KẾT LUẬN
Nghiên cứu tình hình sử dụng thuốc điều
trị vảy nến và phân tích sự phù hợp về việc theo
dõi tác dụng không mong muốn của thuốc điều
trị toàn thân thông qua xét nghiệm thường quy
theo khuyến cáo, chúng tôi nhận thấy: thuốc điều
trị tại chỗ chiếm tỷ lệ rất lớn trong các thuốc sử
dụng cho bệnh nhân và 52,7% bệnh nhân chỉ
được điều trị bằng các thuốc này trong phác đồ
khởi đầu. Thuốc điều trị toàn thân được kê đơn
ở 180 bệnh nhân (43,0%), với methotrexat là
thuốc được sử dụng phổ biến nhất. Thuốc sinh
học infliximab bắt đầu đưa vào điều trị nhưng
tỷ lệ sử dụng ít (7 bệnh nhân, 1,7%) và chỉ được
kê đơn trong phác đồ thay thế. Các xét nghiệm
thường được thực hiện khi bệnh nhân sử dụng
thuốc điều trị toàn thân là công thức máu, chức
năng gan, thận và vẫn có xét nghiệm cần thiết
nhưng không được thực hiện như thử thai. Các
xét nghiệm cần được thực hiện đầy đủ và đúng
thời điểm để tránh lãng phí, đồng thời cho phép
theo dõi tác dụng không mong muốn của các
thuốc điều trị toàn thân chặt chẽ hơn.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 5 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phân tích tình hình sử dụng thuốc điều trị vảy nến tại phòng khám chuyên đề, bệnh viện Da liễu trung ương, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
29Số 28 (Tháng 05/2019) 'A /,ӈ8 HӐ&
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
PHAÂN TÍCH TÌNH HÌNH SÖÛ DUÏNG THUOÁC ÑIEÀU TRÒ VAÛY NEÁN
TAÏI PHOØNG KHAÙM CHUYEÂN ÑEÀ, BEÄNH VIEÄN DA LIEÃU
TRUNG ÖÔNG
Trần Thị Thoan* , Nguyễn Văn Thường *, Lê Hữu Doanh*, Đinh Hữu Nghị*, Nguyễn Mai Hoa**,
Nguyễn Hoàng Anh**
TÓM TẮT
Mục tiêu: Khảo sát tình hình sử dụng thuốc điều trị vảy nến và phân tích sự phù hợp về việc theo
dõi tác dụng không mong muốn của thuốc sử dụng toàn thân bằng các xét nghiệm thường quy.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Bệnh án của bệnh nhân vảy nến, khám và điều trị bệnh
vảy nến lần đầu tại Phòng khám chuyên đề - Bệnh viện Da liễu Trung ương từ ngày 01/01/2016 đến hết
31/12/2016. Phương pháp nghiên cứu là thu thập các thông tin về bệnh nhân, về thuốc/phác đồ điều
trị và các xét nghiệm thường quy của bệnh nhân được theo dõi hồi cứu, dọc theo thời gian 1 năm kể
từ ngày bắt đầu điều trị. Tính phù hợp của việc thực hiện các chỉ số xét nghiệm được đánh giá dựa trên
khuyến cáo của Hội Da liễu Việt Nam (2016).
Kết quả: Tổng số 419 bệnh án của bệnh nhân được nghiên cứu. Hầu hết bệnh nhân được điều trị
bằng thuốc tại chỗ. Trong đó có 52,7% bệnh nhân được kê các thuốc này trong phác đồ khởi đầu. Tỷ lệ
bệnh nhân sử dụng thuốc điều trị toàn thân chiếm 43,0%, và methotrexat là thuốc được kê đơn nhiều
nhất. Tỷ lệ bệnh nhân được chỉ định xét nghiệm nói chung và tỷ lệ thực hiện từng loại chỉ số xét nghiệm
đều chưa đủ và đúng theo khuyến cáo. Xét nghiệm thử thai chưa được thực hiện với tất cả các thuốc
điều trị toàn thân.
Kết luận: Hầu hết bệnh nhân vảy nến được sử dụng thuốc điều trị tại chỗ, có một số trường hợp
được kết hợp với thuốc điều trị toàn thân và thuốc hỗ trợ. Khi sử dụng thuốc điều trị toàn thân, chưa
thực hiện đủ các xét nghiệm cần thiết phù hợp để theo dõi tác dụng không mong muốn của thuốc.
