Thứ hai, cùng với sự tăng trưởng kinh tế, Việt Nam
cần khuyến khích phát triển các ngành hàng phục vụ
tiêu dùng cho nước, sản xuất xuất khẩu hạn chế nhập
khẩu đối với các mặt hàng dược phẩm, dụng cụ y tế,
sắt thép, xăng dầu. Việt Nam cần có các chính sách
khuyến khích tìm kiếm nguồn năng lượng thay thế
giảm sự phụ thuộc nhiều vào xăng dầu.
Thứ ba, Việt Nam cần tiếp tục thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI chọn lọc và tăng tính lan tỏa của
FDI trong nền kinh tế. Thu hút FDI theo hướng giảm
số lượng gia tăng chất lượng, tập trung vào đầu tư
công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, ưu tiên các dự án
chuyển giao công nghệ nguồn, công nghệ tiên tiến từ
các quốc gia phát triển. Việt Nam cần xây dựng cơ chế
kết nối hiệu quả liên kết các doanh nghiệp FDI và các
doanh nghiệp trong nước để tạo sức lan tỏa cho nền
kinh tế.
Thứ tư, Nhà nước cần tạo điều kiện để các doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế trong nước nâng cao
hiệu quả hoạt động để sản xuất phục vụ tiêu dùng nội
địa, là nguyên liệu đầu vào then chốt phục vụ cho các
doanh nghiệp FDI và sản xuất xuất khẩu các sản phẩm
Thứ năm, hạn chế giá trị gia tăng nước ngoài trong
xuất khẩu thay vào đó là gia tăng giá trị nội địa Việt
Nam trong xuất khẩu. Việt Nam cần phải tập trung
xây dựng năng lực cho các doanh nghiệp trong nước
cùng với xây dựng các cơ chế hỗ trợ để giúp các doanh
nghiệp từng bước phát triển các ngành công nghiệp
hỗ trợ liên quan nghiên cứu và phát triển sản phẩm,
chế tạo các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Chỉ khi
nào các ngành công nghiệp hỗ trợ thượng nguồn phát
triển mới có thể hạn chế giá trị gia tăng nước ngoài
trong xuất khẩu để cải thiện CCTM.
12 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 328 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích các nhân tố tác động đến cán cân thương mại Việt Nam trong bối cảnh tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):538-549
Open Access Full Text Article Bài Nghiên cứu
Trường Đại học Kinh tế - Luật,
ĐHQG-HCM, Việt Nam
Liên hệ
Mai Thị Cẩm Tú, Trường Đại học Kinh tế -
Luật, ĐHQG-HCM, Việt Nam
Email: tumtc@uel.edu.vn
Lịch sử
Ngày nhận: 14-8-2019
Ngày chấp nhận: 27-9-2019
Ngày đăng: 31-3-2020
DOI : 10.32508/stdjelm.v4i1.597
Bản quyền
© ĐHQG Tp.HCM. Đây là bài báo công bố
mở được phát hành theo các điều khoản của
the Creative Commons Attribution 4.0
International license.
Phân tích các nhân tố tác động đến cán cân thươngmại Việt Nam
trong bối cảnh tham gia chuỗi giá trị toàn cầu
Mai Thị Cẩm Tú*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
TÓM TẮT
Cán cân thương mại là một trong những cân đối vĩ mô quan trọng và có tác động mạnh cán cân
thanh toán quốc tế và tổng thể nền kinh tế quốc gia. Thâm hụt cán cân thươngmại của một quốc
gia lớn sẽ làm cho năng lực cạnh tranh hàng hóa thấp, tăng trưởng xuất khẩu và tăng trưởng kinh
tế của quốc gia đó càng thấp. Bài viết tập trung phân tích các nhân tố cốt lõi tác động đến cán
cân thương mại Việt Nam trong bối cảnh tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Tác giả sử dụng phương
pháp kiểm định biên (Bound – Testing) và mô hình ARDL với dữ liệu từ năm 1990 đến năm 2018
để xác định các nhân tố tác động đến cán cân thươngmại Việt Nam trong dài hạn. Kết quả nghiên
cứu cho thấy, trong dài hạn, các nhân tố tác động đến cán cân thương mại Việt Nam lần lượt sắp
xếp theo tầm quan trọng như sau: Thu nhập quốc nội thực của các đối tác thương mại Việt Nam;
Thu nhập quốc nội thực của Việt Nam; Tỷ giá hối đoái thực đa phương; giá trị gia tăng nước ngoài
trong hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Từ kết
quả nghiên cứu quan trọng này, tác giả đề xuất một số hàm ý kiến nghị với các nhà hoạch định
chính sách nhằm góp phần cải thiện cán cân thương mại trong bối cảnh ngày càng tham gia sâu
vào chuỗi giá trị toàn cầu cũng như tận dụng tốt những cơ hội từ việc tham gia này.
Từ khoá: Cán cân thương mại, tỷ giá hối đoái, xuất khẩu, nhập khẩu, FDI, FVA, thương mại
GIỚI THIỆU
Là một quốc gia đang phát triển như Việt Nam, cần
thu hút các nguồn lực nước ngoài để tạo tiền đề thúc
đẩy phát triển và tăng trưởng của nền kinh tế trong
nước nên cán cân thương mại có thể thâm hụt trong
thời gian đầu nhưng không thể chấp nhận cán cân
thương mại thâm hụt trong một thời gian dài. Nếu
cán cân thương mại thâm hụt trong thời gian dài sẽ
ảnh hưởng đến sản lượng trong nước, việc làm và cán
cân thanh toán quốc tế.
Hình 1 cho thấy, cán cân thương mại của Việt Nam
trong gần 30 năm qua thâmhụt liên tục, có nhiều biến
động khó đoán và giai đoạn gần đây có sự chuyển biến
tích cực. Giai đoạn 1990 – 2011, cán cân thương mại
luôn thâm hụt qua các năm, thâm hụt nhiều nhất là
giai đoạn 2007 – 2011 với giá trị thâm hụt trung bình
khoảng 13,5 tỷ USD/năm. Giai đoạn 2012 – 2018, cán
cân thương mại có chuyển biến tích cực từ cán cân
thương mại thâm hụt sang cán cân thương mại thặng
dư, tuy nhiên trong giai đoạn này cũng như trong giai
đoạn trước, cán cân thương mại luôn biểu hiện sự bất
ổn qua các năm.
Cán cân thương mại đóng vai trò quan trọng đối với
nền kinh tế. Chính sự thiếu ổn định, biến động khó
đoán của cán cân thương mại Việt Nam qua các năm
nên rất cần có nhiều nghiên cứu về cán cân thương
mại để có cách nhìn đa chiều, toàn diện hơn để góp
phần cải thiện cán cân thương mại Việt Nam. Một số
nhà khoa học đã thực hiện các công trình nghiên cứu
về cán cân thương mại Việt Nam qua các giai đoạn
khác nhau đã có một số đóng góp nhất định về mặt
khoa học cũng như ý nghĩa thực tiễn nhằm góp phần
cải thiện cán cân thươngmại. Qua lược khảo các công
trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy rằng có ít các công
trình nghiên cứu về cán cân thương mại tổng thể của
Việt Nam. Phần lớn các nghiên cứu đều đồng tình các
nhân tố tác động đến cán cân thương mại Việt Nam
trong thời gian qua như: Tỷ giá hối đoái2–6; Giá dầu
thế giới2,6,7; Thu nhập quốc dân thực5,6. Tuy nhiên,
các nghiên cứu này không đồng nhất về dấu tác động
của tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại; và còn
nhiều nhân tố tác động đến cán cân thương mại còn
bỏ ngỏ. Cán cân thương mại là vấn đề rộng lớn, phức
tạp liên quan đến hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu của
một quốc gia. Do đó, để cải thiện cán cân thươngmại
cần có sự góp sức của nhiều nhà khoa học, nhiều công
trình nghiên cứu nhằm phát hiện thêm các nhân tố
mới để thấy rõ hơn bức tranh tổng thể cũng như phân
tích một cách tương đối đầy đủ các nhân tố tác động
đến cán cân thương mại.
