đến yêu cầu
Tòa án Đức công nhận và cho thi hành. Sau
khi Tòa sơ thẩm và Tòa phúc thẩm từ chối
thi hành PQPCT Genova này, Tòa Tư pháp
Liên bang của Đức (Bundesgerichtshof) đã
nhận được yêu cầu xử giám đốc thẩm của
Công ty bảo hiểm E. Tòa Tư pháp liên bang
đã lập luận như sau13:
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 5(381) T3/2019
- Về tính chất hợp đồng của PQPCT
Genova
PQPCT Genova được thiết lập hoàn
toàn dựa trên sự ưng thuận và thống nhất ý
kiến của các bên tranh chấp. Vai trò của cơ
quan trọng tài chỉ là hỗ trợ và mang các bên
lại với nhau. Trọng tài không ban hành bất
kỳ một phán quyết nào dựa trên thẩm quyền
tài phán của mình. Vì được thiết lập căn
cứ vào sự hợp ý của các bên, nên PQPCT
Genova mang đầy đủ tính chất của quan hệ
hợp đồng, với nội dung là các thỏa thuận về
quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh sau
khi tố tụng trọng tài phi chính thức kết thúc.
PQPCT Genova ràng buộc các bên và các
bên có nghĩa vụ phải thực hiện những gì đã
cam kết.
-Về khả năng công nhận và cho thi
hành tại Đức
Tòa Tư pháp liên bang nhận định rằng,
mặc dù hợp đồng giữa các bên được ký vào
6/1965, nhưng khi yêu cầu công nhận và
cho thi hành PQPCT được mang đến trước
các Tòa án Đức thì cả Đức và Italia đều đã
trở thành thành viên chính thức14 của Công
ước Liên hiệp quốc về Công nhận và cho
thi hành phán quyết trọng tài nước ngoài15
(Công ước New York) và Công ước này đã
có hiệu lực hoàn toàn trên lãnh thổ của Đức
và Italia16, do đó việc công nhận và cho thi
hành PQPCT Genova phải được xem xét
trong khuôn khổ của Công ước New York.
Theo 5 ngôn ngữ chính thức của Công
ước New York là Anh, Pháp, Nga, Trung và
Tây Ban Nha thì trọng tài được hiểu như là
một thiết chế tư nhân mang tính tài phán,
cơ quan này có thẩm quyền tư pháp như
một tòa án trong việc ban hành ra một phán
14 Lần lượt là 30/6/1961 và 31/1/1969.
15 Được thông qua tại New York ngày 10/6/1958, có hiệu lực từ ngày 7/6/1958. Tính đến mùa thu 2017, Công ước New
York đã thu hút sự gia nhập của 159 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, thành viên mới nhất là Sudan.
16 Lần lượt là 28/9/1961 và 1/5/1969.
17 Ngay cả các Tòa án tại vùng nói tiếng Italia của Thụy Sỹ, vốn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của văn hóa pháp lý Italia,
cũng không hoàn toàn ủng hộ các yêu cầu công nhận và cho thi hành PQPCT, xem: Andrea Bonomi/Elza Reymond-
Eniaeva, Interpretation and Application of the New York Convention in Switzerland, trong George A. Bermann (chủ
biên), Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards: The Interpretation and Application of the New York
Convention by National Courts, Nxb. Springer, 2017, tr. 914.
18 Tức phán quyết đồng thuận.
quyết ràng buộc và có giá trị pháp lý như
bản án của một tòa án. Vì lẽ đó, việc các
bên cùng nhau thỏa thuận về các nội dung
của vụ tranh chấp, cũng như về các quyền
và nghĩa vụ nhằm giải quyết tranh chấp mà
không được cơ quan trọng tài ghi nhận trong
một phán quyết đồng thuận thì sẽ không rơi
vào phạm vi điều chỉnh của Công ước New
York.
