Ảnh hưởng của mô đun đàn hồi trung bình của
lớp đất ngay dưới bè, đến chuyển vị trung bình,
chuyển vị lệch cũng như chiều dày bè, được thể hiện
trên hình 8. Hình 8b cho thấy khi lớp đất có mô đun
đàn hồi lớn nằm ngay dưới bè, có chiều dày tương
đối nhỏ (khoảng 3,1m tương ứng với 10% chiều rộng
bè), chuyển vị lệch giảm mạnh hơn, so với khi chiều
dày lớp đất này lớn hơn (khoảng 6,2m hoặc 9,3m).
Hình 8a cho thấy, chiều dày lớp đất nền có mô đun
đàn hồi lớn nằm dưới bè > 20% bề rộng bè, có thể
giảm được chuyển vị trung bình. Có thể ghi nhận sự
dị thường, sự ảnh hưởng của mô đun đàn hồi của lớp
đất dưới bè đến chuyển vị trung bình, tại giá trị 40 -
60MPa và chiều dày lớp đất tốt nhỏ (khoảng 10% bề
rộng bè). Sự dị thường này sẽ được bàn ở dịp khác.
Hình 8c thể hiện sự ảnh hưởng của mô đun đàn hồi
lớp đất nền ngay dưới bè đến chiều dày bè. Có thể
thấy khi mô đun đàn hồi tăng từ 30 - 175 MPa thì
chiều dày của bè có thể giảm đến 2 - 3 lần tùy vào
mức chuyển vị lệch cho phép
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 10 trang
10 trang | 
Chia sẻ: huyhoang44 | Lượt xem: 903 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích các tham số ảnh hưởng của hệ cọc và đất nền đến chiều dày bè trong móng bè - Cọc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2015 61 
PHÂN TÍCH CÁC THAM SỐ ẢNH HƯỞNG CỦA HỆ CỌC VÀ ĐẤT NỀN ĐẾN 
CHIỀU DÀY BÈ TRONG MÓNG BÈ - CỌC 
KS. CAO VĂN HÓA 
Trường Đại học Bách Khoa - Đại học Quốc Gia TP. Hồ Chí Minh 
Tóm tắt: Nội dung chính của bài báo là phân tích 
định lượng các yếu tố ảnh hưởng đến thiết kế chiều 
dày bè trong móng bè - cọc, như: hệ cọc, độ cứng của 
bè và mô đun đàn hồi của đất nền. Mục tiêu cuối cùng 
là lựa chọn những yếu tố quan trọng nhất, loại bớt 
những yếu tố ít quan trọng hơn, để đơn giản khi phân 
tích chiều dày hợp lý. 
1. Đặt vấn đề 
Westergaard (1925) đã giới thiệu các biểu thức 
toán học để phân tích ứng suất trong bản bê tông mặt 
đường. Cơ sở của các biểu thức này là lời giải 
phương trình vi phân chuyển vị (w) của bản khi chịu 
uốn. Bản trên nền đàn hồi chịu tải trọng (q) và phản 
lực nền có cường độ (p) tại bất cứ vị trí nào dưới bản, 
(p) được giả thiết là tỷ lệ với biến dạng tại điểm đó 
sao cho p=k.w, trong đó k là hệ số phản lực 
nền (tương tự độ cứng lò xo Winkler). Cho đến nay, 
các biểu thức của Westergaard và các biến thể của 
nó vẫn là cơ sở để thiết kế chiều dày bản bê tông trên 
nền đất. Việc sử dụng hệ cọc để truyền tải trọng tác 
dụng ở phía trên bản xuống tầng đất tốt hơn ở bên 
dưới, là giải pháp mang lại hiệu quả cao hơn, nhằm 
đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn khi xây dựng bản 
trên nền đất yếu (Beckett, 2000). Theo quan điểm thi 
công, việc truyền tải trực tiếp từ bản xuống cọc không 
thông qua hệ dầm là có lợi nhất. Khi đó bản thường 
được thiết kế phẳng, tiêu chí quan trọng nhất để thiết 
kế bản là khả năng chống xuyên thủng, mà nó là một 
hàm số của mác bê tông, kích thước cọc, chiều dày 
bản, cốt thép và mô men âm trên các đỉnh cọc. 
Trong thực tiễn thiết kế chiều dày bè [1], các kỹ 
sư quan niệm là nó được thiết kế sao cho đảm bảo 
được khả năng chống xuyên thủng và khả năng 
chống uốn. Diep T.T (1995) cho rằng chiều dày bè tỷ 
lệ với số lượng tầng, do đó chiều dày bè (t) có thể xác 
định theo số tầng (n) và chiều dày trung bình một sàn 
(t0), tức là: t = n.t0. GB 50007 - 2002 cho rằng chiều 
dày của bè móng được thiết kế chủ yếu theo các tiêu 
chí đảm bảo khả năng chịu uốn, chống xuyên thủng 
và thường phụ thuộc vào kết cấu bên trên. Đối với đài 
cọc lớn, Tomlinson (1994) cho rằng bè được thiết kế 
như là một bản cứng chịu tải tập trung từ các cọc. 