Mục tiêu chính của bài viết này là nhằm phân tích
một cách tương đối đầy đủ các nhân tố tác động đến
Trích dẫn bài báo này: Tú M T C. Phân tích các nhân tố tác động đến cán cân thương mại Việt Nam
trong bối cảnh tham gia chuỗi giá trị toàn cầu. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. LawManag.; 4(1):538-549.
538
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):538-549
Hình 1: Tình hình cán cân thươngmại Việt Nam giai đoạn 1990 – 2018. (Nguồn: Tổng cục Hải quan và Niêm
giám thống kê xuất nhập khẩu giai đoạn 1986 – 2005, 2006 – 2018 1)
cán cân thương mại (CCTM) trong dài hạn và từ đó
đề xuất một số kiến nghị nhằm góp phần cải thiện
CCTM trong bối cảnh Việt Nam (VN) ngày càng
tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, chiến tranh
thương mại Trung Quốc – Mỹ và sự phát triển mạnh
mẽ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0. Bài viết có
đóng góp nhất định về mặt khoa học đó là phát hiện
thêm nhân tố giá trị gia tăng nước ngoài trong xuất
khẩu có tác động đến CCTM VN. Bên cạnh đó, bài
viết cũng có đóng góp vềmặt thực tiễn đó là phân tích
mức độ tác động, thực trạng các nhân tố tác động đến
CCTM VN trong giai đoạn 1990 – 2018 và đề xuất
một số kiến nghị cho các nhà hoạch định chính sách
nhằm cải thiện CCTM trong bối cảnh mới.
Các phần tiếp theo của bài viết này bao gồm: Cơ sở
lý thuyết và đề xuất mô hình nghiên cứu; Dữ liệu và
phương pháp nghiên cứu; Kết quả và thảo luận; và Kết
luận và một số kiến nghị.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ ĐỀ XUẤTMÔ
HÌNH NGHIÊN CỨU
Cơ sở lý thuyết
Cán cân thương mại là giá trị chênh lệch giữa giá trị
xuất khẩu và giá trị nhập khẩu củamột quốc gia trong
một thời gian nhất định (thường làmột năm). CCTM
làmột vấn đề rộng nên có nhiều cách tiếp cận và cơ sở
lý thuyết khác nhau để giải thích các nhân tố tác động
đến CCTM. Từ khái niệm cho thấy, cán cân thương
mại củamột quốc gia chịu sự ảnh hưởng của các nhân
tố tác động đến giá trị xuất khẩu, giá trị nhập khẩu của
chính quốc gia đó. CCTM được biểu diễn dưới dạng
phương trình như sau:
TBi j = X si j Mdi j (1)
Trong đó, TBij là CCTM của quốc gia i với quốc gia
j; X si j là giá trị hàng hóa xuất khẩu của quốc gia i với
quốc gia j;Mdi j là giá trị hàng hóa nhập khẩu của quốc
gia i từ quốc gia j.
Theo Goldstein và Khan (1985)8, giá trị nhập khẩu
hàng hóa của quốc gia i với quốc gia j (Mdi j) phụ thuộc
vào giá nhập khẩu tương đối của quốc gia i (RPmi) và
thu nhập thực của quốc gia i (Yi). Hàm cầu nhập khẩu
của quốc gia i từ quốc gia j được biểu diễn như sau:
Mdi j =M
d
i j(RPmi;Yi) (2)
và RPmi = Px jER jiPi =
Pj
ER jiPi
Px j
Pj = RER jiRPx j (3)
Px j là giá xuất khẩu hàng hóa của quốc gia j; Pi là giá
hàng hóa trong nước của quốc gia i; Pj là giá hàng hóa
trong nước của quốc gia j; ERji là tỷ giá hối đoái danh
nghĩa giữa tiền tệ quốc gia j và tiền tệ quốc gia i; RERji
là tỷ giá hối đoái thực giữa giữa tiền tệ quốc gia j và
tiền tệ quốc gia i; RPx j là giá xuất khẩu tương đối của
quốc gia j.
Thay (3) vào (2) ta được Mdi j = Mdi j(RER ji
RPx j;Yi) (4)
Tương tự cầu nhập khẩu của quốc gia j từ quốc gia i
Mdji =M
d
ji(
RPxi
RER ji ;Y j) (5)
RPxi là giá xuất khẩu tương đối của quốc gia i; Y j thu
nhập thực quốc gia j
539
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):538-549
Mà cung xuất khẩu của quốc gia i sang quốc gia j (X si j)
bằng với cầu nhập khẩu hàng hóa của quốc gia j từ
quốc gia i (Mdji) và ngược lại. Do đó:
X si j =M
d
ji và X sji =Mdi j (6)
Phương trình (4), (5) và (6), (1) được viết lại như sau:
TBi j = Mdji(
RPxi
RER ji ; Y j) Mdi j(RER ji
RPx j; Yi) (7)
Giả định giá trị RPxi;RPx j là không đổi nên phương
trình (7) được viết rút gọn như sau:
TBi j = TBi j(RER ji; Y j; Yi) (8)
¶TBi j
¶Yi < 0;
¶TBi j
¶Y j > 0;
¶TBi j
¶RER ji > 0;
¶TBi j
¶RER ji < 0
Từ phương trình (8) cho thấy, CCTM phụ thuộc vào
tỷ giá hối đoái thực (RERji); thu nhập thực của quốc
gia j ( Y j); và thu nhập thực của quốc gia i (Yi). Sự
thay đổi của thu nhập thực quốc gia i sẽ tác động âm
đến CCTM. Sự thay đổi thu nhập của quốc gia j sẽ tác
động dương đến CCTM và sự thay đổi của tỷ giá hối
đoái thực có thể tác động âm hoặc dương đến CCTM.
Theo điều kiệnMarshall-Lerner, việc phá giá nội tệ có
tác động đến CCTM nếu giá trị tuyệt đối của tổng hai
độ co dãn theo giá cả của xuất khẩu và độ co dãn theo
giá cả của nhập khẩu phải lớn hơn 1. Phá giá dẫn tới
giảm giá hàng xuất khẩu bằng ngoại tệ thúc đẩy xuất
khẩu hàng hóa tăng lên. Đồng thời, giá cả hàng nhập
khẩu bằng nội tệ trở nên cao hơn làm giảm nhu cầu
đối với hàng hóa nhập khẩu. Mặt khác, CCTM được
cải thiện nếu hàng xuất khẩu co dãn theo giá làm cho
tỷ lệ tăng lượng cầu về hàng hóa lớn hơn tỷ lệ giảm
giá sẽ làm cho giá trị xuất khẩu tăng và nếu hàng nhập
khẩu co dãn theo giá làm cho giá trị nhập khẩu hàng
hóa giảm.
Hiệu ứng đường cong J chỉ ra rõ sự thay đổi theo thời
gian của cán cân thương mại khi đồng nội tệ mất giá.
Theo đó, ban đầu cán cân thươngmại sẽ xấu đi, sau đó
được cải thiện ở mức tốt hơn trạng thái trước khi mất
giá, tiếp đến là cán cân thương mại sẽ biến động theo
dạng hình chữ J nghiêng về bên phải. Nghiên cứu của
Magee (1973) chỉ ra rằng trong ngắn hạn, ngay sau
khi có sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái làm cho giá trị
hàng hóa nhập khẩu tính theo đồng nội tệ trước khi
đồng nội tệ mất giá sẽ cao hơn giá trị của hàng hóa
xuất khẩu, kết quả là thâm hụt cán cân thương mại
tăng9. Điều chỉnh tỷ giá hối đoái một thời gian làm
cho giá cả thay đổi còn lượng hàng hóa xuất khẩu và
nhập khẩu thì chưa có sự điều chỉnh. Giá cả của hàng
hóa nhập khẩu tính theo đồng nội tệ sẽ tăng vì mất
giá của đồng nội tệ, trong khi đó lượng hàng hóa nhập
khẩu không đổi như vậy giá trị hàng hóa nhập khẩu
theo đồng nội tệ tăng. Giá trị hàng hóa xuất khẩu tính
theo ngoại tệ lại giảm vì giá giảm và lượng không đổi
nhưng tính theo đồng nội tệ thì không đổi vì giá và
lượng đều không đổi. Kết quả là nếu tính theo đồng
nội tệ thì cán cân thương mại xấu đi. Trong dài hạn,
giá và lượng đều thay đổi. Thời kỳ này nếu điều kiện
Marshall- Lerner thỏa mãn thì cán cân thương mại sẽ
được cải thiện. Dưới góc độ so sánh tĩnh thì điều này
hoàn toàn là đúng tuy nhiên ở góc độ phân tích động
thì lượng có thể sẽ điều chỉnh không nhanh bằng giá
nên dẫn tới độ trễ của ảnh hưởng, theo đó cán cân
thươngmại vẫn có thể xấu đi trước khi được cải thiện
để đạt điểm cân bằng mới.
