Phân bố dân số
Sự phân bố dân cư chưa hợp lý ảnh
hưởng rất lớn đến việc sử dụng lao động và
khai thác tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, việc
phân bố lại dân cư và lao động trên phạm vi
cả nước là rất cần thiết.
Dự thảo Luật Dân số cần định hướng
cho việc xây dựng chính sách chuyển cư phù
hợp để thúc đẩy sự phân bố dân cư, lao động
giữa các vùng; quy định việc xây dựng quy
hoạch và chính sách thích hợp nhằm đáp
ứng xu thế chuyển dịch cơ cấu dân số nông
thôn và thành thị. Pháp luật dân số là cơ sở
pháp lý cho việc thực hiện chính sách phân
bố dân số hợp lý hơn, góp phần vào sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong đó,
các quy định về phân bố dân số hợp lý cần
được xây dựng phù hợp với các quan điểm,
chủ trương của Đảng và Nhà nước và thống
nhất với các quy định của Luật Cư trú năm
2013 và các đạo luật có liên quan.
Hoàn thiện pháp luật dân số nhằm quy
định các giải pháp đúng đắn cho vấn đề điều
chỉnh phân bố dân số quốc gia, thích ứng với
quá trình đô thị hóa, ổn định từng bước cuộc
sống của người dân di cư là yêu cầu quan
trọng trong bối cảnh hiện nay.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật dân số: Lịch sử, thực tiễn thi hành và kiến nghị hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Dân số luôn được coi là một trong những vấn đề quan trọng đối với
sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Giải quyết những vấn đề
dân số, không chỉ ở các góc độ nhận thức, hành vi, kinh tế, khoa học,
kỹ thuật, mà điều cốt yếu nhất chính là đề xuất hệ thống chính sách
pháp luật phù hợp và kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn của công
tác dân số. Bài viết giới thiệu hệ thống pháp luật dân số, thực tiễn thi
hành pháp luật và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật dân số phù
hợp với các yêu cầu trong tình hình mới.
PHÁP LUẬT DÂN SỐ: LỊCH SỬ, THỰC TIỄN THI HÀNH
VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
Nguyễn Thúy Hà*
Abstract:
Population is always considered one of the important matters for the
sustainable development of any country. Dealing with the population
matters, not only in terms of awareness, behavior, economics, science
and technology, but the most crucial thing is to propose the timely
and appropriate legal system responsive to the practical requirements
of the population management. This article provides introduction of
the legal system on populations, the practices of law enforcement and
the proposed solutions to improve the population laws in accordance
with the requirements in the new context.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Dân số, pháp luật dân số,
dự án Luật Dân số.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài: 12/06/2017
Biên tập: 09/11/2017
Duyệt bài: 16/11/2017
Article Infomation:
Keywords: population, population
law, project on population law.
Article History:
Received: 12 Jun 2017
Edited: 09 Nov. 2017
Appproved: 16 Nov. 2017
* ThS. Phó Giám đốc Trung tâm Thông tin khoa học lập pháp, Viện Nghiên cứu Lập pháp.
1. Khái quát về hệ thống pháp luật dân số
Sau năm 1954, dân số nước ta đã tăng
nhanh. Số dân tăng thêm từ 0,40 triệu người/
năm trong giai đoạn 1945-1955 lên 0,99
1 Nguyễn Đình Cử, Nhu cầu chuyển hướng chính sách dân số: từ DS-KHHGĐ sang chính sách dân số và phát triển, Tạp
chí Cộng sản điện tử, 31/12/2014.
triệu người/năm giai đoạn 1955-1965, trung
bình 3,3%/năm1. Bởi vậy, ngay từ năm
1961, Đảng và Nhà nước ta đã chính thức
triển khai chương trình dân số - kế hoạch
hóa gia đình (DS-KHHGĐ).
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
39Số 22(350) T11/2017
Giai đoạn 1961-1975, ngày
26/12/1961 Hội đồng Chính phủ ban hành
Quyết định 216/CP về việc sinh đẻ có hướng
dẫn. Với Quyết định này, Việt Nam đã trở
thành một trong những quốc gia đầu tiên ở
châu Á ban hành văn bản pháp lý và triển
khai chương trình DS-KHHGĐ.