Bản (bè) này có thể được thiết kế hoặc là theo lý 
thuyết phần tử chịu uốn đơn giản, hoặc là dàn ảo, 
trong đó ứng suất nén dọc trục do bê tông chịu và 
ứng suất kéo do cốt thép chịu. Chiều dày của bè 
thường được xác định bởi khả năng chịu cắt [2]. 
Khác với móng bè hay móng cọc, móng bè - cọc 
được định nghĩa là khi một phần tải trọng từ kết cấu 
bên trên được truyền trực tiếp qua đất nền và phần 
còn lại được truyền qua cọc [3, 4]. Rất nhiều tác giả 
để cập đến ảnh hưởng của chiều dày bè đến chuyển 
vị và đặc biệt là chuyển vị lệch như Poulos (2001), 
Reul & Randolph (2004), Moyer et al (2005), Naher 
Hassan (2006), Oh et al (2006), Rabiei (2009), 
Thangaraj & Illamparuthi (2009), Ryltenius (2011). Có 
thể nhận thấy chuyển vị lệch là tiêu chí quan trọng khi 
thiết kế móng (hoặc bè) [5]. 
Từ các nghiên cứu ở trên có thể ghi nhận, chiều 
dày bè được thiết kế dựa trên các tiêu chí ứng suất 
và biến dạng trong kết cấu bè. Nhưng các tiêu chí này 
lại phụ thuộc vào các yếu tố như: tải trọng từ kết cấu 
bên trên, hệ cọc, độ cứng của bè và các tính chất chịu 
lực của đất nền. Bài báo này sẽ tiến hành phân tích 
mức độ ảnh hưởng trực tiếp của của các yếu tố nêu 
trên đến các tiêu chí thiết kế bè, và gián tiếp đến 
chiều dày bè. 
2. Phương pháp nghiên cứu 
Có nhiều phương pháp được sử dụng để phân 
tích móng bè - cọc. Poulos et al đã liệt kê 3 nhóm 
phương pháp bao gồm [5]: 
i) Các phương pháp tính toán giản lược, ví dụ: 
phương pháp Poulos - Davis - Randolph (PDR), 
phương pháp Burland (1995); 
ii) Các phương pháp số gần đúng ứng dụng 
máy tính, ví dụ: phương pháp dải móng trên nền lò 
xo, (GASP - Poulos, 1991), phương pháp bản trên 
nền lò xo (GARP - Poulos, 1994; Clancy & Randolph, 
1993; Kitiyodom & Matsumoto, 2002 - 2003; etc.); 
iii) Các phương pháp chính xác hơn, ví dụ: 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
62 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2015 
phương phần tử biên (Butterfield & Banerjee, 1971), 
phương pháp kết hợp phần tử biên và phần tử hữu 
hạn (Hein & Lee, 1978), phương pháp phân tử hữu 
hạn giản lược (Desai, 1974), phương pháp sai phân 
hữu hạn (FLAC - Hewitt & Gue, 1994), phương pháp 
phần tử hữu hạn 3D (Kazenbach, 1998). 
Hình 1. Mô phỏng móng bè cọc 
(Kitiyodom & Matsumoto, 2002, 2004) 
Hình 2. Công trình nguyên mẫu (Treptower) 
Bài báo này sử dụng chương trình PRAB được 
lập bởi Kitiyodom & Matsumoto [3, 4] phát triển trên 
cơ sở các mô hình của O’Neil at al (1977), Chow 
(1987), Clancy & Randolph (1993). Hình 1 thể hiện 
mô hình tương tác giữa bè, cọc và nền, trong đó bè 
được rời rạc hóa bằng các phần tử hữu hạn tứ giác, 
cọc được rời rạc bằng các phần tử hữu hạn dạng 
thanh và đất nền được mô phỏng bằng các lò xo 
tương tác. Mỗi nút bè hoặc cọc được liên kết với 3 lò 
xo nền: một lò xo theo phương đứng (z) và hai lò xo 
theo phương ngang (x) và (y). Mô hình này được coi 
là kết hợp giữa phương pháp phần tử hữu hạn và lý 
thuyết đàn hồi mô phỏng ứng xử của đất nền, để 
phân tích ứng xử toàn hệ móng bè - cọc. Ứng xử của 
đất nền tại các nút cọc và bè, được mô phỏng bởi các 
lò xo nền cục bộ (Winkler, 1867) theo cả 3 phương. 
Lực cắt giữa các lò xo cùng phương, được mô phỏng 
trên cơ sở lời giải của Mindlin (1936) cho lực tập 
trung tác dụng theo phương đứng và phương ngang 
trong bán không gian vô hạn. Các tương tác được thể 
hiện trên hình 1. 
3. Mô hình nghiên cứu 
Mục tiêu của việc chọn công trình nguyên mẫu để 
xây dựng mô hình là công trình đó phải có hệ kết cấu 
đơn giản, được thiết kế theo kiểu móng bè - cọc, 
đồng thời phải là công trình có liên quan đến điều kiện 
ở Việt Nam. Sự đơn giản của mô hình nhằm loại bỏ 
các ảnh hưởng không cần thiết, tuy nhiên các kết quả 
từ nghiên cứu mô hình đơn giản cũng có thể được 
mở rộng cho các mô hình phức tạp khác nhau khi cần 
thiết. Để đáp ứng một phần các mục tiêu đã đặt ra ở 
trên, nguyên mẫu được chọn là công trình Treptower 
Berlin, Đức [6], được thể hiện trên hình 2. 