Cách tiếp cận chi tiêu chỉ ra tác động của phá giá đến
hành vi chi tiêu trong nước và ảnh hưởng đến cán cân
thương mại. Lý thuyết này cho rằng thâm hụt thương
mại của một quốc gia, chi tiêu nội địa cho tiêu dùng
và đầu tư lớn hơn thu nhập quốc dân. Muốn cải thiện
cán cân thương mại thì cần đến sự gia tăng thu nhập
cao hơn tổng chi tiêu trong nước.
Lược khảo các công trình nghiên cứu thực
nghiệm liên quan
Chính vì tầm quan trọng của CCTM đối với sự ổn
định kinh tế vĩ mô và phát triển kinh tế của mỗi quốc
gia nên CCTM luôn là chủ đề thu hút các nhà nghiên
cứu nước ngoài và trong nước nghiên cứu tương đối
nhiều. Qua lược khảo các nghiên cứu nước ngoài và
trong nước về CCTM, tác giả nhận thấy có hai cách
tiếp cận khác nhau: Một là, nghiên cứu CCTM tổng
thể của một quốc gia với tất các quốc gia có quan
hệ thương mại với quốc gia đó. Hai là, nghiên cứu
CCTM song phương giữa một quốc gia với một hoặc
một số quốc gia có quan hệ thương mại với quốc gia
đó. Trong bài viết này, tác giả chỉ lược khảo các nghiên
cứu theo cách tiếp cận thứ nhất.
Duasa (2007) nghiên cứu các nhân tố tác động đến
cán cân thương mại của Malaysia giai đoạn 1974-
200310. Nghiên cứu sử dụng mô hình ARDL, nghiên
cứu chỉ ra rằng tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa thu
nhập, cung tiền và cán cân thương mại và không tồn
tại mối quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và cán cân thương
mại.
Ray (2012) phân tích các nhân tố tác động đến cán
cân thương mại Ấn Độ11. Nghiên cứu sử dụng mô
hình VECM, OLS để xem xét mối quan hệ dài hạn và
ngắn hạn của các nhân tố kinh tế vĩ mô ảnh hưởng
đến cán cân thương mại. Nghiên cứu sử dụng số liệu
giai đoạn 1972-73 đến 2010-11. Kết quả nghiên cứu
chỉ ra rằng tồn tại mối quan hệ ngắn hạn và dài hạn
giữa tỷ giá hối đoái thực, FDI, tiêu dùng trong nước,
thu nhập nước ngoài. FDI và thu nhập nước ngoài tác
động dương đến cán cân thương mại, tiêu dùng trong
nước, tỷ giá hối đoái thực tác động âm đến cán cân
thương mại.
Gzaw (2015) xem xét mối quan hệ ngắn hạn và dài
hạn giữa cán cân thương mại, thu nhập, cung tiền và
540
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):538-549
tỷ giá hối đoái thực trường hợp của nền kinh tế của
Ethiopian12. Nghiên cứu sử dụngmô hình ARDL với
số liệu giai đoạn 1979/80 đến 2012/13. Kết quả nghiên
cứu chỉ ra rằng tồn tại mối quan hệ dài hạn giữa cán
cân thương mại và thu nhập, cung tiền và tỷ giá hối
đoái thực. Ba biến thu nhập, cung tiền, tỷ giá hối đoái
thực tác động dương đến cán cân thương mại trong
dài hạn và không tồn tại mối quan hệ ngắn hạn.
Osoro (2013) nghiên cứu về các nhân tố tác động
đến cán cân thương mại của Kenya giai đoạn 1963-
201213. Nghiên cứu sử dụng dồng liên kết Johansen
và ECM để xem xét mối quan hệ giữa các nhân tố tác
động đến CCTM của Kenya. Kết quả chỉ ra rằng FDI,
tỷ giá hối đoái, thâm hụt ngân sách chính phủ có tác
động đến CCTM.
Alhanom (2016) nghiên cứu về các nhân tố của cán
cân thương mại Jordan14. Nghiên cứu sử dụng mô
hình ARDL để ước lượng mức độ tác động của các
nhân tố tác động đến cán cân thương mại Jordan giai
đoạn 1970-2010. Mô hình đề xuất các nhân tố tác
động đến cán cân thương mại Jordan bao gồm: Tỷ
giá hối đoái thực, thu nhập quốc nội, thu nhập nước
ngoài. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tỷ giá hối đoái
thực không có tác động đến cán cân thươngmại trong
cả ngắn hạn và dài hạn.
Ademe (2016) nghiên cứu về các nhân tố tác động
đến cán cân thương mại của Ethiopian15. Nghiên
cứu sử dụng mô hình ECM để phân tích số liệu giai
đoạn 1981-2011. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng trong
dài hạn tồn tại mối quan hệ giữa GNI bình quân đầu
người, lạm phát trong nước và cán cân thương mại và
tác động âm. Giá dầu thế giới có tác động dương đến
cán cân thương mại. Trong ngắn hạn, co giãn nhập
khẩu, giá dầu thế giới năm trước, GNI bình quân đầu
người năm trước, tăng trưởng nông nghiệp tác động
dương đến cán cân thương mại và co giãn xuất khẩu,
lạm phát năm trước, GNI bình quân đầu người năm
hiện tại có tác động âm đến cán cân thương mại.
Ali (2017) nghiên cứu về các nhân tố tác động đến
cán cân thươngmại của Sudan giai đoạn 1970-2014 16.
Nghiên cứu sử dụng mô hình ARDL và ECM-ARDL
để xem xét các nhân tố tác động đến cán cân thương
mại trong ngắn hạn và dài hạn. Trong dài hạn tỷ giá
hối đoái, lạm phát, GDP thực bình quân đầu người
có tác động âm đến cán cân thương mại, chi phí tài
chính, tín dụng khu vực tư nhân, đầu tư có tác động
dương đến cán cân thương mại.
Mutana và cộng sự (2018) nghiên cứu về các nhân tố
kinh tế vĩ mô tác động đến cán cân thương mại của
Kenya’s17. Nghiên cứu sử dụng mô hình VECM với
số liệu năm giai đoạn 1963-2016. Kết quả nghiên cứu
chỉ ra rằng điều kiện thương mại, tự do hóa thương
mại và FDI có ý nghĩa và tác động dương đến cán cân
thương mại trong dài hạn. Tỷ giá hối đoái thực tác
động âm đến cán cân thương mại trong dài hạn.
NguyễnHữuTuấn7 phân tích tác động của các biến số
kinh tế vĩ mô đến cán cân thương mại Việt Nam giai
đoạn từ quý 1 năm 1999 đến quý 1 năm 2010. Nghiên
cứu sử dụng phương pháp phân tích đồng liên kết của
Engle-Granger (1987) và Johansen (1990) để đo lường
các mối quan hệ trong dài hạn giữa các biến. Kết quả
phân tích cho thấy trong dài hạn cán cân thương mại
đồng biến với thu nhập quốc dân thực và chỉ số giá
tiêu dùng của các đối tác thương mại, nghịch biến với
tỷ giá hối đoái thực đa phương và thu nhập quốc dân
thực, chỉ số giá tiêu dùng và quy mô vốn FDI18,19.
Diệp Gia Luật và Trần Trung Kiên (2013) nghiên cứu
về tác động của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
đến cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 1992-
20124. Với phương pháp hồi quy hệ phương trình
SURE và thực hiện kiểm định hồi quy bình phương
nhỏ nhất OLS, kết quả nghiên cứu cho thấy dòng vốn
FDI có tác động đến cán cân thương mại, đặc biệt là
giá trị xuất khẩu. Nghiên cứu chưa tìm ra được bằng
chứng thống kê về mối quan hệ giữa giá trị hàng hóa
nhập khẩu với các biến FDI, thu nhập và tỷ giá đa
phương.