PQPCT chỉ là sản phẩm đặc thù và
cá biệt của nền pháp chế Italia, bên cạnh đó
cũng chỉ có Italia thừa nhận hiệu lực và khả
năng thi hành PQPCT17, trong khi các quốc
gia khác, bao gồm Đức, tuyệt đối không ủng
hộ vấn đề này. Nếu Tòa án Đức công nhận
và cho thi hành PQPCT Genova thì coi như
Tòa án Đức đã đem các tiêu chuẩn của Italia
về việc công nhận và cho thi hành phán quyết
trọng tài nước ngoài áp vào nền pháp chế
Đức, điều này là hoàn toàn không hợp lý.
Hơn nữa điều này còn trái với tinh thần của
chính Điều III Công ước New York, vốn dĩ
trao toàn quyền cho các quốc gia thành viên
trong việc thiết lập các cơ chế, quy trình để
công nhận và cho thi hành phán quyết trọng
tài nước ngoài, miễn là các quy trình, cơ chế
này không vi phạm những tiêu chuẩn cơ bản
được nêu ra trong Công ước.
Dựa vào các căn cứ không công nhận
và cho thi hành theo tinh thần của Công
ước New York thì PQPCT Genova đã phạm
vào Điều V(1)(e) về tính hiệu lực của phán
quyết. Tòa Tư pháp tối cao nhận định rằng,
PQPCT Genova được hình thành trên sự thỏa
thuận của các bên tranh chấp, do đó chỉ ràng
buộc các bên tranh chấp mà không có hiệu
lực thi hành như một phán quyết trọng tài18.
Hơn nữa, cả Công ước châu Âu về Trọng
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 5(381) T3/2019
tài Thương mại quốc tế19 và Hiệp định Công
nhận và cho thi hành lẫn nhau các bản án
của Tòa án giữa Italia và Đức cũng không có
quy định nào liên quan đến PQPCT. Tòa Tư
pháp tối cao dù không trực tiếp công nhận
PQPCT Genova nhưng vẫn mở ra cho bên
được thi hành “một con đường vòng” thông
qua khả năng “công nhận kép”. Theo đó,
nếu PQPCT Genova này được một Tòa án
của Italia, cụ thể là Tòa Phúc thẩm khu vực
Genova, công nhận trước đó thì các Tòa án
Đức sẽ chấp nhận công nhận và cho thi hành
theo tinh thần của Hiệp định Công nhận và
cho thi hành lẫn nhau các bản án của Tòa án
giữa Italia và Đức.
3. Một số bình luận và gợi ý cho Việt Nam
3.1. Một số bình luận
Tính chất ràng buộc và chung thẩm
của PQPCT là yếu tố quyết định đến khả
năng có thể công nhận và cho thi hành của
loại hình phán quyết này. Pháp luật Italia
ủng hộ tính ràng buộc và chung thẩm của
PQPCT dù rằng loại hình phán quyết này chỉ
dựa trên sự đồng thuận của các bên. Ngược
lại, chính vì PQPCT chỉ được thiết lập thông
qua sự thỏa thuận của các bên tranh chấp
mà không được cơ quan trọng tài ghi nhận
thành một phán quyết đồng thuận nên Tòa
án nhiều nước, mà cụ thể là Đức, không
đồng ý thi hành các phán quyết này.
Việc tìm ra một mẫu số chung cho
việc công nhận và cho thi hành phán quyết
trọng tài nước ngoài tại các nước khác nhau,
như trường hợp này là Italia và Đức, là điều
không dễ dàng. Vì Công ước New York, với
tư cách điều ước quốc tế hữu hiệu nhất trong
lĩnh vực trọng tài thương mại quốc tế nói
chung20, chỉ thiết lập những tiêu chuẩn sàn
cơ bản để một phán quyết trọng tài nước
ngoài có thể được công nhận và cho thi hành.
Còn quy trình cụ thể và các bước để công
nhận và cho thi hành một phán quyết trọng
tài nước ngoài không được Công ước New
York dự liệu. Các nền pháp chế khác nhau,
19 Được thông qua tại Geneva ngày 21/4/1961. Công ước này có 32 thành viên, bao gồm hầu hết các quốc gia châu Âu và
một vài nước ngoài châu Âu như Cuba và Burkina Faso.