Bảng 1. Các đặc trưng của mô hình 
Các đặc trưng Giá trị 
H (tầng) 40 
t (m) 2 - 8 
Lc (m) 9 
Dp (m) 1.0, 2.0 
Lp (m) Xem bảng 2 
n (cọc) Xem bảng 2 
Es (MPa) 15 
Scp (%) 0.05% và 0.2% 
Bảng 2. Tính toán các tham số của móng 
Mô 
hình 
Dp 
(m) 
Lp 
(m) 
n P/Pult 
(%) 
P 
(MN) 
P 
(MN) 
Sơ 
đồ 
1 1 45 81 0.98 14.5 1151 1 
2 1 43 88 0.96 13.6 1154 2 
3 1 40 97 0.96 12.4 1155 3 
4 1 30 169 0.81 8.4 1150 4 
6 2 45 25 1.00 42.2 1150 1 
7,8 2 34 40 1.00 28.7 1158 2,3 
9 2 31 49 0.93 25.2 1149 4 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2015 63 
Ghi chú: H - số lượng tầng, t - chiều dày bè, Lc – 
khoảng cách giữa các cột, Dp - đường kính cọc, Lp - chiều 
dài cọc, n - số lượng cọc, Es - mô đun đàn hồi của đất nền, 
Scp - chuyển vị cho phép, P - sức chịu tải của cọc, Pult - sức 
chịu tải cực hạn của cọc. 
Công trình nguyên mẫu (hình 2) có chiều cao 121 
m (32 tầng), kích thước móng (37,1 x 37,1) m, nằm 
trên nền cát Berlin, có chiều dày 40m. Hệ cọc gồm 54 
cọc khoan nhồi đường kính 0,88 m dài từ 12,5 - 16 m. 
Bè được thiết kế có chiều dày lớn nhất là 3m, tại tâm 
bè là khu vực hầm thang, cao độ đáy bè được hạ 
xuống 5,5 m, chiều dày bè tại khu vực này là 2m. 
Mô hình nghiên cứu bảng 1 thể hiện các đặc trưng 
của mô hình nghiên cứu, được thiết kế lại trên cơ sở 
nguyên mẫu, trong điều kiện nền cát TPHCM. Mặt cắt 
địa chất dựa theo kết quả khảo sát địa chất tại số 36 
Mạc Đỉnh Chi, Q1 (hình 3) như sau: từ cao độ mặt đất 
đến độ sâu - 9,0 m là các lớp đất và cát xen kẹp. Từ 
cao độ - 9,0 m đến cao độ - 45,0 m là lớp cát chặt vừa. 
Dưới lớp cát này là lớp đất sét có độ dẻo trung bình, 
trạng thái rắn. Cao độ đặt móng tại - 9,0 m. 
Nội lực từ kết cấu bên trên được xác định từ 
chương trình ETABS non-linear 9.7.1. 
Hình 3. Kết quả thí nghiệm SPT, 36 Mạc Đĩnh chi, Quận 1, 
TP. Hồ Chí Minh 
Hình 4. Sơ đồ bố trí cọc bè và lưới PTHH 
Tính toán các tham số của mô hình Rabiei [7], 
Randolph [8] đã phân tích ảnh hưởng của các sơ đồ 
bố trí cọc khác nhau đến chuyển vị và mô men uốn 
trong bè, bài báo này cũng đề xuất các sơ đồ tương 
tự (hình 4) để kiểm chứng. Nguyên tắc thiết kế các 
mô hình thỏa mãn giả thiết : i) Chuyển vị của cọc và 
của đất nền bằng nhau tại bè; ii) pr/Kr = rp/Kp do tính 
thuận nghịch. Trong đó Kp: độ cứng của hệ cọc, Kr: độ 
cứng của bè, rp: hệ số tương tác đến chuyển vị của 
bè do lực tác dụng tại cọc, pr: hệ số tương tác đến 
chuyển vị của cọc do lực tác dụng tại bè. Sức chịu tải 
cực hạn của cọc ở các mô hình khác nhau được tính 
toán từ giá trị trung bình sức chịu tải tiêu chuẩn của 
bốn phương pháp (TCVN 205-1998, 195-1997): thống 
kê, theo tính chất cơ lý của đất nền, phương pháp 
Mayerhof và phương pháp Nhật bản. Các kết quả này 
sau đó được đối chiếu với phương pháp  (Fellenius, 
2011), cho thấy chúng tương đối trùng khớp có độ tin 
cậy cao. Các thông số tính toán của hệ cọc thể hiện ở 
bảng 2 là kết quả tính toán và kiểm tra bằng phương 
pháp PDR. 