Từ khóa: vảy nến, xét nghiệm thường quy, corticosteroid, methotrexat.
Phản biện khoa học: PGS.TS. Trần Văn Tiến
* Bệnh viện Da liễu Trung ương
** Trung tâm DI & ADR Quốc gia, Trường Đại học Dược
Hà Nội
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vảy nến là một bệnh da thường gặp,
chiếm khoảng 2,2% tổng số bệnh nhân đến khám
bệnh tại Bệnh viện Da liễu Trung ương (2010) [1].
Lựa chọn thuốc trong điều trị vảy nến dựa vào
nhiều yếu tố như thể bệnh, mức độ bệnh, bệnh
mắc kèm, hiệu quả và tác dụng không mong
muốn của thuốc, sự phối hợp giữa thầy thuốc và
bệnh nhân, yếu tố kinh tế [1]. Một số thuốc điều
trị vảy nến toàn thân có thể có những tác dụng
không mong muốn. Cho nên, cần phải thực hiện
một số xét nghiệm thường quy để theo dõi trong
30 'A /,ӈ8 HӐ& Số 28 (Tháng 05/2019)
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
quá trình điều trị [3]. Để có được những thông tin
cần thiết giúp ích cho việc quản lý bệnh vảy nến,
chúng tôi tiến hành thực hiện đề tài nghiên cứu
nhằm: (1) khảo sát tình hình sử dụng thuốc điều
trị vảy nến trên các bệnh nhân đến khám và điều
trị lần đầu tại Phòng khám chuyên đề Bệnh viện
Da liễu TW và (2) phân tích sự phù hợp về việc
theo dõi tác dụng không mong muốn của các
thuốc điều trị vảy nến sử dụng toàn thân thông
qua các xét nghiệm thường quy.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Bệnh án của bệnh
nhân vảy nến, điều trị lần đầu tại Phòng khám
chuyên đề - Bệnh viện Da liễu Trung ương năm
2016. Những bệnh án này được theo dõi trong
vòng 1 năm kể từ ngày bắt đầu điều trị. Phân tích
sự phù hợp về theo dõi tác dụng không mong
muốn bằng các xét nghiệm thường quy, lựa chọn
bệnh án của bệnh nhân thu được từ mục tiêu 1
có sử dụng tối thiểu một thuốc điều trị toàn thân
trong 12 tháng theo dõi.
Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu, theo
dõi dọc thông qua thu thập thông tin về bệnh
nhân, về thuốc/phác đồ điều trị và các xét nghiệm
thường quy được thực hiện trước và tại các thời
điểm tái khám trong quá trình điều trị. Tính phù
hợp của việc thực hiện các chỉ số xét nghiệm
được đánh giá dựa trên khuyến cáo của Hội Da
liễu Việt Nam (2016) [3].
Xử lý số liệu: Dữ liệu được lưu trữ và xử lý
bằng phần mềm SPSS 20.0.
3. KẾT QUẢ
3.1. Kết quả khảo sát tình hình sử dụng thuốc
điều trị vảy nến
Năm 2016, có 419 bệnh án bệnh nhân vảy
nến lần đầu đến khám và điều trị tại Phòng
khám chuyên đề. Trong đó, nam chiếm 67,5%,
chủ yếu là vảy nến thể mảng chiếm 82,1%, thể
mủ và thể giọt chiếm tỷ lệ lần lượt là 5,3% và
4,5%, thể đỏ da toàn thân chiếm tỷ lệ ít nhất
2,4%. Khảo sát tình hình sử dụng thuốc điều trị
vảy nến của những bệnh nhân này chúng tôi thu
được kết quả:
Đặc điểm sử dụng thuốc của các bệnh nhân
trong mẫu nghiên cứu trong 12 tháng theo dõi
điều trị được trình bày trong bảng 3.1.