20 Mauro-Rubino Sammartano, International Arbitration: Law and Practice, Kluwer Law Internationat, 2001, p. 943.
với những quan điểm lập pháp đặc thù, sẽ có
các quy định riêng biệt nhằm hiện thực hóa
tinh thần ủng hộ trọng tài (pro-arbitration)
và ủng hộ việc thi hành phán quyết
(pro-enforcement) của Công ước New York.
Chúng tôi cho rằng, việc Tòa Tư pháp
tối cao của Đức không công nhận và cho thi
hành PQPCT được lập tại Genova là một
quyết định đúng, vì các lý do sau:
(i) PQPCT về mặt bản chất chỉ có
giá trị pháp lý như một thỏa thuận hòa giải
thành, một văn bản chỉ ràng buộc chính các
bên tranh chấp chứ không thể có hiệu lực
chung thẩm và có thể cho thi hành như một
phán quyết đồng thuận được.
(ii) Quyền tư pháp của mỗi quốc gia,
như trong trường hợp này là quyền từ chối
công nhận và cho thi hành PQPCT của Tòa
Tư pháp tối cao, là bất khả xâm phạm. Tòa
án Đức có toàn quyền quyết định về những
vụ việc mà mình đối mặt, cũng như có quyền
đưa ra những nhận định, lập luận liên quan
đến vụ việc đang thụ lý. Việc buộc các Tòa
án Đức phải tuân theo triết lý và thực tiễn
của Tòa án Italia về việc công nhận và cho
thi hành PQPCT là điều hoàn toàn bất khả
thi, vì vốn dĩ điều này là bất hợp lý.
Phán quyết của Tòa Tư pháp tối cao
Đức đã mở ra cho bên được thi hành “một
con đường vòng” thông qua khả năng “công
nhận kép” PQPCT. Công nhận kép có nghĩa
là, nếu bên được thi hành trước hết mang
PQPCT Genova đến cho Tòa Phúc thẩm
khu vực Genova công nhận, sau đó lại mang
PQPCT Genova cùng với quyết định công
nhận của Tòa Phúc thẩm khu vực Genova đến
yêu cầu Tòa án Đức xem xét công nhận và
cho thi hành thì Tòa án Đức có thể công nhận
và cho thi hành PQPCT thông qua việc công
nhận và cho thi hành quyết định công nhận
PQPCT của Tòa Phúc thẩm khu vực Genova.
Thế nhưng, đó là viễn cảnh trước đây, bởi từ
năm 2009 trở về sau, Tòa Tư pháp tối cao đã
không còn ủng hộ việc công nhận kép này
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 5(381) T3/2019
nữa21. Lý do Tòa Tư pháp tối cao đoạn tuyệt
với việc công nhận kép là do22:
(i) việc công nhận kép chỉ phù hợp với
các nước common như Hoa Kỳ, tiêu chuẩn công
nhận của Hoa Kỳ không thể áp đặt lên Đức;
(ii) việc công nhận kép tạo ra sự lẩn tránh
thậm chí là vô hiệu hóa Công ước New York;
(iii) công nhận kép tạo nên sự phức
tạp, phân tán trong việc công nhận và cho
thi hành phán quyết trọng tài tại Đức.
Vì vậy, có thể kết luận rằng, trong
bối cảnh hiện tại, PQPCT (lodo irrituale) sẽ
không thể được công nhận và cho thi hành
tại Đức bằng cả hình thức công nhận thông
thường và công nhận kép. Các bên tham
gia vào tố tụng trọng tài bắt buộc phải trình
ra trước cơ quan tư pháp của Đức, mà cụ
thể là một Tòa Phúc thẩm khu vực có thẩm
quyền, một phán quyết trọng tài. Phán quyết
này phải do cơ quan trọng tài ban hành, giải
quyết toàn bộ hoặc một phần nội dung vụ
tranh chấp hoặc phán quyết ghi nhận cụ thể
những sự thỏa thuận của các bên về việc giải
quyết nội dung của tranh chấp.