Nguyễn Khắc Quốc Bảo (2013) nghiên cứu về tác
động của cú sốc giá dầu lên cán cân thương mại Việt
Nam và tìm hiểu mối quan hệ nhân quả giữa cán cân
thươngmại với các nhân tố vĩ mô khác có liên quan2.
Tác giả sử dụngmô hình ARDL với dữ liệu quý 1 năm
1999 tới quý 4 năm2011. Kết quả nghiên cứu cho thấy
cómộtmối quan hệ nghịch biến đáng kể giữa giá dầu,
tỷ giá hối đoái và cán cân thươngmại ởViệt Nam. Tuy
nhiên trong ngắn hạn lại tồn tại mối tương quan cùng
chiều giữa tỷ giá hối đoái, giá dầu thế giới với cán cân
thương mại.
Lê Hoàng Phong và ĐặngThị Bạch Vân6 nghiên cứu
về tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến cán cân
thương mại Việt Nam giai đoạn 1986- 2014. Nghiên
cứu sử dụng mô hình phân phối độ trễ tự hồi quy
ARDL để kiểm định mối quan hệ đồng liên kết và mô
hình ECM-ARDL để đánh giá tác động ngắn hạn của
các nhân tố vĩ mô đến cán cân thương mại. Kết quả
nghiên cứu cho thấy trong cả ngắn hạn và dài hạn,
tổng sản phẩm quốc nội và tỷ giá có tác động dương
đến cán cân thươngmạiViệtNam, trong khi cung tiền
lại có tác động dương trong ngắn hạn nhưng lại có tác
động âm trong dài hạn.
Tô Trung Thành (2016) nghiên cứu về các nhân tố
tác động đến cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn
1997-2015 dựa trên ước lượng mô hình VECM có
ràng buộc20. Kết quả cho thấy độmở cửa càng lớn thì
cán cân thương mại càng xấu đi, giá trị ban đầu của
tài sản nước ngoài ròng cao sẽ khiến cán cân thương
541
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):538-549
mại giảmxuống trong dài hạn; hệ thống tài chính phát
triển giúp cán cân thương mại được cải thiện trong
khi thu nhập bình quân cao hơn có thể làm cán cân
thương mại xấu đi; tỷ giá thực hữu hiện không có
tương quan chặt chẽ với cán cân thương mại; gia tăng
FDI có thể làm tăng xu hướng nhập siêu tại Việt Nam;
tự do hóa tài chính được tìm thấy góp phần cải thiện
cán cân thương mại trong dài hạn.
Phạm Thị Nga (2017) đã nghiên cứu tác động của tỷ
giá hối đoái tới cán cân thương mại Việt Nam thông
qua việc kiểm chứng điều kiệnMarshall-Lerner trong
bối cảnh kinh tế Việt Nam5. Số liệu về các biến số
sử dụng từ quý 1 năm 2000 đến quý 1 năm 2016. Kết
quả nghiên cứu cho thấy phá giá đồng nội tệ không
góp cải thiện cán cân thương mại quốc gia.
Đỗ Thị Mỹ Hương và Đặng Thị Xuân Thơm (2018) 3
đã nghiên cứu tác động của sự thay đổi tỷ giá lên
cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 2001- 2015.
Nghiên cứu sử dụngmô hình ước lượng phân phối trễ
tự hồi quy ARDL, hiệu chỉnh sai số ECM-ARDL. Kết
quả nghiên cứu cho thấy trong dài hạn, VNĐ giảm
giá thực làm suy giảm cán cân thương mại và ngược
lại khi VNĐ lên giá thực sẽ góp phần cải thiện cán
cân thương mại. Trong ngắn hạn, mô hình ECM chỉ
ra không có mối quan hệ nào giữa tỷ giá và cán cân
thương mại.
Qua lược khảo tổng quan các nghiên cứu nước ngoài
và trong nước, tác giả nhận thấy rằng đa số các nghiên
cứu nước ngoài và trong nước tiếp cận CCTM theo
phương pháp tiếp cận co giãn với điều kiện Marshall
– Lerner, đường cong J; phương pháp tiếp cận chi tiêu
vàmột số ít nghiên cứu tiếp cận thêmphương pháp số
nhân và phương pháp tiền tệ, trên cơ sở tiếp cận đó để
phát triển mở rộng mô hình nghiên cứu về các nhân
tố tác động đến CCTM. Đa số các nghiên cứu trên
đều chỉ ra tỷ giá hối đoái thực, thu nhập quốc nội, thu
nhậpnước ngoài có tác động đếnCCTM.Một số nhân
tố mới phát triển thêm có tác động đến CCTM phải
kể đến đó là: FDI, cung tiền, lạm phát, chi tiêu chính
phủ, chi tiêu của hộ gia đình, tốc độ tăng trưởng nông
nghiệp, giá dầu thế giới. Tuy nhiên, kết quả của các
nghiên cứu trên chưa đồng nhất về mối quan hệ của
tỷ giá hối đoái thực và CCTM. Một số nghiên cứu chỉ
ra tỷ giá hối đoái thực tác động tích cực đến CCTM
và một số nghiên cứu khác lại chỉ ra tỷ giá hối đoái
thực tác động tiêu cực đến CCTM. Hơn thế nữa, ở
Việt Nam còn ít nghiên cứu về CCTM tổng thể. Do
đó, rất cần có thêm nhiều nghiên cứu thực nghiệm tại
Việt Nam để phát hiện thêm các nhân tốmới tác động
đến CCTM một cách tương đối đầy đủ và đa chiều
cũng như khẳng định thêm mối quan hệ giữa tỷ giá
hối đoái thực và CCTM trong bối cảnh sự phát triển
chuỗi giá trị gia tăng toàn cầumạnhmẽ và chiến tranh
thương mại Trung Quốc – Mỹ ngày càng căng thẳng.
Phần lớn các nghiên cứu sử dụng mô hình ARDL với
dữ liệu nămhoặc quý để đánh giámối quan hệ dài hạn
và ngắn hạn của các nhân tố tác động đến CCTM.
Đề xuất mô hình nghiên cứu
Qua việc hệ thống lý thuyết và các phương pháp tiếp
cận về các nhân tố tác động đến CCTM của một quốc
gia với các quốc gia và các nghiên cứu thực nghiệm
nước ngoài và trong nước, bài viết này sẽ vận dụng
lý thuyết về các nhân tố tác động đến CCTM như
phương trình (8) và kết hợp với phương pháp tiếp
cận co giãn theo điều kiện Marshall – Lerner, đường
cong J, phương pháp chi tiêu, phương pháp số nhân
để phát triểnmở rộngnhằmxây dựngmôhìnhnghiên
cứu. Tác giả đề xuấtmô hình các nhân tố tác động đến
CCTM của một quốc gia với thế giới được biểu diễn
dưới dạng phương trình (9). Các biến lấy Logarithm
(ký hiệu L).
LTBvwt = b1 + b2REERwvt + b3LRGDPvt +
b4LRGDPwt + b5LFDIvt + b6LFVAvt +
ut (9)
TBvwt là cán cân thương mại tổng thể Việt Nam với
thế giới năm t. Bài viết đo lường CCTM tổng thể bằng
tỷ số giữa tổng giá trị xuất khẩu hàng hóa và tổng giá
trị nhập khẩu hàng hóa.
REERwvt là tỷ giá hối đoái thực đa phương được tính
toán từ một rổ tỉ giá của các quốc gia đối tác thương
mại lớn nhất của Việt Nam năm t. Sự tăng lên trong
REER cho thấy đồng nội tệ đang sụt giảm sức mua
tương đối với các đồng tiền khác. Ngược lại, REER
giảm cho thấy giá trị của đồng nội tệ đang được nâng
lên. Theo lý thuyết ở phương trình (8) REER có thể tác
động âm hoặc dương lên CCTM. Theo cách tiếp cận
co giãn theo điều kiệnMarshall – Lerner thì sự phá giá
đồng nội tệ sẽ cải thiện CCTM trong dài hạn. Theo
cách tiếp cận đường cong J thì sự phá giá đồng nội tệ
sẽ làm thâm hụt CCTM trong ngắn hạn và cải thiện
CCTM trong dài hạn. Theo cách tiếp cận liên hoàn thì
tỷ giá hối đoái thực tăng sẽ làm cho CCTM thâm hụt.