Bảng 3.1: Tỷ lệ sử dụng các loại thuốc điều trị
vảy nến
Đặc điểm sử dụng thuốc
Số bệnh
nhân (tỷ
lệ %)
Thuốc điều trị vảy nến toàn thân 195 (46,5)
Metrotrexat 140 (33,4)
Acitretin 70 (16,7)
Ciclosporin 16 (3,8)
Infliximab 7 (1,7)
Thuốc điều trị vảy nến tại chỗ 419 (100)
Corticosteroid 416 (99,3)
Bethamethason dipropionat (mỡ) 337 (80,4)
Clobethason propionat (mỡ, kem) 40 (9,5)
Bethamethason dipropionat (kem, gel) 333 (79,5)
Mometason furoat (kem) 3 (0,7)
Clobetason butyrat (kem) 16 (3,8)
Desonid (kem) 30 (7,2)
Betamethason valerat (kem, gel) 34 (8,1)
Hydrocortison acetat (kem) 3 (0,7)
Calcipotriol 377 (90,0)
Tacrolimus 165 (39,4)
Acid salicylic 135 (32,2)
Thuốc hỗ trợ điều trị vảy nến 294 (70,2)
Thuốc điều trị bệnh mắc kèm 51 (12,2)
Thuốc khác 173 (42,3)
Tổng số bệnh nhân 419 (100,0)
31Số 28 (Tháng 05/2019) 'A /,ӈ8 HӐ&
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Nhận xét: Toàn bộ bệnh nhân trong mẫu
nghiên cứu đều sử dụng thuốc điều trị vảy nến
tại chỗ nhưng chỉ 195 bệnh nhân (46,5%) được
kê đơn thuốc điều trị toàn thân, phổ biến nhất
là methotrexat (33,4%). Trong các thuốc điều
trị tại chỗ, đa số bệnh nhân đều được kê đơn
corticosteroid (99,3%), tiếp theo là calcipotriol
(90,0%). Trong nhóm corticosteroid, các hoạt chất
có hoạt lực cực mạnh (nhóm I) và mạnh (nhóm II)
có tỷ lệ sử dụng cao, lần lượt là 89,9% và 79,5%.
Các phương pháp điều trị vảy nến trong phác
đồ khởi đầu khá đa dạng từ đơn trị liệu đến phối
hợp các thuốc điều trị và có cả kết hợp với quang
trị liệu. Kết quả khảo sát các phương pháp điều trị
vảy nến trong phác đồ khởi đầu được trình bày ở
bảng 3.2.
Bảng 3.2: Các phương pháp điều trị vảy nến
phác đồ khởi đầu
Phương pháp điều trị
Số bệnh nhân
(Tỷ lệ %)
Thuốc tại chỗ 221 (52,7)
Thuốc tại chỗ + toàn thân 170 (40,6)
Thuốc tại chỗ + quang trị liệu 18 (4,3)
Thuốc toàn thân 6 (1,4)
Thuốc tại chỗ + thuốc toàn
thân + quang trị liệu
4 (1,0)
Tổng số bệnh nhân 419 (100,0)
Nhận xét: Bệnh nhân chỉ dùng các thuốc
điều trị tại chỗ chiếm tỷ lệ cao (52,7%), thường
được kết hợp với nhau từ 2 đến 3 loại thuốc. Có
43,0% bệnh nhân được sử dụng thuốc toàn thân
khởi đầu điều trị. Toàn bộ các thuốc này đều được
sử dụng đơn độc, trong đó, methotrexat là thuốc
được kê đơn nhiều nhất. Điều trị kết hợp giữa
thuốc và quang trị liệu chỉ chiếm 5,3%.
3.2. Kết quả phân tích tính phù hợp về việc thực hiện các xét nghiệm thường quy
Bảng 3.3: Tỷ lệ bệnh nhân được xét nghiệm khi dùng acitretin theo khuyến cáo
Loại xét nghiệm
Trước
điều trị
Sau 4 tuần Sau 8 tuần Sau 12 tuần Sau 16 tuần
Công thức máu 88,2 92,6 95,8 85,7 100,0
Enzym gan 85,3 96,3 95,8 100,0 94,7
Creatinine huyết thanh 85,3 85,2 91,7 100,0 94,7
Lipid huyết thanh 79,4 85,2 91,7 95,2 100,0
Đường huyết lúc đói 73,5 77,8 83,3 81.0 84,2
Thử thai (nước tiểu) 0 0 0 0 0
Chỉ định xét nghiệm chung 51,4 47,5 45,6 44,2 47,7
Nhận xét: Chỉ khoảng 1/2 số bệnh nhân được chỉ định thực xét nghiệm trước và trong quá trình
sử dụng acitretin (45,6% đến 51,4%). Những bệnh nhân này, các chỉ số xét nghiệm được thực hiện khá
đầy đủ. Xét nghiệm thử thai không được thực hiện đối với tất cả bệnh nhân nữ trong mẫu nghiên cứu.