Từ đó, với sự đóng góp của các văn
bản pháp luật, cuộc vận động sinh đẻ có kế
hoạch của nước ta đã đạt được những thành
quả nhất định: tỷ lệ tăng dân số của Việt
Nam đã giảm từ 3,8% năm 1960 xuống còn
2,4% năm 1975.
Giai đoạn 1975-1984, đất nước đã
thống nhất, công tác DS-KHHGĐ được
triển khai trong phạm vi cả nước. Các văn
bản pháp luật tiêu biểu thời kỳ này có thể
kể đến là Chỉ thị 265/CP ngày 19/10/1978
của Hội đồng Chính phủ về đẩy mạnh cuộc
vận động sinh đẻ có kế hoạch trong phạm vi
cả nước; Chỉ thị 29/HĐBT ngày 12/8/1981
của Hội đồng Bộ trưởng về đẩy mạnh cuộc
vận động sinh đẻ có kế hoạch trong 5 năm
1981-1985.
Giai đoạn 1984-1993, đất nước
ta bước vào thời kỳ đổi mới, công tác
DS-KHHGĐ đã được chú trọng hơn nhiều.
Tuy nhiên, chính sách, pháp luật dân số vẫn
tập trung vào giảm tỷ lệ phát triển dân số.
Theo Quyết định số 58/HĐBT ngày
11/4/1984, lần đầu tiên nước ta thành lập
cơ quan chuyên trách về dân số: Ủy ban
Dân số - Sinh đẻ có kế hoạch. Các văn bản
tiêu biểu trong thời kỳ này có thể kể đến:
Quyết định 162-HĐBT ngày 18/10/1988
của Hội đồng Bộ trưởng về một số chính
sách DS-KHHGĐ; Quyết định 315/CT ngày
24/8/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng
phê duyệt Chiến lược thông tin, giáo dục,
2 Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) xác định: “Thực hiện đồng bộ chiến lược dân số trên cả 3
mặt: Quy mô dân số, cơ cấu dân số và sự phân bố dân số”.
truyền thông DS-KHHGĐ giai đoạn 1992-
2000.
Các đạo luật có liên quan đến dân số
như: Luật Hôn nhân gia đình 1986, Luật
Bảo vệ sức khỏe nhân dân 1989, Luật Bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 1991, Luật
Phổ cập giáo dục tiểu học 1991 đã ra đời
trong thời kỳ này.
Việc vận động sinh đẻ có kế hoạch giai
đoạn này đã được mở rộng cả về đối tượng
và phạm vi thực hiện. Các chính sách dân
số đã bắt đầu quan tâm đến nhóm đối tượng
là đồng bào các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên,
cuộc vận động sinh đẻ có kế hoạch đối với
nhóm dân tộc thiểu số không đặt nặng vấn
đề giảm tốc độ tăng dân số mà là bảo vệ bà
mẹ và trẻ em.
Giai đoạn 1993-2000 đánh dấu sự
biến đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế- xã
hội Việt Nam và sự biến đổi cơ bản của công
tác DS-KHHGĐ. Chính sách dân số đã bước
đầu có sự chuyển biến theo hướng toàn diện
hơn. Lần đầu tiên, chính sách dân số của
Đảng ta mở rộng nội dung đến vấn đề cơ
cấu dân số và phân bố dân số2.
Các văn bản pháp luật thời kỳ này
có thể kể đến: Quyết định 270/TTg ngày
3/6/1993 của Thủ tướng Chính phủ về việc
phê duyệt Chiến lược DS-KHHGĐ đến năm
2000; Chỉ thị 37/TTg ngày 17/1/1997 của
Thủ tướng Chính phủ về đẩy nhanh thực
hiện Chiến lược DS-KHHGĐ đến năm 2000.
Giai đoạn 2000-2017 công tác dân
số chuyển sang giai đoạn mới - gắn liền
với việc triển khai Chiến lược dân số Việt
Nam giai đoạn 2001-2010, Chiến lược Dân
số và Sức khỏe Sinh sản (DS-SKSS) Việt
Nam giai đoạn 2011-2020.