Mặt khác, các nghiên cứu thực nghiệm chỉ ra rằng tỷ
giá hối đoái thực có thể tác động âm có thể tác động
dương đến CCTM. Tác giả đặt kỳ vọng REERwvt có
thể tác động âm, có thể tác động dương đến TBvw.
RGDPvt là thu nhập quốc nội thực (GDP thực) của
Việt Nam năm t. Theo lý thuyết ở phương trình (8)
thì thu nhập quốc nội thực của Việt Nam tác động âm
đến CCTM. Theo cách tiếp cận số nhân và chi tiêu
thì thu nhập quốc nội thực cao thì chi tiêu hàng hóa
nhập khẩu tăng do đó CCTM thâm hụt. Mặt khác,
theo cách tiếp cận liên hoàn thì thu nhập tăng thì quốc
gia tăng sản xuất hàng hóa trong nước thay thế nhập
542
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):538-549
khẩu, tăng xuất khẩu nên CCTM thặng dư. Một số
nghiên cứu thực nghiệm về CCTM ở các nước đang
phát triển đều cho thấy rằng thu nhập quốc nội thực
có tác động âm đến CCTM. Tương tự, VN cũng là
quốc gia đang phát triển. Do đó, tác giả đặt kỳ vọng
RGDPv tác động âm đến TBvw.
RGDPwt là thu nhập quốc nội thực của các đối tác
thương mại chủ yếu của Việt Nam năm t. Theo lý
thuyết ở phương trình (8) thì thu nhập quốc nội thực
của các đối tác thương mại, thế giới tác động dương
đến CCTM. Thu nhập quốc nội thực của các đối tác
thương mại, thế giới tăng thì CCTM được cải thiện.
Tác giả đặt kỳ vọng RGDPw tác động dương đến
TBvw.
FDIvt là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
năm t. Vốn đầu tư nước ngoài tăng thêm sẽ là nguồn
tài chính ổn định để tài trợ cho thâm hụt thương mại,
vì khả năng duy trì thâm hụt của một quốc gia bị hạn
chế bởi nguồn tài chính bên ngoài. Vốn đầu tư nước
ngoài cao hơn có thể giúp gia tăng xuất khẩu, có thể
gia tăng nhập khẩu. Tác động của FDI lên CCTM có
thể được thể hiện thông qua các yếu tố khác như tăng
trưởng kinh tế cao hơn và tích lũy tài sản nước ngoài
ròng cao hơn. FDI cũng có thể là một nguồn lực quan
trọng để cải thiện năng lực sản xuất trong nước, sau đó
là xuất khẩu, khiến cán cân thươngmại được cải thiện.
Một số nghiên cứu thực nghiệm nước ngoài đối với
các quốc gia đang phát triển, FDI có thể tác động âm,
có thể tác động dương đến CCTM.Theo tác giả thì về
lý thuyết thì FDI được xem là nguồn vốn bổ sung quan
trọng để cải thiện năng lực sản xuất trong nước, tạo
việc làm, tăng thu nhập, tăng xuất khẩu, CCTM được
cải thiện. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu thu hút FDI
của các quốc gia, thì FDI chưa có thể tác động tích cực
đến CCTM do các yếu tố nội tại của các quốc gia tiếp
nhận còn nhiều hạn chế, tính lan tỏa trong quốc gia
chưa nhiều, chủ yếu phụ thuộc vào nhập khẩu bên
ngoài. Trong trung hạn và dài hạn, FDI sẽ tác động
tích cực để cải thiện năng lực sản xuất trong nước,
tạo việc làm, tăng thu nhập, tăng xuất khẩu, CCTM
được cải thiện. VN đã thu hút FDI ngay từ những
năm đầu nền kinh tế mở cửa, thời gian đủ dài để cải
thiện các yếu tố nội tại của VN, FDI tác động tích cực
đến CCTM. Do đó, bài viết này đặt kỳ vọng FDIv tác
động dương đến TBvw.
FVAvt là giá trị gia tăng nước ngoài trong xuất khẩu
của Việt Nam năm t, biểu thị qua giá trị hàng hóa
trung gian nhập khẩu của Việt Nam từ các nước trên
thế giới để làm đầu vào cho quá trình sản xuất và xuất
khẩu. Giá trị gia tăng nước ngoài trong xuất khẩu của
Việt Nam tăng sẽ tác động tiêu cực đến CCTM. Tác
giả đặt kỳ vọng FVAv tác động âm đến TBvw.
DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU
Dữ liệu nghiên cứu
Nghiên cứu sửdụng các biến gồm: TBvwt; REERwvt,
RGDPvt,RGDPwt,FDIvt; FVAvt. Dữ liệu được theo
năm từ năm 1990 đến 2018 (Bảng 1).
Phương pháp nghiên cứu
Nhằm phân tích tác động và xác định mối quan hệ
cân bằng dài hạn giữa các biến, nghiên cứu sử dụng
phương pháp kiểm định biên (Bound – Testing) được
xây dựng bởi Pesaran (2001)21 dựa trênmôhình phân
phối trễ tự hồi quy (ARDL). Phương pháp ARDL
thích hợp cho những mẫu có kích thước nhỏ. So với
các kiểm định đồng liên kết khác như: Phương pháp
Engle-Granger (1987), Johansen (1988), Johansen –
Juselius (1990), Gregory và Hansen (1996), phương
pháp ARDL có nhiều ưu điểm hơn18,19,22,23. Thứ
nhất, trong trường hợp số lượng mẫu nhỏ, mô hình
ARDL là cách tiếp cận có ý nghĩa, tránh được các
khuyết tật đối với cở mẫu nhỏ. Thứ hai, các kỹ thuật
đồng liên kết yêu cầu các biến hồi quy được đưa vào
liên kết có độ trễ như nhau thì trong cách tiếp cận
ARDL, các biến hồi quy có thể dung nạp các độ trễ
tối ưu khác nhau. Thứ ba, không đảm bảo về thuộc
tính dừng (hay thuộc tính về nghiệm đơn vị) của hệ
thống dữ liệu thì áp dụng ARDL là thích hợp nhất cho
nghiên cứu thực nghiệm. Chính vì những lý do trên,
bài viết sử dụng phương pháp ARDL để phân tích tác
động và xác định mối quan hệ cân bằng dài hạn giữa
các biến như liệt kê ở Bảng 2. Bài viết sử dụng phần
mềm Eviews 9.
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Trong nghiên cứu này, phương pháp kiểm định Aug-
mented Dikey-Fuller (ADF) sẽ được áp dụng để kiểm
tra tính dừng cho các biến ở Bảng 2. Kết quả kiểm
định tính dừng được thể hiện trong Bảng 2.
Kết quả kiểm định tính dừng cho thấy, các biến dừng
ở thứ bậc 0 và 1. Tiếp đến, là kiểm định biên (Bound
– Testing) để kiểm định mối quan hệ dài hạn giữa các
biến trong mô hình (Bảng 3).
Kết quả kiểm định biên cho thấy tồn tại hiện tượng
đồng liên kết giữa các biến ở 4 mức ý nghĩa. Nói cách
khác, có mối quan hệ cân bằng trong dài hạn giữa LT-
Bvw và LRGDPw, LRGDPv, LFDIv, LREERwv, LF-
VAv.
Để tính toán hệ số cân bằng dài hạn giữa các biến,
bước tiếp theo là xác định độ trễ tối ưu cho mô hình
ARDL. Tổ hợp tối ưu sẽ tương ứng với mô hình có chỉ
tiêu Akaike nhỏ nhất. Kết quả định lượng chỉ ra mô
hình tối ưu là ARDL (2, 2, 1, 1, 2, 2) (Bảng 4).
543
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):538-549
Bảng 1: Các biến và Nguồn số liệu của các biến
STT Các biến Nguồn số liệu
1 Cán cân thương mại Việt Nam với thế giới
(TBvw). Tỷ số giữa tổng giá trị xuất khẩu và
tổng giá trị nhập khẩu
Niêm giám thống kê VN từ năm 2012
đến 2018
2 Tỷ giá hối đoái thực đa phương (REERwv).
Chỉ số được tính toán dựa trên năm gốc là
2010
The International Financial Statistics
(IFS)
3 Giá trị quốc nội thực của Việt Nam (RGDPv).
Chỉ số được tính toán dựa trên năm gốc là
2010
World Bank database (WDI)
4 Giá trị quốc nội thực của các quốc gia có
thương mại với Việt Nam (RGDPw). Chỉ số
được tính toán dựa trên năm gốc là 2010
World Bank database (WDI) và tính
toán của tác giả
5 Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của Việt Nam
(FDIv).