32 'A /,ӈ8 HӐ& Số 28 (Tháng 05/2019)
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 3.4: Tỷ lệ bệnh nhân được xét nghiệm khi điều trị bằng ciclosporin theo khuyến cáo
Loại xét nghiệm
Trước
điều trị
Tháng
đầu tiên
Tháng
thứ 2
Tháng
thứ 3
Tháng thứ 4
trở đi
Công thức máu 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Enzym gan 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Creatinine huyết thanh 100,0 100,0 100,0 100,0 100,0
Lipid huyết thanh 93,3 75,0 87,5 80,0 66,7
Acid uric huyết thanh 86,7 75,0 75,0 60,0 66,7
Điện giải đồ 60,0 62,5 62,5 40,0 66,7
Phân tích nước tiểu 66,7 87,5 37,5 60,0 66,7
Thử thai (nước tiều) 0,0
Chỉ định xét nghiệm chung 93,8 61,5 72,7 62,5 60,0
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân được thực hiện xét nghiệm trước điều trị bằng ciclosporin tương đối
cao (93,8%) nhưng giảm nhiều các tháng tiếp theo. Các chỉ số xét nghiệm về công thức máu hay enzym
gan được thực hiện khá đầy đủ, trong khi đó, điện giải đồ, acid uric huyết thanh, lipid huyết thanh lại ít
được chú ý đến. Xét nghiệm thử thai trước điều trị đều không được thực hiện cho các bệnh nhân nữ.
Bảng 3.5: Tỷ lệ bệnh nhân được xét nghiệm khi điều trị bằng methotrexat theo khuyến cáo
Thời kỳ
Trước điều
trị
Tháng
đầu tiên
Tháng
thứ 2
Tháng
thứ 3
Tháng thứ 4
trở đi
Công thức máu 74,4 61,8 75,5 84,4 56,3
Enzym gan 73,3 57,4 73,6 82,2 56,3
Creatinine huyết thanh 70,0 61,8 75,5 84,4 53,1
Albumin huyết thanh 46,7 41,2 37,7 51,4 31,3
HBV/HCV 3,7
Phân tích nước tiểu 38,9 29,4 43,4 48,9 34,4
Thử thai (nước tiểu) 0,0
X - quang phổi 8,9 4,4 9,4 6,7 6,3
Chỉ định xét nghiệm chung 64,3 70,1 79,1 83,3 83,9
Nhận xét: Tỷ lệ bệnh nhân được xét nghiệm trước khi điều trị bằng methotrexat thấp. Nhiều xét
nghiệm không được tiếp tục thực hiện khi theo dõi điều trị. Tỷ lệ thực hiện chụp X -quang phổi trước
và trong quá trình điều trị rất thấp (8,9%). Tương tự với acitretin và ciclosporin, không có bệnh nhân nữ
thực hiện thử thai trước điều trị.
33Số 28 (Tháng 05/2019) 'A /,ӈ8 HӐ&
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Bảng 3.6: Tỷ lệ bệnh nhân được xét nghiệm khi điều trị bằng infliximab theo khuyến cáo
Thời kỳ Trước điều trị Sau 2 tuần Sau 6 tuần
Lần truyền
tiếp theo
Công thức máu 100,0 100,0 100,0 100,0
Enzym gan 100,0 77,8 55,6 55,6
Creatinine huyết thanh 100,0 100,0 88,9 88,9
ESR/CRP 100,0 77,8 44,4 55,6
Mantoux/IRGAs 100,0
HBV/HCV 100,0
Phân tích nước tiểu 100,0 77,8 44,4 44,4
Thử thai 0,0
HIV 100,0
Chỉ định xét nghiệm chung 100,0 100,0 100,0 100,0
Nhận xét: Trước khi khởi đầu điều trị bằng infliximab, hầu hết bệnh nhân được xét nghiệm theo
khuyến cáo. Trong quá trình điều trị, tại các thời điểm theo dõi, các bệnh nhân đều được xét nghiệm sinh
hóa, huyết học đầy đủ. Các xét nghiệm chức năng gan, phân tích nước tiểu và ESR/CRP ít được chú ý hơn
và có xu hướng thực hiện ít dần theo thời gian. Xét nghiệm thử thai trước điều trị cũng không được thực
hiện ở bệnh nhân nữ nào.