Từ các mô hình được xây dựng như trên, bài báo 
sử dụng PRAB để tính toán nội lực trong các kết cấu 
móng, chuyển vị, ứng suất trong nền và tỷ lệ tải trọng 
do bè gánh chịu. Từ đó phân tích các ảnh hưởng của 
các yếu tố (sự san đều nội lực, tải trọng chân cột, ứng 
suất trong nền, sơ đồ bố trí cọc, đất nền) đến chiều 
dày bè. 
4. Kết quả và bình luận 
4.1 Mối quan hệ giữa chiều dày bè và sự phân 
phối tải trọng giữa hệ cọc và nền 
Bảng 3 thể hiện sự ảnh hưởng của chiều dày bè 
và sơ đồ bố trí cọc đến tỷ lệ tải trọng do bè chịu, cũng 
như chuyển vị trung bình của móng. Có thể nhận thấy: 
i) Các sơ đồ sử dụng cọc có đường kính 1 m, 
đều cho chuyển vị rất nhỏ từ 20 - 140mm, tỷ lệ tải trọng 
do bè gánh chịu từ 7,5 - 13%. Riêng ở sơ đồ 4, tải 
trọng hầu như chỉ truyền qua cọc, không truyền trực 
tiếp từ bè xuống nền, chuyển vị trung bình của hệ 
móng khoảng 20 mm. Lý do chuyển vị nhỏ của tất cả 
các sơ đồ móng sử dụng cọc có đường kính 1m là do 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
64 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2015 
độ cứng của các mô hình móng này lớn, khoảng 8186 ~ 8343 MN/m (xác định theo phương pháp PDR). 
Các sơ đồ sử dụng cọc có đường kính 2m, chuyển 
vị trung bình từ 147 - 255mm, tỷ lệ tải trọng do bè gánh 
chịu từ 25,5 - 50%. Độ cứng của tất cả các sơ đồ móng 
sử dụng cọc có cùng đường kính 2m từ 5619 - 
6124MN/m. Có thể nhận thấy sự tham gia chịu lực của 
bè lớn hơn so với trường hợp 1, lý do là độ cứng của 
móng nhỏ hơn (và do đó chuyển vị cũng lớn hơn). 
ii) Với mọi sơ đồ và đường kính cọc, khi chiều 
dày bè tăng, chuyển vị trung bình giảm nhưng không 
đáng kể, đồng thời tỷ lệ tải trọng do bè gánh chịu trực 
tiếp cũng giảm 0 - 27%. Điều này được lý giải là khi 
bè có độ cứng càng lớn, tải được phân bố cho các 
cọc càng nhiều, do đó phần tải trọng truyền trực tiếp 
từ bè xuống nền giảm. 
Kết luận 1: Tỷ lệ tải trọng gánh chịu bởi bè càng lớn khi 
chuyển vị trung bình của móng tăng. Sơ đồ các cọc có 
đường kính nhỏ (1 m), chiều dài phù hợp, có khả năng 
giảm chuyển vị trung bình rất tốt. Sơ đồ 3, 4 (kể cả 
đường kính 1m và 2m) được xem là thiết kế hợp lý, 
chiều dày bè không ảnh hưởng nhiều đến sự phân 
phối tải trọng giữa cọc và bè, phù hợp với kết luận của 
Rabei [7]. Khi chiều dày bè tăng, chuyển vị trung bình 
giảm 2,8 ~ 42 %, tùy theo sơ đồ bố trí cọc, nếu sơ đồ 
hợp lý (sơ đồ 4) thì mức giảm nhỏ, nếu sơ đồ không 
hợp lý (sơ đồ 1) thì mức giảm lớn hơn. Nhìn chung, 
chiều dày bè không ảnh hưởng đáng kể đến chuyển vị 
trung bình tương tự kết luận của Poulos [5]. 
Bảng 3. Ảnh hưởng của chiều dày bè đến chuyển vị trung bình và tỷ lệ tải trọng do bè – nền chịu 
Đường kính cọc 1m 
Sơ đồ 1 Sơ đồ 2 Sơ đồ 3 Sơ đồ 4 Chiều dày bè 
(m) Stb 
(mm) 
Pr 
(%) 
Stb 
(mm) 
Pr 
(%) 
Stb 
(mm) 
Pr 
(%) 
Stb 
(mm) 
Pr 
(%) 
2 90 9 140 13 99 11 21.5 0 
3 84 8 145 13 95 10.5 20.5 0 
4 98 7.5 95 13 91 10.4 20.5 0 
5 81 7.5 87.5 13 90 10 
6 81 7.5 85 13 84 9.5 
8 81 7.5 81.5 13 80 9 
 Đường kính cọc 2m 
2 249 38 211 28 252 52 255 41 
3 193 34 198 27 249 51 249 39 
4 168 32 191 26.5 247 51 248 39 
5 157 30 186 26 246 50 247 38.5 
6 151 30 183 26 245 50 247 38 
8 147 29.5 181 25.5 245 50 246 37.5 
Ghi chú: Stb: chuyển vị trung bình, Pr: tỷ lệ tải trọng do bè gánh chịu. 