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
40 Số 22(350) T11/2017
Trong giai đoạn này, mức sinh thay
thế tiếp tục được duy trì và giữ vững. Mục
tiêu ưu tiên của chính sách dân số đã chuyển
từ “kiểm soát quy mô dân số” sang “nâng
cao chất lượng dân số”. Nội dung quy mô
dân số chuyển từ “chủ động kiểm soát” sang
“chủ động điều chỉnh”. Tốc độ tăng dân số
từ “cản trở” đã trở thành “động lực” cho sự
phát triển kinh tế - xã hội. Chiến lược DS-
SKSS Việt Nam 2010-2020 xác định quan
điểm thực hiện công tác DS-KHHGĐ: “Giải
quyết đồng bộ các vấn đề dân số, sức khỏe
sinh sản, tập trung nâng cao chất lượng dân
số, cải thiện sức khỏe bà mẹ và trẻ em, phát
huy lợi thế của cơ cấu “dân số vàng”, chủ
động điều chỉnh tốc độ tăng dân số và kiểm
soát tỷ số giới tính khi sinh”3.
Pháp lệnh Dân số năm 2003 được ban
hành trong giai đoạn này. Đây là văn bản có
giá trị pháp lý cao nhất từ trước tới nay trong
lĩnh vực dân số ở Việt Nam, có ý nghĩa to
lớn trong việc định hướng đồng bộ, thống
nhất và toàn diện về dân số.
Ngoài ra, các văn bản pháp luật về
dân số tập trung điều chỉnh quy mô dân số
và nâng cao chất lượng dân số. Một số văn
bản quan trọng có thể kể đến: Quyết định
số 641/QĐ-TTg ngày 28/04/2011 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án
phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam
giai đoạn 2011-2030; Quyết định số 1199/
QĐ-TTg ngày 31/8/2012 của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Chương trình mục
tiêu quốc gia DS-KHHGĐ giai đoạn 2012-
2015; Quyết định số 122/QĐ-TTg ngày
10/01/2013 của Thủ tướng Chính phủ về
phê duyệt Chiến lược quốc gia bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn
2011-2020, tầm nhìn đến năm 2030; Nghị
3 Quyết định số 2013 QĐ/TTg ngày 14/11/2011 phê duyệt Chiến lược dân số và sức khỏe sinh sản Việt Nam 2011-2020.
4 Kết luận số 119-KL/TW ngày 04/1/2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013
của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực y tế
Ngày 04/01/2016, Ban chấp hành
Trung ương Đảng đã ban hành Kết luận số
119-KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị
quyết số 47-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa
IX về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính
sách DS-KHHGĐ. Đây là định hướng quan
trọng cho pháp luật dân số Việt Nam. Cụ
thể là về mục tiêu giảm sinh, “giảm sinh ở
những tỉnh, thành phố có mức sinh còn cao;
duy trì kết quả đã đạt được ở những tỉnh,
thành phố đạt mức sinh thay thế; thực hiện
mỗi cặp vợ chồng nên sinh đủ 2 con ở những
nơi có mức sinh thấp”. Về chuyển trọng tâm
chính sách dân số từ KHHGĐ sang dân số
và phát triển, “Việt Nam đã sớm đạt được và
duy trì vững chắc mức sinh thay thế”, do đó
“cần chuyển trọng tâm chính sách dân số từ
KHHGĐ sang dân số và phát triển”4.
Từ đầu những năm 60, khi mức sinh
rất cao và dân số tăng ở mức bùng nổ thì
giảm sinh là mục tiêu cốt lõi và KHHGĐ
đương nhiên phải là nội dung trọng tâm của
chính sách, pháp luật dân số. Đến nay, Việt
Nam đã đạt được mục tiêu giảm sinh, mô
hình gia đình nhỏ với “mỗi cặp vợ chồng có
1 hoặc 2 con” đã trở nên phổ biến. Trong khi
đó, nhiều vấn đề dân số mới xuất hiện, tác
động mạnh mẽ đến sự phát triển bền vững
của đất nước. Do vậy, việc chuyển đổi mục
tiêu, nội dung trọng tâm của pháp luật dân
số là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với tình
hình thực tế hiện nay.
2. Thực tiễn thi hành pháp luật dân số
2.1 Đối với quy mô dân số
Theo số liệu thống kê ngày 01/7/2016
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
41Số 22(350) T11/2017
của Tổng cục DS-KHHGĐ (Bộ Y tế)5, dân
số nước ta đạt 91,7 triệu người, xếp thứ 14
trên thế giới, thứ 8 ở châu Á và thứ 3 ở Đông
Nam Á về quy mô dân số.