4. BÀN LUẬN
Các thuốc sử dụng trong điều trị vảy nến rất đa
dạng, trong đó, thuốc điều trị tại chỗ luôn chiếm
tỷ lệ lớn. Trong nghiên cứu của chúng tôi, 100%
bệnh nhân được kê đơn thuốc điều trị tại chỗ,
trong đó, chủ yếu là corticosteroid và calcipotriol
đứng hàng thứ hai. Trong nhóm corticosteroid, đa
số bệnh nhân đều được sử dụng các hoạt chất có
hoạt lực cực mạnh và mạnh, với tỷ lệ tương ứng
lần lượt là 89,9% và 79,5%. Kết quả này tương tự
với khảo sát tại bệnh viện vào năm 2010 và tương
đồng với nghiên cứu của Bylappa Bhuvana Kolar
[4], [5]. Ở các mức độ hoạt lực thấp hơn từ trung
bình đến yếu, đều có các hoạt chất corticosteroid
được sử dụng, với đa dạng các dạng bào chế
(kem, gel, mỡ), tạo ra nhiều lựa chọn phù hợp với
các mức độ bệnh, cá thể bệnh nhân và vị trí tổn
thương khác nhau.
Trong các thuốc điều trị toàn thân,
methotrexat vẫn là thuốc sử dụng phổ biến nhất,
tiếp đến là dẫn chất retinoid (acitretin) và sau đó
là ciclosporin. Kết quả này tương đồng với các
nghiên cứu của Boffa MJ tại châu Âu năm 2005 [6].
Methotrexat được dùng điều trị vảy nến từ những
năm 60 của thế kỷ trước, với khoảng điều trị hẹp
nhưng chi phí điều trị thấp nên vẫn là thuốc được
nhiều bác sỹ lựa chọn. Đặc biệt, thuốc sinh học
(infliximab) cũng đã được đưa vào sử dụng mặc
dù tỷ lệ còn thấp và chỉ được sử dụng trong phác
đồ thay thế. Việc có nhiều thuốc điều trị toàn
thân được đưa vào điều trị tạo thêm cơ hội lựa
chọn thuốc phù hợp với bệnh nhân và việc luân
chuyển giữa các thuốc toàn thân để giảm nguy
cơ gây biến cố bất lợi dễ dàng hơn.
Nhờ được cập nhật các hướng dẫn điều trị,
phương pháp kết hợp riêng quang trị liệu với
thuốc tại chỗ đã được áp dụng tại bệnh viện, làm
34 'A /,ӈ8 HӐ& Số 28 (Tháng 05/2019)
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
trì hoãn việc sử dụng thuốc toàn thân với độc
tính cao. Đây là kết hợp được nhiều khuyến cáo
đưa ra, tuy nhiên, khi dùng quang trị liệu không
sử dụng thuốc calcipotriol [2]. Do nghiên cứu này
thực hiện trên đối tượng ngoại trú nên mức độ
bệnh nhẹ hơn, phác đồ khởi đầu chỉ gồm thuốc
điều trị tại chỗ chiếm tỷ lệ cao nhất tỷ lệ (52,7%)
và kết hợp thuốc tại chỗ và toàn thân trong phác
đồ khởi đầu ở nghiên cứu này chiếm 42,0%.
Trong khi các thuốc điều trị toàn thân đều được
sử dụng đơn độc trong phác đồ khởi đầu, các
thuốc điều trị tại chỗ thường được kết hợp 2 - 3,
thậm chí 4 hoạt chất với nhau. Các thuốc tại chỗ
được sử dụng nhiều loại để phù hợp cho nhiều
vị trí thương tổn của bệnh vảy nến. Phối hợp
corticosteroid và calcipotriol là phối hợp chiếm tỷ
lệ cao nhất (37,7%). Đây cũng là phối hợp thuốc
tại chỗ được khuyến cáo nên sử dụng do tạo ra
tác dụng hiệp đồng của 2 thuốc [1].