4.2 Mối quan hệ giữa chiều dày bè và sự phân 
phối nội lực tại đỉnh các cọc, sự phân phối nội lực 
trong cọc, ứng suất trong nền theo chiều sâu 
Ảnh hưởng của chiều dày bè đến sự phân phối 
của lực dọc tác dụng tại đỉnh cọc thể hiện trên Hình 5. 
Khi chiều dày bè tăng từ 2 - 8m lực dọc tác dụng lên 
đỉnh cọc tại tâm bè (cọc 37) giảm khoảng 12%, các cọc 
ở mép bè (cọc 4 và 22) tăng tới 55 %, lực dọc tác dụng 
lên các cọc khác tăng hoặc giảm theo xu hướng giảm 
chênh lệch giữa các cọc. Cả lực nén và lực nhổ tác 
dụng lên các đầu cọc đều giảm, có lợi cho sự làm 
việc đồng đều của cọc. 
Hình 6 thể hiện sự phân bố nội lực trong cọc và 
ứng suất trong nền dọc chiều dài cọc khi chiều dày bè 
thay đổi. Cho thấy, chiều dày bè cũng có ảnh hưởng 
đáng kể tới sự phân bố các nội lực trong cọc và ứng 
suất trong nền theo độ sâu. Cụ thể khi chiều dày bè 
tăng từ 2 - 8 m: 
Hình 5. Mối quan hệ chiều dày bè và tải trọng tại đỉnh 
cọc(Mô hình 9) 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2015 65 
Hình 6. Ảnh hưởng của chiều dày bè đến nội lực trong cọc và ứng suất trong nền 
i) Lực dọc lớn nhất tại đỉnh cọc ở tâm bè (cọc 37) 
giảm 12% (hình 6a, b) nhưng lực dọc bé nhất ở phía 
dưới mũi của nó tăng 52%. Chiều dày bè không ảnh 
hưởng nhiều đến lực dọc lớn nhất của cọc đi qua góc 
bè (cọc 1), lực dọc lớn nhất tại đỉnh chỉ tăng 6%, lực 
dọc bé nhất tại mũi chỉ giảm 4%. Lực dọc tại đỉnh cọc 1 
và cọc 37 chênh lệch tương đối lớn (4 - 5) lần. 
ii) Lực cắt theo phương ngang của cọc tại tâm 
bè có giá trị gần bằng không, lực cắt của cọc tại góc 
bè có giá trị lớn nhất tại đỉnh, giảm 18 % và có giá trị 
bé nhất tại mũi, giảm 24 % (hình 6c). 
iii) Mô men uốn của cọc ở góc bè có giá trị lớn 
nhất nằm trên mặt phẳng trung hòa, giảm 35%. Mô 
men uốn tại đỉnh của nó giảm ít hơn, khoảng 3% 
(hình 6d). 
iv) Ứng suất theo phương z của đất nền xung 
quanh đỉnh cọc nằm ở tâm bè có giá trị lớn nhất, giảm 
24% và chỉ tăng 27% tại mũi (hình 6f). Ứng suất theo 
phương x tại đỉnh của cọc ở góc bè, có giá trị lớn nhất 
khi bè dày 2m và giảm đến 18% khi bè dày 8 m, ứng 
suất này tại mũi cọc tăng 3%. 
Kết luận 2: Tùy thuộc vào sơ đồ bố trí cọc, chiều 
dày bè lớn có thể làm giảm sự chênh lệch nội lực tác 
dụng tại đỉnh cọc hoặc nhiều hoặc ít, cho dù vẫn tồn 
tại sự chênh lệch khá lớn giữa nội lực tại đỉnh của các 
cọc khác nhau trong bè. Chiều dày bè càng lớn, khả 
năng san đều nội lực trong cọc, ứng suất phát sinh 
trong nền đồng đều hơn ở mọi tiết diện của cọc. Các 
giá trị cực đại có xu hướng giảm xuống, các giá trị 
cực tiểu có xu hướng tăng lên. 
d) 
a) 
b) c) 
e) f) 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
66 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2015 
4.3 Mối quan hệ giữa chiều dày bè và sự phân bố 
mô men & biến dạng của bè 
Mô men uốn tại mặt cắt đi qua tâm bè của các mô 
hình móng khác nhau đề cập ở mục 3, bảng 1 và 
bảng 2, kết quả tính toán bằng PRAB, được thể hiện 
trên hình 7. Hình 7a cho thấy trong 5 sơ đồ bố trí cọc, 
sơ đồ 1 phát sinh mô men âm lớn nhất, sơ đồ 2 phát 
sinh mô men dương lớn nhất, các sơ đồ 3, 4, 5 mô 
men phát sinh trong bè nhỏ. Sơ đồ 3, 4 được xem là 
hợp lý nhất cho mô hình nghiên cứu này. 