World Bank database (WDI)
6 Giá trị gia tăng nước ngoài trong xuất khẩu
của Việt Nam (FVA)
Worldmrio.com
Bảng 2: Kết quả kiểm định tính dừng bằng phương pháp ADF
Chuỗi gốc Sai phân bậc 1
Biến Chặn Chặn & xu thế Chặn Chặn & xu thế Bậc dừng
LTBvw -1,741871
(0,4002)
-5,718912
(0,0004)***
-3,929823
(0,0062)***
-3,705759
(0,0408)**
I(0)
LREERwv -3,671893
(0,0104)***
-3,528075
(0,0556)*
-3,239666
(0,0285)**
-3,284925
(0,0901)*
I(0)
LRGDPw 0,254580
(0,9713)
-2,514214
(0,3193)
-4,576780
(0,0012)***
-4,475894
(0,0073)***
I(1)
LRGDPv -1,156677
(0,6771)
-4,032522
(0,0197)**
-2,506204
(0,1256)
-2,570058
(0,2954)
I(0)
LFDIv -2,177145
(0,2184)
-2,543373
(0,3066)
-3,943249
(0,0056)***
-3,822991
(0,0308)**
I(1)
LFVAv -1,511916
(0,5130)
-1,328977
(0,8593)
-5,146942
(0,0003)***
-5,399259
(0,0009)***
I(1)
Chú thích: Giá trị P-value được để trong (); (***), (**), (*): dừng ở mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%
Bảng 3: Kết quả của kiểm định biên
Biến phụ thuộc Giá trị thống kê F (Kiểm định
Wald)
Hiện tượng đồng liên
kết
F(LTBvw/ LRGDPw,LRGDPv,LFDIv,LREERwv,LFVAv) 20,55719 Có
Pesaran (2001) Giá trị biên*
Mức ý nghĩa Đường bao I(0 ) Đường bao I(1 )
10% 2,26 3,35
5% 2,62 3,79
2,5% 2,96 4,18
1% 3,41 4,68
544
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):538-549
Bảng 4: Hệ số cân bằng trong dài hạn ARDL (2, 2, 1, 1, 2, 2).
Biến phụ thuộc: LTBvw
Biến độc lập Hệ số hồi quy Sai số chuẩn Giá trị thống kê t Xác suất
LREERwv -1,450981*** 0,339707 -4,271267 0,0013
LRGDPv -2,936782*** 0,654241 -4,488838 0,0009
LRGDPw 9,100609*** 1,337911 6,802105 0,0000
LFVAv -0,799599*** 0,124560 -6,419408 0,0000
LFDIv 0,233867*** 0,061147 3,824653 0,0028
C -86,996134*** 11,641170 -7,473144 0,0000
R-squared 0,987549
Adjusted R-
squared
0,970569
Normality test: JB= 0,400891 (0,818366)
Serial correlation test: LM= 3,234563 (0,0874)
Ramsey RESET test =0,193784(0,8502)
White Heteroscedasticity= 19,44940 (0,1941)
Chú thích: (***) có ý nghĩa ở mức 1%
Từ kết quả nghiên cứu cho thấy, trong dài hạn cả 5
biến đều có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1% và
phù hợp với giả thuyết nghiên cứu ban đầu đặt ra. Các
nhân tố tác động đến CCTM tổng thể Việt Nam bao
gồm: Tỷ giá hối đoái thực đa phương, thu nhập quốc
nội thực của Việt Nam, thu nhập quốc nội thực của
các đối tác Việt Nam, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
và giá trị gia tăng nước ngoài trong xuất khẩu.
Tỷ giá hối đoái thực đa phương tác động âm đến
CCTM Việt Nam, có thể khẳng định đây là dấu hiệu
cho thấy sự tồn tại của đường cong J tại Việt Nam.
Theo lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm đều
cho thấy REER có thể tác động âm hoặc dương đến
CCTM. Nếu sự tăng lên của REERwv cho thấy sự sụt
giảm giá trị VNĐ so với rổ tiền tệ của các đối tác
thương mại chủ yếu của VN sẽ thúc đẩy xuất khẩu và
hạn chế nhập khẩu làm cho CCTM thặng dư. Nhưng
thực tế REERwv tác động âm đến CCTM điều này có
thể do các nguyên nhân chính sau: Thứ nhất, phát
triển xuất khẩu một số ngành hàng mũi nhọn của
Việt Nam đã và đang phụ thuộc vào nhập khẩu từ
bên ngoài. Các mặt hàng nhập khẩu cũng chính là
các mặt hàng xuất khẩu luôn chiếm tỷ trọng lớn trong
cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam trong
suốt thời gian qua như: Máy móc, thiết bị, dụng cụ,
phụ tùng, máy vi tính, sản phẩm điện, linh kiện, các
nguyên liệu sản xuất, hàng tiêu dùng có giá trị cao.
Thứ hai, Việt Nam nhập khẩumáymóc, thiết bị, dụng
cụ để sử dụng cho nhu cầu nội địa. Điều này cho thấy
khi sự sụt giảm giá trị VNĐ làm cho giá trị xuất khẩu
gia tăng ít hơn sự gia tăng của giá trị nhập khẩu, có
thể thấy rằng một phần giá trị nhập khẩu đã được giữ
lại cho nền kinh tế nội địa. Về lâu dài, nếu như cơ cấu
các mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu này không có gì
thay đổi, giá trị nhập khẩu giữ lại cho nền kinh tế nội
địa được duy trì thì sự phá giáVNĐ làm tăngREERwv
sẽ làm cho CCTM Việt Nam tiếp tục thâm hụt. Thứ
ba, Việt Nam có lợi thế so sánh về các mặt hàng sản
xuất xuất khẩu nông sản nhưng năng lực sản xuất xuất
khẩu của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế,
chất lượng sản phẩm xuất khẩu chưa đáp ứng yêu cầu
xuất khẩu nên khi phá giá đồng nội tệ thì hoạt động
xuất khẩu và CCTM chưa chắc đã cải thiện.
Thu nhập quốc nội thực của Việt Nam tác động âm
đến CCTM. Thu nhập quốc nội thực của Việt Nam
gia tăng dẫn đến CCTM thâm hụt. Sự phát triển kinh
tế của Việt Nam đã và đang phụ thuộc nhiều vào hoạt
động nhập khẩu, nhập khẩu để phục vụ sản xuất xuất
khẩu như các mặt hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ,
điện thoại và linh kiện, nguyên phụ liệu dệt may, da
giày, chất dẻo nguyên liệu. Mặt khác, sự phát triển
mạnh mẽ của ngành bất động sản và xây dựng ở Việt
Nam đã làm gia tăng lượng nhập khẩu sắt thép. Hay
sự nhập khẩu xăng dầu, nhập khẩu thiết bị y tế và dược
phẩm để phục vụ tiêu dùng trong nước. Điều này cho
thấy, các ngành sản xuất trong nước để phục vụ tiêu
dùng, sản xuất xuất khẩu còn nhiều hạn chế.