Với quy mô dân số lớn, nhiệm vụ
trọng tâm trong chính sách và pháp luật dân
số của chúng ta là giảm sinh để đối phó với
tình trạng quy mô dân số tăng nhanh. Năm
2016, Việt Nam duy trì được tốc độ gia tăng
dân số trong khoảng 1%6. Tổng tỷ suất sinh
của Việt Nam hiện đứng thứ 5 trong khu vực
Đông Nam Á, liên tục duy trì được mức sinh
thay thế (2,1 con/một phụ nữ) trong nhiều
năm. Đây là thành tựu lớn lao mà công tác
DS-KHHGĐ đã đạt được.
Tuy nhiên, công tác DS-KHHGĐ hiện
nay đang gặp phải những thách thức mới
nảy sinh, đó là mức sinh còn biến động khó
lường. Trong khi nhiều địa phương tại miền
núi phía Bắc, Trung, Tây Nguyên (Điện
Biên, Lai Châu, Hà Tĩnh, Kon Tum) mức
sinh trung bình là hơn 3,0; thậm chí có gia
đình sinh 6-7 con; thì vùng Đông Nam Bộ
và Đồng bằng sông Cửu Long lại có mức
sinh rất thấp, (ở TP. Hồ Chí Minh, Bình
Dương mức sinh trung bình chỉ là 1,39 và
1,44 con)7.
Tỷ lệ phụ nữ sinh con thứ 3 trở lên
ở nước ta vẫn còn cao và có xu hướng
tăng lên. Năm 2015, tỷ lệ sinh con thứ 3
trở lên chiếm 15,2% (so với 14,5% năm
2014)8. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng
5 Lại Thìn, Dân số Việt Nam sắp chạm mốc 92 triệu người, Báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam, 5/7/2016.
6 Phát biểu của Thứ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Việt Tiến tại Hội nghị tổng kết công tác DS-KHHGĐ năm 2015 và triển
khai kế hoạch năm 2016, 14/1/2016, tại Hà Nội.
7 Tổng cục Thống kê và UNFPA Việt Nam, Mức sinh của Việt Nam: Những khác biệt, xu hướng và yếu tố tác động, Nxb.
Thông tấn, Hà Nội 2016, tr. 14.
8 Phát biểu của ông Đỗ Ngọc Tấn, Vụ trưởng Vụ DS-KHHGĐ tại Hội thảo “Các giải pháp nhằm đạt chỉ tiêu giảm sinh
và nâng cao chất lượng dân số do Quốc hội và Chính phủ giao năm 2016”, do Tổng cục DS-KHHGĐ (Bộ Y tế) tổ chức
tại TP. HCM ngày 29/7/2016.
9 Hải Linh, Việt Nam là 1 trong 3 nước có tỷ lệ nạo phá thai cao nhất trên thế giới, Báo điện tử Tri thức Việt Nam, ngày
2/10/2016.
10 Nghiên cứu được tiến hành trên 14.300 cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ (15-49) ở 8 tỉnh đại diện cho 8 vùng sinh
thái ở nước ta. Nguồn: “Báo động tình trạng vô sinh ở vợ chồng trẻ”, Báo Sức khỏe và Đời sống, ngày 25/1/2016.
trên là do quan niệm “trọng nam khinh nữ”
vẫn còn phổ biến. Mặt khác, còn một bộ
phận dân số vẫn chưa nhận thức được đầy đủ
trách nhiệm của việc sinh con, nuôi dạy con
đối với bản thân, gia đình và xã hội.
Việc thực hiện pháp luật dân số cho
thấy, vẫn còn lỗ hổng kiến thức lớn về sức
khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục đối với
người phụ nữ. Số liệu thống kê cho thấy, Việt
Nam là một trong ba nước có tỷ lệ nạo phá
thai cao nhất thế giới, trong đó 20% là ở tuổi
vị thành niên. Năm 2015 có gần 280.000 ca
phá thai, trong đó hơn 5.500 ca phá thai ở
tuổi vị thành niên thực hiện ở hệ thống y tế
công, chưa kể các cơ sở y tế tư nhân9.