Sơ đồ bố trí cọc 1 (hình 7b), được cho là không 
hợp lý như vừa phân tích ở trên, bè phải gánh chịu 
mô men uốn rất lớn. Vì vậy việc tăng chiều dày tăng 
bè để gánh chịu mô men uốn là cần thiết. Nếu chiều 
dày bè tăng từ 2 - 8m, phần mô men mà bè phải gánh 
chịu tại các nút ở biên tăng 4,2 lần, tại các nút ở tâm 
tăng 2,8 lần. Sơ đồ 4 trên hình 7c được đánh giá là 
tương đối hợp lý, khi tăng chiều dày bè từ 2 - 8m, 
phần mô men uốn mà bè phải gánh chịu tại các nút ở 
biên chỉ tăng 3%, tại các nút ở tâm tăng 8%. Có thể 
nhận thấy sơ đồ càng hợp lý thì mô men uốn phát 
sinh trong bè nhỏ, do đó không cần thiết phải thiết kế 
bè dày để để gánh chịu mô men uốn. Hình 7d, thể 
hiện biểu đồ mô men gánh chịu bởi bè cho các mô 
hình móng khác nhau, nhưng cọc đều bố trí theo sơ 
đồ 4. Cho thấy mô hình 4 với 169 cọc đường kính 1m, 
mô men uốn phân bố trong bè rất nhỏ. Mô hình 9 với 
49 cọc đường kính 2 hoặc 2,5 m, mô men uốn mang 
dấu âm, bè chịu kéo ở thớ trên. Mô hình 6 với 25 cọc 
đường kính 2 hoặc 2,5 hoặc 3 m, mô men mang dấu 
dương, bè chịu kéo ở thớ dưới. Có thể nhận thấy, 
nếu số lượng cọc ít mô men uốn trong bè có giá trị 
dương, bè chịu kéo ở thớ dưới; nếu số lượng cọc lớn 
hơn mô men uốn trong bè giảm, có giá trị xung quanh 
giá trị “0”; nhưng với số lượng cọc rất lớn mô men 
uốn trong bè trở nên rất nhỏ. 
Hình 7. Sự phân bố mô men trong bè ở các sơ đồ khác nhau 
a) b) 
c) d) 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2015 67 
Kết luận 3: Khi sơ đồ bố trí cọc không hợp lý (ví 
dụ sơ đồ 1 hoặc sơ đồ 2) cần thiết phải thiết kế bè 
dày để gánh chịu mô men lớn. Dễ dàng nhận thấy, để 
giảm mô men uốn này giải pháp đầu tiên là chọn sơ 
đồ bố trí cọc hợp lý, kết hợp việc tăng hoặc giảm cục 
bộ chiều dài một số cọc ở vị trí trọng yếu (ví dụ như 
sơ đồ 5). Nhưng kể cả khi việc lựa chọn sơ đồ bố trí 
cọc và việc điều chỉnh chiều dài cọc cũng không thể 
triệt tiêu được mô men uốn trong bè, khi đó bè nên 
được thiết kế đủ dày để dự phòng cho sự không hợp 
lý này. Việc lựa chọn sơ đồ bố trí cọc và chiều dài cọc 
để đạt yêu cầu chống uốn của bè nhỏ là rất khó, vì 
thế chiều dày bè là yếu tố quan trọng để giảm mô 
men uốn trong bè (giảm biến dạng của bè hay chuyển 
vị lệch của móng). 
4.4 Mối quan hệ giữa chiều dày bè và đất nền bên 
dưới 
Giá trị mô đun đàn hồi của đất nền ở khu vực 
quận 1, TP Hồ Chí Minh tại vị trí đáy bè (- 9.0 m) và 
nhiều khu vực khác ở Việt Nam thường chỉ khoảng 
15MPa. Tuy nhiên, mô đun đàn hồi của nền đất tại vị 
trí đặt bè của các công trình thống kê có giá trị khá 
lớn, ví dụ 50 ~ 100MPa ở Franfurt hay 1500MPa ở 
Dubai. Trường hợp khác, cọc thường được thi công 
ngầm vào nền đất tốt hoặc chưa tới độ sâu của nền 
đất tốt. Do đó đánh giá ảnh hưởng của lớp đất dưới 
bè cũng như lớp đất dưới mũi cọc đến chuyển vị lệch 
là cần thiết. 
Ảnh hưởng của mô đun đàn hồi trung bình của 
lớp đất ngay dưới bè, đến chuyển vị trung bình, 
chuyển vị lệch cũng như chiều dày bè, được thể hiện 
trên hình 8. Hình 8b cho thấy khi lớp đất có mô đun 
đàn hồi lớn nằm ngay dưới bè, có chiều dày tương 
đối nhỏ (khoảng 3,1m tương ứng với 10% chiều rộng 
bè), chuyển vị lệch giảm mạnh hơn, so với khi chiều 
dày lớp đất này lớn hơn (khoảng 6,2m hoặc 9,3m). 
Hình 8a cho thấy, chiều dày lớp đất nền có mô đun 
đàn hồi lớn nằm dưới bè > 20% bề rộng bè, có thể 
giảm được chuyển vị trung bình. Có thể ghi nhận sự 
dị thường, sự ảnh hưởng của mô đun đàn hồi của lớp 
đất dưới bè đến chuyển vị trung bình, tại giá trị 40 - 
60MPa và chiều dày lớp đất tốt nhỏ (khoảng 10% bề 
rộng bè). Sự dị thường này sẽ được bàn ở dịp khác. 