Thu nhập quốc nội của các đối tác thương mại Việt
Nam tăng, chi tiêu cho hàng hóa nhập khẩu tăng nên
545
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):538-549
tác động tích cực đến CCTM Việt Nam. CCTM VN
được cải thiện đáng kể từ năm 2012 là do tốc độ tăng
trưởng kinh tế của các đối tác thương mại quan trọng
của Việt Nam và thế giới cao. Trong thời gian tới, Việt
Nam nên tận dụng những cơ hội tăng trưởng kinh tế
của thế giới cùng với những giải pháp về điều kiện
kinh tế vĩ mô để cải thiện cán cân thương mại Việt
Nam.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động tích cực đến
CCTM Việt Nam. Nhìn vào Bảng 5 cho thấy CCTM
khu vực FDI luôn thặng dư và có xu hướng gia tăng
mạnh mẽ, CCTM khu vực kinh tế trong nước ngày
càng thâm hụt gia tăng. CCTM tổng thể dương là do
sự đóng góp của khu vực FDI. Điều này cho thấy sự
hoạt động của khu vực FDI ngày càng hiệu quả và khu
vực kinh tế trong nước đóng vai trò trụ cột chính lại
kém hiệu quả và phụ thuộc ngày càng nhiều vào hàng
nhập khẩu. Thêm vào đó, các nước đang phát triển
như Việt Nam việc thu hút FDI để tranh thủ chuyển
giao công nghệ, từng bước kích thích, nâng cao năng
lực sản xuất của các khu vực kinh tế trong nước thông
qua tính lan tỏa của FDI, nhưng thực tế giai đoạn
2011–2017 có 115 hợp đồng chuyển giao từ nước
ngoài vào Việt Nam với tổng giá trị ước tính khoảng
447.000 tỷ đồng. Trong đó, có 02 hợp đồng chuyển
giao công nghệ của Tập đoạn Samsung thực hiện năm
2017 có giá trị khoảng 323.000 tỷ đồng. Đa số các hợp
đồng chuyển giao công nghệ vào Việt Nam là công
nghệ kém, lạc hậu (chiếm khoảng 70%), công nghệ
trung bình chiếm khoảng 15% và công nghệ cao chỉ
chiếm khoảng 5%. Từ phân tích này cho thấy, CCTM
Việt Nam đang phụ thuộc nhiều vào FDI, trong khi
đó khu vực kinh tế trong nước ngày càng biểu hiện
nhiều yếu kém và không hấp thụ được tính lan tỏa từ
khu vực FDI với nhiều nguyên nhân khác nhau: Do
sự chênh lệch về trình độ công nghệ, kỹ năng và trình
độ lao động trình độ cao, kỹ năng tinh xảo còn hạn
chế, chính sách khuyến khích chuyển giao công nghệ
nguồn, công nghệ tiên tiến còn hạn chế, .Chính
vì vậy, để CCTM cải thiện bền vững, cần chú trọng
khuyến khích các doanh nghiệp khu vực kinh tế trong
nước sản xuất hiệu quả, phát triển các ngành công
nghiệp hỗ trợ để phục vụ nguyên vật liệu đầu vào cho
các doanh nghiệp FDI giảm nhập khẩu bên cạnh việc
duy trì thu hút FDI theo hướng chọn lọc.
Giá trị gia tăng nước ngoài trong hàng hóa xuất khẩu
của Việt Nam tác động âm đến CCTM Việt Nam.
Xét giá trị gia tăng trên các phân khúc khác nhau
của chuỗi giá trị, lắp ráp, sản xuất thường chiếm một
phần tương đối nhỏ trong tổng giá trị của sản phẩm
cuối cùng. Phần lớn giá trị được tạo ra tại các ngành
thượng nguồn như công tác nghiên cứu và phát triển,
sản xuất chế tạo. Trong thời gian qua Việt Nam chủ
Bảng 5: Cán cân thươngmại trong khu vực FDI giai
đoạn 2011 – 2017
Năm Cán cân thương mại (triệu USD)
Tổng Khu vực
kinh tế
trong nước
Khu vực
FDI
2011 -9.844,10 -16.581,40 6.737,30
2012 748,80 -11.562,00 12.310,80
2013 0,30 -13.714,90 13.715,20
2014 2.368,00 -14.600,90 16.968,90
2015 -3.759,20 -20.913,10 17.153,90
2016 1.602,40 -22.197,10 23.799,50
2017 2.915,40 -25.775,70 28.691,10
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2012 – 2018) và tính toán của tác giả
yếu tập trung vào khu lắp ráp cơ bản, sử dụng nhiều
lao động nên giá trị gia tăng nội địa vào xuất khẩu
không cao. Tỷ trọng của giá trị gia tăng nước ngoài
trong xuất khẩu của Việt Nam gia tăng theo thời gian,
đặc biệt là các hoạt động chế tạo hàng hóa có giá trị
cao như các mặt hàng điện tử, điện thoại, máy tính.
Điều này cho thấy chi phí nhập khẩu còn lớn hơn giá
trị gia tăng nội địa thêm vào xuất khẩu nên làm cho
CCTM thâm hụt. Nguyên nhân của tình trạng này là
do các ngành thượng nguồn trong chuỗi giá trị toàn
cầu ở Việt Nam còn hạn chế.
KẾT LUẬN VÀMỘT SỐ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Bằng phương pháp kiểm định biên và vận dụng mô
hình ARDL với số liệu thống kê theo năm từ 1990 đến
2018, bài viết đã xác định và phân tích được mức độ
tác động của các nhân tố tác động đếnCCTM tổng thể
Việt Nam đó là: Thu nhập quốc nội thực của các đối
tác Việt Nam; thu nhập quốc nội thực của Việt Nam;
tỷ giá hối đoái thực đa phương; giá trị gia tăng hàng
nhập khẩu ở nước ngoài trong xuất khẩu; vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài.
Thảo luận
Từ các kết quả nghiên cứu và các nội dung thảo luận,
tác giả cómột số kiến nghị đối với các nhà hoạch định
chính sách nhằm cải thiện CCTM Việt Nam trong
thời gian tới.
Thứ nhất, sự phá giá đồng VNĐ so với rổ tiền tệ để cải
thiện CCTM có hiệu quả khi phát triển sản xuất các
sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, thay thế hàng nhập
khẩu. Bên cạnh việc thúc đẩy phát triển xuất khẩu,
giảm nhập khẩu bằng việc đẩy mạnh sản xuất hàng
546
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):538-549
trong nước, các loại nguyên liệu, các mặt hàng phụ
trợ cho sản xuất tiêu dùng, sản xuất hàng xuất khẩu
thay thế hàng nhập khẩu cũng là một biện pháp quan
trọng hạn chế nhập siêu. Bên cạnh đó, Việt Nam cần
nâng cao năng lực sản xuất xuất khẩu các mặt hàng
ViệtNamcó lợi thế so sánh (như các ngànhhàngnông
sản) với chất lượng đáp ứng yêu cầu xuất khẩu với giá
trị gia tăng cao để tận dụng tốt phá giá đồng VNĐ gia
tăng xuất khẩu.
Thứ hai, cùng với sự tăng trưởng kinh tế, Việt Nam
cần khuyến khích phát triển các ngành hàng phục vụ
tiêu dùng cho nước, sản xuất xuất khẩu hạn chế nhập
khẩu đối với các mặt hàng dược phẩm, dụng cụ y tế,
sắt thép, xăng dầu. Việt Nam cần có các chính sách
khuyến khích tìm kiếm nguồn năng lượng thay thế
giảm sự phụ thuộc nhiều vào xăng dầu.
Thứ ba, Việt Nam cần tiếp tục thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài FDI chọn lọc và tăng tính lan tỏa của
FDI trong nền kinh tế. Thu hút FDI theo hướng giảm
số lượng gia tăng chất lượng, tập trung vào đầu tư
công nghệ cao, giá trị gia tăng lớn, ưu tiên các dự án
chuyển giao công nghệ nguồn, công nghệ tiên tiến từ
các quốc gia phát triển. Việt Nam cần xây dựng cơ chế
kết nối hiệu quả liên kết các doanh nghiệp FDI và các
doanh nghiệp trong nước để tạo sức lan tỏa cho nền
kinh tế.
Thứ tư, Nhà nước cần tạo điều kiện để các doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế trong nước nâng cao
hiệu quả hoạt động để sản xuất phục vụ tiêu dùng nội
địa, là nguyên liệu đầu vào then chốt phục vụ cho các
doanh nghiệp FDI và sản xuất xuất khẩu các sản phẩm
Thứ năm, hạn chế giá trị gia tăng nước ngoài trong
xuất khẩu thay vào đó là gia tăng giá trị nội địa Việt
Nam trong xuất khẩu. Việt Nam cần phải tập trung
xây dựng năng lực cho các doanh nghiệp trong nước
cùng với xây dựng các cơ chế hỗ trợ để giúp các doanh
nghiệp từng bước phát triển các ngành công nghiệp
hỗ trợ liên quan nghiên cứu và phát triển sản phẩm,
chế tạo các sản phẩm có giá trị gia tăng cao. Chỉ khi
nào các ngành công nghiệp hỗ trợ thượng nguồn phát
triển mới có thể hạn chế giá trị gia tăng nước ngoài
trong xuất khẩu để cải thiện CCTM.