Việc phá thai có ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tinh thần và sức khỏe người phụ
nữ và có khả năng cao dẫn tới vô sinh.
Nghiên cứu trên toàn quốc do Bệnh viện
Phụ sản Trung ương và Đại học Y Hà Nội
công bố năm 2015 cho thấy, tỷ lệ vô sinh tại
Việt Nam là 7,7%, trong đó trong đó vô sinh
nguyên phát là 3,9% và vô sinh thứ phát là
3,8%10. Đây là thách thức không nhỏ đối với
công tác dân số nước ta.
2.2 Cơ cấu dân số
Thực hiện pháp luật dân số, xu hướng
giảm sinh và nâng cao tuổi thọ đã dẫn đến sự
thay đổi đáng kể về cấu trúc dân số của Việt
Nam trong thời gian qua và những năm sắp
tới. Mức sinh giảm làm cho tỷ trọng dân số
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
42 Số 22(350) T11/2017
dưới 15 tuổi của Việt Nam giảm từ 42% vào
năm 1979 xuống còn 25% vào năm 201511.
Việt Nam đang bắt đầu trở thành một trong
những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất
trên thế giới. Dân số trên 65 tuổi là 6,3 triệu
người năm 2015, được dự báo sẽ lên 18 triệu
người vào năm 2040, chiếm tới hơn 18%
dân số12 và sẽ đưa Việt Nam từ một xã hội
trẻ trở thành một xã hội già hóa. Sự biến đổi
dân số này gây ra những hậu quả lớn, đòi hỏi
phải có những hành động chính sách và sự
thay đổi hành vi trong xã hội để giúp giảm
nhẹ hậu quả.
Về cơ cấu giới tính, mặc dù Pháp lệnh
Dân số đã quy định rõ các hành vi lựa chọn
giới tính thai nhi bị nghiêm cấm, bao gồm:
tuyên truyền, phổ biến phương pháp tạo giới
tính thai nhi dưới mọi hình thức; chẩn đoán
để lựa chọn giới tính thai nhi; loại bỏ thai
nhi vì lý do lựa chọn giới tính. Tuy nhiên,
sự quan tâm đến giới tính của đứa con tương
lai và tình trạng vi phạm Điều 9 Nghị định
114/2006/NĐ-CP về lựa chọn giới tính thai
nhi là rất phổ biến và có xu hướng ngày càng
tăng cao.
Bởi vậy, mất cân bằng giới tính khi
sinh tại Việt Nam có xu hướng ngày càng
nghiêm trọng. Số liệu thống kê 6 tháng đầu
năm 2016 cho thấy, tỷ lệ giới tính khi sinh
của nước ta đã ở mức khá cao, với 113,4
bé trai/100 bé gái, với khu vực thành thị là
116,8 bé trai/100 bé gái, cao hơn nhiều so
với khu vực nông thôn là 110,4 bé trai/100
bé gái13.
2.3 Chất lượng dân số
Trong những năm qua, chất lượng
11 Minh Hải, Việt Nam: Dân số chuyển từ vàng sang già, Báo điện tử VnMedia.vn, ngày 14/1/2016.
12 Nguồn: Việt Nam đang có tốc độ già hóa dân số rất nhanh, website của Bộ LĐTBXH ngày 29/3/2016.
13 Phát biểu tổng kết chiến dịch truyền thông giảm thiểu cân bằng giới tính khi sinh năm 2016 của ông Nguyễn Văn Tân,
Phó Tổng cục trưởng phụ trách Tổng cục DS-KHHGĐ, Hà Nội, ngày 23/11/2016.
14 Thế Kha, Phát triển con người của Việt Nam đang chậm dần và tụt hậu, báo Dân trí ngày 15/2/2016.
15 Mai Thùy, Sàng lọc trước sinh và sơ sinh để có những đứa con khỏe mạnh, Báo Gia đình và xã hội, 25/6/2017.
dân số nước ta đã từng bước được nâng lên,
tuy còn nhiều hạn chế. Chỉ số phát triển
con người (HDI) có tăng lên, nhưng là một
mức tăng chậm. Số liệu 2015 cho thấy, chỉ
số HDI của Việt Nam là 0,666, đứng vị trí
138/188 quốc gia, thuộc tốp dưới của nhóm
nước có HDI trung bình trên thế giới, “chậm
dần và tụt hậu” so với nhiều nước có cùng
trình độ phát triển14.