Hình 8c thể hiện sự ảnh hưởng của mô đun đàn hồi 
lớp đất nền ngay dưới bè đến chiều dày bè. Có thể 
thấy khi mô đun đàn hồi tăng từ 30 - 175 MPa thì 
chiều dày của bè có thể giảm đến 2 - 3 lần tùy vào 
mức chuyển vị lệch cho phép. 
Hình 8. Ảnh hưởng của mô đun đàn hồi lớp đất ngay dưới bè đến chuyển vị 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
68 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2015 
Hình 9. Ảnh hưởng của lớp đất cứng dưới mũi cọc đến chuyển vị trung bình và chuyển vị lệch 
Hình 9b cho thấy khi mũi cọc vừa chạm mặt trên 
của lớp đất tốt chịu lực, có E = 200MPa, chuyển vị 
trung bình và chuyển vị lệch đều có giá trị khá lớn (~ 
60mm); khi khoảng cách mũi cọc cách mặt trên của 
lớp đất này từ 0 đến 2m, chuyển vị trung bình giảm, 
nhưng chuyển vị lệch tăng; khi khoảng cách này tiếp 
tục tăng thì chuyển vị trung bình tăng nhưng chuyển 
vị lệch giảm. Khác với trường hợp lớp đất tựa cọc có 
E = 200MPa, hình 9a cho thấy khi mô đun đàn hồi 
của lớp đất này lớn (E = 1000 ~ 1500MPa), khi 
khoảng cách từ mũi cọc đến tầng đất cứng từ 0 đến 
2m, chuyển vị trung bình tăng rất mạnh và chuyển vị 
lệch tăng từ ~ 0mm đến giá trị cực đại; khi khoảng 
cách này tiếp tục tăng, chuyển vị trung bình tiếp tục 
tăng, nhưng chuyển vị lệch giảm. 
Kết luận 4: Mô đun đàn hồi trung bình lớn của lớp 
đất nằm ngay dưới bè, có chiều dày khoảng 10% - 
20% chiều dài cọc (chiều rộng bè, Vasudev & 
Unnikrisnan, 2009), có khả năng làm giảm chuyển vị 
trung bình (khi mô đun đàn hồi lớn hơn 50 - 60MPa 
và chuyển vị lệch. Mô đun đàn hồi càng lớn thì 
chuyển vị càng giảm. Khi cọc chống vào nền đất (đá) 
cứng có mô đun đàn hồi lớn (E = 1000 ~ 1500MPa), 
chuyển vị lệch và chuyển vị trung bình có giá trị nhỏ 
(~ 0mm), cọc chịu lực hoàn toàn. Nhưng khi cọc 
chống vào nền đất tốt có mô đun đàn hồi nhỏ hơn (E 
= 200MPa), chuyển vị trung bình và chuyển vị lệch 
khá lớn. Khi khoảng cách giữa mũi cọc và tầng đất 
cứng đủ lớn (> 2m), chuyển vị lệch giảm nhưng 
chuyển vị trung bình tăng. Có thể nhận thấy trong 
phạm vi từ 0 đến 2m kể từ mặt nền đất chịu lực tốt, 
chuyển vị của hệ móng rất khó kiểm soát. 
4.5 Mối quan hệ giữa chiều dày của bè và chuyển 
vị lệch 
Sơ đồ bố trí cọc không hợp lý, mô đun đàn hồi 
của lớp đất nền dưới bè nhỏ, hoặc bề mặt nền đất/đá 
dưới mũi cọc không bằng phẳng, là những nguyên 
nhân làm cho chuyển vị lệch lớn. Vai trò của chiều 
dày bè làm giảm thiểu chuyển vị lệch này ở các sơ đồ 
bố trí, chiều dài, đường kính, số lượng cọc khác 
nhau, thể hiện ở hình 10. 
Hình 10a, b cho thấy ở tất cả các sơ đồ bố trí 
cọc, khi chiều dày bè tăng từ 2m lên 8m, chuyển vị 
trung bình giảm về các giá trị tương ứng với độ cứng 
của sơ đồ đó, nhưng chuyển vị lệch giảm về giá trị 
bằng “0”. Có thể thấy chiều dày bè lớn là giải pháp 
chủ động và hữu hiệu dự phòng cho việc lựa chọn sơ 
đồ bố trí cọc không hợp lý, sự làm việc không đồng 
đều của cọc hay đất nền không đồng nhất. 
Kết luận 5: Chiều dày bè không ảnh hưởng nhiều 
đến chuyển vị trung bình, việc chuyển vị trung bình 
giảm khi tăng chiều dày bè là hậu quả của việc giảm 
chuyển vị lệch (tương tự như nhận xét của Poulos 
[5]). Nhưng, chiều dày lớn của bè có thể giảm chuyển 
vị lệch rất mạnh mẽ (hình 10b), hỗ trợ cho các thiếu 
sót khi chọn sơ đồ bố trí cọc, lựa chọn cọc hoặc các 
nguyên nhân khác về đất nền [9], sự cố về cọc 
Tomlinson [2]. Sự bố trí cọc càng hợp lý, đất nền 
càng đồng nhất, thì chiều dày bè không ảnh hưởng 
nhiều đến chuyển vị lệch. 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2015 69 
Hình 10. Mối quan hệ chuyển vị và chiều dày bè khác nhau 
5. Kết luận 
Thiết kế chiều dày bè trong móng bè - cọc chủ 
yếu dựa vào tiêu chí lực cắt, mô men uốn, biến dạng 
của bè (hay chuyển vị lệch của hệ móng). 