LỜI CẢMƠN
Nghiên cứu này được tài trợ bởi ngân sách của
ĐHQG-HCM với mã số đề tài C2017-34-08.
DANHMỤC TỪ VIẾT TẮT
ARDL: Autoregressive Distritued Lag: Phân phối độ
trễ tự hồi quy
CCTM: Cán cân thương mại
ECM: Error Corection Model: Mô hình sai số hiệu
chỉnh
FDI: Foreign Direct Investment: Đầu tư trực tiếp
nước ngoài
GDP: Gross Domestic Product: Tổng sản phẩm quốc
nội
OLS: Ordinary least squares: Bình phương bé nhất
REER: Real Effective Exchange Rate: Tỷ giá thực đa
phương
VECM: Vector error correction model: Mô hình hiệu
chỉnh sai số
VN: Việt Nam
VNĐ: Việt Nam đồng
FVA: Foreign value-added: Giá trị gia tăng nước ngoài
XUNGĐỘT LỢI ÍCH
Tác giả xin cam đoan rằng không có bất kì xung đột
lợi ích nào trong công bố bài báo
ĐÓNGGÓP CỦA CÁC TÁC GIẢ
Đây là bài viết độc lập của tác giả bài viết.
TÀI LIỆU THAMKHẢO
1. Tổng cụcHải quan vàNiêmgiám thốngkê xuất nhập khẩugiai
đoạn 1986- 2005, 2006 - 2018;.
2. Bảo NKQ. Tác động của cú sốc giá dầu lên cán cân thươngmại
Việt Nam và một số khuyến nghị. Tạp chí Phát triển kinh tế.
2013;(276S):25–37.
3. Đ T M Hương, Đ T X Thơm. Tỷ giá và cán cân thương mại Việt
Nam: Bằng chứng từ phân tích dữ liệu theo chuỗi thời gian.
Tạp chí Công nghệ Ngân hàng. 2018;(142&143):36–45.
4. LuậtDG, Kiên TT. Tác động của dòng vốnđầu tư trực tiếp nước
ngoài đến cán cân thươngmại Việt Namgiai đoạn 1992-2012.
Tạp chí Phát triển kinh tế. 2013;(276):14–24.
5. Nga PT. Đánh giá tác động của tỷ giá hối đoái tới cán cân
thương mại Việt Nam. Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương. 2017;(487):40–42.
6. Phong L H, Vân Đ T B. Tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô
đếncán cân thươngmại tại ViệtNam. Tạp chí CôngnghệNgân
hàng. 2016;(123):14–28.
7. TuấnNH. Phân tích tác động của các biến số kinh tế vĩmô đến
cán cân thươngmại Việt Nam. Tạp chí Công nghệ Ngân hàng.
2011;(62):13–22.
8. Goldstein M, Khan MS. Income and Price Effects in Foreign
Trade.Handbookof International Economics. Elsevier Science
Publications. 1985;(2):1041–1105. Available from: https://doi.
org/10.1016/S1573-4404(85)02011-1.
9. Magee S. Currency Contracts, Pass-Through, and Devalua-
tion. Brookings Papers on Economic Activity. 1973;(1):303–
325. Available from: https://doi.org/10.2307/2534091.
10. Duasa J. Determinants of Malaysian Trade Balance An
ARDL Bound Testing Approach. Global Economic Review.
2007;(36):89–102. Available from: https://doi.org/10.1080/
12265080701217405.
11. Ray S. AnAnalysis ofDeterminants of Balanceof Trade in India.
Research Journal of Finance andAccounting. 2012;3(1):73–83.
12. Gzaw GY. Impact of Ethiopian Trade Balance: Bound Testing
Approach. Journal ofWorld EconomicResearch. 2015;4(4):92–
98. Available from: https://doi.org/10.11648/j.jwer.20150404.
11.
13. Osoro K. Kenya’s foreign trade balance: An empirical investi-
gation. European Scientific Journal. 2013;9(19):176–189.
547
Tạp chí Phát triển Khoa học và Công nghệ – Kinh tế-Luật và Quản lý, 4(1):538-549
14. Alhanom E. Determinants of trade balance in Jordan. NG-
Journal of Social Development. 2016;5(2):24–34. Available
from: https://doi.org/10.12816/0031165.
15. Ademe AS. Determinants of Ethiopian Trade Balance: Vector
Error CorrectionModel (VECM)Approach. Journal of Research
in Business, Economics andManagement. 2016;6(2):858–867.
16. Ali SA. The Determinants of Sudan’s Trade Balance: An Empir-
ical Investigation 1970-2014. Journal of Business & Economic
Statistics. 2017;18(1):10–17.
17. Mutana J, Winrose C, Saina E. Macro-Economic Determinants
of Kenya’s Trade Balance. International Journal of Research
and Innovation in Social Science. 2018;2(10):49–55.
18. Engle R, Granger C. Cointegration and Error Correction:
Representation, Estimation and Testing. Econometrica.
1987;(55):251–276. Available from: https://doi.org/10.2307/
1913236.
19. Johansen S, Juselius K. Maximum Likelihood Estimation
and Inference on Cointegration with Applications to Demand
for Money. Oxford Bulletin of Economics and Statistics.
1990;(52):169–210. Available from: https://doi.org/10.1111/j.
1468-0084.1990.mp52002003.x.
20. Thành TT. Các yếu tố tác động đến cán cân thương mại Việt
Nam giai đoạn 1997-2015 - Thực nghiệm từ mô hình VECM.
Tạp chí Kinh tế & phát triển. 2016;(234):21–30.
21. Pesaran HM, Shin Y, Smith RJ. Bounds Testing Approaches to
the Analysis of Level Relationships. Journal of Applied Econo-
metrics. 2001;16(3):289–326. Available from: https://doi.org/
10.1002/jae.616.
22. Johansen S. Statistical analysis of cointegration vectors. Jour-
nal of Economic Dynamics and Control. 1988;12(2&3):231–
254. Available from: https://doi.org/10.1016/0165-1889(88)
90041-3.
23. Gregory AW, Hansen BE. Residual-based test for cointegra-
tion in models with regime shifts. Journal of Econometrics.
1996;70(1):99–126. Available from: https://doi.org/10.1016/
0304-4076(69)41685-7.
548
Science & Technology Development Journal – Economics - Law andManagement, 4(1):538-549
Open Access Full Text Article Research Article
University of Economics and Law,
VNU-HCM
Correspondence
Mai Thi Cam Tu, University of Economics
and Law, VNU-HCM
Email: tumtc@uel.edu.vn
History
Received: 14-8-2019
Accepted: 27-9-2019
Published: 31-3-2020
DOI : 10.32508/stdjelm.v4i1.597
Copyright
© VNU-HCM Press. This is an open-
access article distributed under the
terms of the Creative Commons
Attribution 4.0 International license.
Factors affecting Vietnam’s trade balance in the context of the
global value chain
Mai Thi Cam Tu*
Use your smartphone to scan this
QR code and download this article
ABSTRACT
Trade balance is one of the important macro balances and has a strong impact on the balance of
payments and the overall national economy. A country with a large trade deficit may experience
lowered competitiveness of goods, export growth and economic growth. This paper focuses on
analyzing the core factors affecting Vietnam's trade balance in the context of global value chain
accession. The author uses Bound-Testingmethod andARDLmodel with data from1990 to 2018 to
identify factors affecting Vietnam's trade balance. The results show that, in the long term, Vietnam's
trade balance is affected by factors – ranked from the highest to the lowest – as follows: real GDP
of trading partners; Vietnam's real GDP; multilateral effective exchange rate; foreign added value in
Vietnam's exported goods and FDI capital into Vietnam. From these important findings, the author
proposes some implications for policy makers so as to improve the trade balance in the context of
deeper participation in the global value chain.
Key words: Trade balance, exchange rate, export, import, FDI, FVA, trade
Cite this article : Thi Cam TuM. Factors affectingVietnam’s trade balance in the context of the global
value chain. Sci. Tech. Dev. J. - Eco. LawManag.; 4(1):538-549.
549
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phan_tich_cac_nhan_to_tac_dong_den_can_can_thuong_mai_viet_n.pdf