Trong quá trình điều trị vảy nến, việc tuân
thủ thực hiện xét nghiệm trước và trong quá trình
điều trị của mỗi thuốc điều trị toàn thân tương
đối khác nhau. Với acitretin, số lượng bệnh nhân
được thực hiện xét nghiệm theo khuyến cáo mới
chỉ đạt khoảng 50%. Tuy nhiên, với hầu hết các
bệnh nhân khi được chỉ định xét nghiệm, các chỉ
số được thực hiện gần như đầy đủ, thậm chí có
những chỉ số đã được thực hiện khi không cần
thiết. Khác với acitretin, đa số bệnh nhân sử dụng
ciclosporin đều được thực hiện các xét nghiệm
trước điều trị nhưng trong quá trình điều trị, các
xét nghiệm lại chưa được thực hiện đầy đủ. Bệnh
nhân chỉ được chú ý xét nghiệm công thức máu,
enzym gan, creatinin huyết thanh trong khi việc
thực hiện các xét nghiệm khác như điện giải đồ
hoặc đo nồng độ acid uric hoặc lipid huyết thanh
lại ít được chỉ định hơn hoặc thực hiện ở thời điểm
khác so với khuyến cáo. Điều này cho thấy bác sĩ
tại bệnh viện chú ý nhiều hơn đến độc tính trên
gan, thận của ciclosporin. Trong khi đó, tác dụng
bất lợi gây rối loạn điện giải (hạ magie huyết
thanh, tăng kali huyết thanh) và rối loạn chuyển
hóa (tăng acid uric, tăng lipid huyết thanh) của
thuốc này mặc dù không hiếm gặp nhưng chưa
được quan tâm đầy đủ [3], [8].
Methotrexat là thuốc được sử dụng phổ
biến nhất, tiềm tàng nhiều nguy cơ gây tác dụng
không mong muốn nghiêm trọng nên việc theo
dõi tác dụng không mong muốn bằng các xét
nghiệm thường quy rất cần thiết. Tuy nhiên,
trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân
được thực hiện xét nghiệm trước và trong quá
trình điều trị bằng thuốc này chỉ đạt khoảng 60
- 80%. Tỷ lệ này thấp hơn đáng kể so với các kết
quả nghiên cứu khác đã được thực hiện tại châu
Âu, đặc biệt với xét nghiệm thử thai [6], [7]. Mặt
khác, do việc khám và điều trị tại phòng khám
theo lịch hẹn hàng tháng nên bệnh nhân không
được xét nghiệm công thức máu sau tuần đầu
tiên điều trị theo khuyến cáo. Đo nồng độ enzym
gan là xét nghiệm cần thiết để theo dõi độc tính
trên gan khi sử dụng methotrexat trong điều
kiện bệnh viện chưa đủ điều kiện thực hiện xét
nghiệm PIIINP hay sinh thiết gan. Tuy nhiên, xét
nghiệm chức năng gan cơ bản này cũng không
được thực hiện đầy đủ và thậm chí, đặc biệt từ
tháng thứ 4 trở đi, có xu hướng giảm mạnh, với
chỉ 56,3% bệnh nhân được thực hiện xét nghiệm
này trong mẫu nghiên cứu. Trong các thuốc điều
trị toàn thân, infliximab là thuốc sinh học duy
nhất đã được đưa vào điều trị và cũng là thuốc có
tỷ lệ tuân thủ việc thực hiện xét nghiệm đầy đủ
35Số 28 (Tháng 05/2019) 'A /,ӈ8 HӐ&
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
nhất theo khuyến cáo. Tất cả các bệnh nhân đã
được thực hiện xét nghiệm và tại lần xét nghiệm
đầu tiên tất cả các chỉ số xét nghiệm được thực
hiện. Tuy nhiên, ngoại trừ xét nghiệm công thức
máu, các chỉ số xét nghiệm khác cũng có xu
hướng được thực hiện ít dần theo thời gian theo
dõi, kể cả xét nghiệm enzym gan đã được khuyến
cáo cần thiết để theo dõi độc tính trên gan liên
quan đến việc sử dụng thuốc này [8].
Đối với các thuốc điều trị toàn thân, xét
nghiệm thử thai được yêu cầu thực hiện trước khi
bắt đầu sử dụng thuốc nhưng toàn bộ bệnh nhân
nữ cũng đều không được tuân thủ xét nghiệm
đúng khuyến cáo. Điều đó có thể xuất phát từ
việc xét nghiệm thử thai bằng nước tiểu không
nằm trong phạm vi thanh toán của bảo hiểm y tế,
dẫn đến bác sĩ không chỉ định xét nghiệm mà chỉ
trao đổi, tư vấn về độc tính của thuốc và ghi cụ
thể trong đơn cho bệnh nhân.