Có thể đúc kết các yếu tố ảnh hưởng đến nội lực 
và biến dạng của bè như sau: Thứ nhất, có thể bỏ 
qua ảnh hưởng đến sự san đều nội lực trong kết cấu 
móng và ứng suất trong nền của bè, khi bè được thiết 
kế đủ dày. Thứ hai, tiêu chí mô men uốn, chuyển vị 
lệch (hay biến dạng của bè) có thể điều chỉnh bởi sơ 
đồ bố trí cọc hợp lý, hoặc tăng giảm chiều dài cọc cục 
bộ ở những nơi các giá trị đó lớn. Khi đó bè không 
cần phải thiết kế dày. Kết luận này phù hợp với Rabiei 
[7], Randolph [8]. Thứ ba, việc lựa chọn sơ đồ bố trí 
cọc hợp lý (bao gồm chiều dài cọc) để triệt tiêu mô 
men uốn trong bè hay chuyển vị lệch của hệ móng, 
trong thực tế là rất khó, do đó việc tăng chiều dày bè 
là giải pháp bổ sung cần thiết. Chiều dày bè đủ lớn, 
bất kể sơ đồ bố trí cọc có hợp lý hay không, làm giảm 
chuyển vị lệch về giá trị bằng không. Thứ tư, mô đun 
đàn hồi lớn của đất nền dưới bè, có thể làm giảm 
chiều dày bè đáng kể. 
Tóm lại sơ đồ bố trí cọc, mô đun đàn hồi của đất 
nền và chiều dày bè là ba yếu tố quan trọng để làm 
giảm mô men uốn và biến dạng của bè, phù hợp với 
nhận xét của Poulos [5] và của Thangaraj & 
Illamparuthi (2009). Phân tích hợp lý chiều dày bè 
dựa trên các đánh giá này là nội dung của các bài báo 
tiếp theo. 
 Lời cảm tạ: Trong bài báo này, tác giả đã sử dụng 
chương trình PRAB, do GS TS Matsumoto T. tặng 
Khoa xây dựng, Trường đại học Kiến trúc TP. HCM. 
Bài báo này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn 
khoa học của PGS. TS. Châu Ngọc Ẩn. Tác giả bài 
báo chân thành cảm ơn những góp ý quí báu của các 
thầy trong bộ môn Địa cơ - Nền móng, Khoa xây dựng, 
Trường đại học Bách khoa TP. HCM. Tác giả đặc biệt 
cảm ơn PGS. TS. Nguyễn Bá Kế đã góp nhiều ý phản 
biện sâu sắc, để bài báo này được hoàn thành. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Bá Kế et al. (2008), “ Móng nhà cao tầng, 
kinh nghiệm nước ngoài” Nhà xuất bản xây dựng, 
Hanoi. 
2. Tomlinson M. J. (1994), “Pile design and 
construction practice”, Fourth edi. London: E & F 
N SPON. 
3. Kitiyodom P. and Matsumoto T. (2002), “A 
simplified analysis method for piled raft and pile 
group foundations with batter piles,” International 
Journal for Numerical and Analytical Methods in 
Geomechanics, vol. 1369, no. February, pp. 
1349-1369. 
a) b) 
ĐỊA KỸ THUẬT – TRẮC ĐỊA 
70 Tạp chí KHCN Xây dựng - số 3/2015 
4. Kitiyodom P. and Matsumoto T. (2003), “A 
simplified analysis method for piled raft 
foundations in non-homogeneous soils”, in Int. J. 
Numer. Anal. Meth. Geomechanics. 
5. Poulos H. G. (2001), “METHODS OF ANALYSIS 
OF PILED RAFT FOUNDATIONS,” A Report 
Prepared on Behalf of Technical Committee TC18 
on Piled Foundations. 
6. Katzenbach et al. (1998), “Piled Raft Foundation - 
Interaction between Piles and Raft,” Int. Conf. SSI 
in Urban Civil Eng. 8-9Oct 1998. 
7. Rabiei M. (2009), “Parametric Study for Piled Raft 
Foundations,” EDGE vol. 1, Bund. A, no. 1980, 
pp. 1-11. 
8. Randolph M. F. (1994), “Design Methods for Pile 
Groups and Piled Rafts,” XIII ICSMMFE, New 
Delhi, India. 
9. Niandou H. and Breysse D. (2005), 
“Consequences of soil variability and soil-structure 
interaction on the reliability of a piled raft,” 
ICOSAR 2005,Millpress, Roterdam, IBSN 90 5966 
040 4, pp. 917-924. 
Ngày nhận bài: 06/3/2015. 
Ngày nhận bài sửa lần cuối: 29/8/2015. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 14483470284_phan3_dia_ky_thuat_trac_dia_31_2128.pdf 14483470284_phan3_dia_ky_thuat_trac_dia_31_2128.pdf