3.2. Gợi mở cho Việt Nam
PQPCT là sản phẩm đặc thù của pháp
luật trọng tài Italia và được nền pháp chế này
hết sức ủng hộ. Ngược lại, pháp luật Đức
không hề tán thành vấn đề này và như minh
chứng từ phán quyết của Tòa Tư pháp tối
cao Đức, PQPCT sẽ không thể được công
nhận tại Đức. Trong bối cảnh mở rộng giao
thương quốc tế hiện nay của Việt Nam, đặc
biệt là khi Hiệp định Thương mại tự do Việt
Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA) sắp
được thông qua, việc một doanh nghiệp Việt
Nam ký kết hợp đồng thương mại quốc tế
với các doanh nghiệp Italia và Đức là điều
hết sức bình thường. Trong các hợp đồng
ký với doanh nghiệp Đức, trường hợp về
PQPCT sẽ không tồn tại vì các luật sư tư
vấn cho doanh nghiệp Đức sẽ không bao giờ
hướng đến việc giải quyết bằng trọng tài phi
chính thức.
21 Phán quyết BGH, Urteil 2/7/2009 IX ZR 152/06.
22 Lê Nguyễn Gia Thiện, Vấn đề “công nhận kép” phán quyết của trọng tài thương mại nước ngoài - nhìn từ thực tiễn tại
Đức, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, Số 10, 5/2015, tr. 64.
Ngược lại, nếu đối tác của doanh
nghiệp Việt Nam là một doanh nghiệp Italia
thì sự xuất hiện của điều khoản PQPCT là
hoàn toàn hiện hữu. Bởi vì, nếu địa điểm
trọng tài là Roma, Milano, Napoli, Torino,
Palermo hay Genova như trong án lệ đã
trình bày, thì các PQPCT được thiết lập nhằm
giải quyết tranh chấp giữa doanh nghiệp Việt
Nam và doanh nghiệp Italia sẽ được các Tòa
Phúc thẩm khu vực đặt tại các thành phố này
công nhận và cho thi hành. Vậy, cần phải
toan tính xem doanh nghiệp Việt Nam có
nên đồng ý tham gia vào các quy trình trọng
tài phi chính thức hay không? Bên cạnh đó,
cho đến nay, các tòa án Việt Nam chưa từng
giải quyết các yêu cầu công nhận và cho thi
hành phán quyết trọng tài phi chính thức. Vì
thế, nếu một PQPCT được mang đến trước
các tòa án Việt Nam thì liệu rằng tòa án Việt
Nam có nên công nhận hay không? Tòa án
Việt Nam sẽ công nhận trực tiếp PQPCT
hay công nhận quyết định của Tòa án Italia
về việc công nhận PQPCT (hình thức công
nhận kép)?
Chúng tôi cho rằng, những lập luận
của Tòa Tư pháp tối cao Đức về việc không
công nhận và cho thi hành PQPCT là xác
đáng và có thể mang lại nhiều giá trị tham
khảo hữu ích cho Việt Nam. Do đó, để việc
công nhận và cho thi hành diễn ra thống
nhất, tránh những vấn đề pháp lý nảy sinh và
đảm bảo đúng tinh thần của Công ước New
York, Việt Nam không nên công nhận và cho
thi hành các PQPCT. Về mặt kỹ thuật, khi
một doanh nghiệp Việt Nam và một doanh
nghiệp Italia soạn thảo hợp đồng có đề cập
đến điều khoản giải quyết tranh chấp thì nên
quy định rõ rằng, tranh chấp giữa các bên
được giải quyết bằng một cơ quan trọng tài
cụ thể và các bên không áp dụng hình thức
trọng tài phi chính thức cũng như PQPCT.
Đây là biện pháp nhằm tránh những rắc rối
pháp lý không đáng có vì phán quyết trọng
tài khi được ban hành theo hướng thông
thường hoàn toàn có thể được công nhận và
cho thi hành một cách thuận lợi tại các Tòa
án Italia lẫn các Tòa án Việt Nam
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 5(381) T3/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_quyet_trong_tai_phi_chinh_thuc_quy_dinh_cua_phap_luat_i.pdf