5. KẾT LUẬN
Nghiên cứu tình hình sử dụng thuốc điều
trị vảy nến và phân tích sự phù hợp về việc theo
dõi tác dụng không mong muốn của thuốc điều
trị toàn thân thông qua xét nghiệm thường quy
theo khuyến cáo, chúng tôi nhận thấy: thuốc điều
trị tại chỗ chiếm tỷ lệ rất lớn trong các thuốc sử
dụng cho bệnh nhân và 52,7% bệnh nhân chỉ
được điều trị bằng các thuốc này trong phác đồ
khởi đầu. Thuốc điều trị toàn thân được kê đơn
ở 180 bệnh nhân (43,0%), với methotrexat là
thuốc được sử dụng phổ biến nhất. Thuốc sinh
học infliximab bắt đầu đưa vào điều trị nhưng
tỷ lệ sử dụng ít (7 bệnh nhân, 1,7%) và chỉ được
kê đơn trong phác đồ thay thế. Các xét nghiệm
thường được thực hiện khi bệnh nhân sử dụng
thuốc điều trị toàn thân là công thức máu, chức
năng gan, thận và vẫn có xét nghiệm cần thiết
nhưng không được thực hiện như thử thai. Các
xét nghiệm cần được thực hiện đầy đủ và đúng
thời điểm để tránh lãng phí, đồng thời cho phép
theo dõi tác dụng không mong muốn của các
thuốc điều trị toàn thân chặt chẽ hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ môn Da liễu - Trường Đại học Y Hà Nội
(2016), “Bệnh vảy nến”, Bệnh học da liễu, Nhà xuất
bản Y học, pp. 103-113.
2. Hội Da liễu Việt Nam (2016), “Hướng dẫn
chăm sóc và điều trị bệnh vảy nến”, Nhà xuất bản
Y học.
3. Bylappa Bhuvana Kolar, Patil Rajesh T, et
al. (2015), “Drug prescribing pattern of topical
corticosteroids in dermatology unit of a tertiary-
care hospital”, Int J Med Sci Public Health, 4(12),
pp. 1702.
4. Boffa MJ (2005), “Methotrexate for psoriasis:
current European practice. A postal survey”,
Journal of the European Academy of Dermatology
and Venereology, 19(2), pp. 196-202.
5. Collin B, Srinathan SK, et al. (2008),
“Methotrexate: prescribing and monitoring
practices among the consultant membership of
the British Association of Dermatologists”, British
Journal of Dermatology, 158(4), pp. 793-800.
6. Nast Alexander, Boehncke Wolf‐Henning,
et al. (2012), “S3-Guidelines on the treatment
of psoriasis vulgaris (English version). Update”,
JDDG: Journal der Deutschen Dermatologischen
Gesellschaft, 10(s2), pp.
36 'A /,ӈ8 HӐ& Số 28 (Tháng 05/2019)
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
SUMMARY
ANALYSIS OF DRUGS USING IN THE TREATMENT OF PSORIASIS IN THE PSORIASIS - SPECIFIC CLINIC
IN NATIONAL HOSPITAL OF DERMATOLOGY AND VENEREOLOGY
Objectives: This study aimed to describe the use of drugs used for psoriasis in the Outpatient
Department at National Hospital of Dermatology and Venereology (NHDV) and analyze the
appropriateness of routine laboratory monitoring for adverse effects of systematic therapy.
Methods: Patients with psoriasis first visiting NHDV during the period from 1 Jan 2016 to 31
December 2016 were included. Patient information, drug/treatment regimens and routine laboratory
tests were monitored over a one year period from initiation of treatment. The rationality of the routine
test was assessed based on the guideline of the Vietnamese Society of Dermatology and Venereology
(2016). Results: A total of 419 patients were enrolled in the study. 100% of patients were prescribed
topical treatment and half of initial regimens included topical drugs only (52.7%). Only 180 patients
(43.0%) received systemic psoriasis drugs, of which methotrexate was the most commonly prescribed
drug. There was a rate of tests assigned irrational. Pregnancy testing was not been performed with all
systemic drugs.
Conclusions: The study reveals a wide variety of treatment methods and drugs used for psoriasis
patients in the outpatient setting. Laboratory tests should be performed more rationally to monitor the
adverse effects of systemic therapy closely.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
phan_tich_tinh_hinh_su_dung_thuoc_dieu_tri_vay_nen_tai_phong.pdf