Nhà nước đã có một số đề án, chương
trình cụ thể nhằm nâng cao chất lượng dân
số như: đề án can thiệp, giảm thiểu mất cân
bằng giới tính khi sinh; đề án nâng cao chất
lượng dân số ở các vùng biển, đảo, ven biển;
đề án nâng cao chất lượng dân số thông qua
tuyên truyền, vận động, phát hiện, can thiệp
sớm tật, bệnh ở thai nhi và sơ sinh; tư vấn và
khám sức khỏe tiền hôn nhân
Việc tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn
nhân còn gặp nhiều khó khăn. Những người
mắc bệnh di truyền, người thường xuyên
tiếp xúc với hóa chất độc hại và các bệnh lây
nhiễm được vận động đi kiểm tra sức khỏe
trước khi có ý định sinh con nhưng tỷ lệ
còn thấp.
Đề án sàng lọc trước sinh và sơ sinh
đã được triển khai, tuy nhiên, quá trình thực
hiện còn gặp nhiều khó khăn, kết quả đạt
được còn hạn chế. Mỗi năm, Việt Nam có
khoảng 1,4 triệu trẻ em được sinh ra, trong
đó, chỉ có khoảng 30% được sàng lọc chẩn
đoán trước sinh và sơ sinh15.
Vẫn còn tình trạng tảo hôn, hôn nhân
cận huyết thống dẫn đến suy giảm chất
lượng dân số. Tỷ lệ phụ nữ trẻ từ 15 - 19 tuổi
kết hôn hoặc sống chung là 10,3% vào năm
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
43Số 22(350) T11/2017
2014. Một số địa phương có tỷ lệ tảo hôn
hơn 50%. Trong số các địa bàn dân tộc thiểu
số, người Mông có tỷ lệ tảo hôn cao nhất là
33%, tiếp theo là người Thái 23%16.
2.4 Phân bố dân số
Một trong những tư tưởng quan trọng
của Pháp lệnh Dân số năm 2003 là “hạn chế
động lực di dân ra đô thị” và “hạn chế tập
trung đông dân cư vào một số đô thị lớn”17.
Tuy nhiên, số liệu thống kê cho thấy, dân
số đông nhất vẫn là các đô thị. TP. Hồ Chí
Minh là đô thị có dân số đông nhất với
8,1463 triệu người (chiếm gần 9% dân số cả
nước) và Hà Nội là thành phố đông dân thứ hai
với dân số 7,216 triệu người (xấp xỉ 8% dân số
cả nước)18. Như vậy, các quy định về phân bố
dân số của Pháp lệnh Dân số chưa thực sự
phát huy hiệu quả.
Phân bố dân số giữa các vùng, địa
phương vẫn chịu ảnh hưởng của quá trình
lịch sử và mang tính tự nhiên: 19/63 tỉnh có
mật độ dân số rất cao (từ 500 người/km2 trở
lên), Bắc Ninh 1.404 người/km2, Thái Bình
1.139 người/km2, Vĩnh Long cũng có mật
độ 687 người/km2. Trong khi đó, 9/63 tỉnh
có mật độ dân số rất thấp (dưới 100 người/
km2), Lai Châu chỉ có 47 người/km2, Kon
Tum chỉ có 51 người/km2. 19
Di cư nội địa có vai trò quan trọng tới
biến động dân số. Số liệu 2015 cho biết, có
đến 13,6% dân số cả nước là người di cư. Có
đến 19,7% dân số khu vực thành thị là người
di cư, trong khi ở nông thôn thì con số này
16 Trích phát biểu của bà Astrid Bant, Trưởng đại diện UNFPA tại Hội thảo quốc gia về tảo hôn, 25/10/2016.
17 Khoản 1 Điều 17 và khoản 1 Điều 18 Pháp lệnh Dân số.
18 Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 2015, Nxb. Thống kê, Hà Nội, 2016, tr. 85-86.
19 Tổng cục Thống kê, nguồn đã dẫn, tr. 85-86.
20 Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số LHQ, “Điều tra di cư nội địa quốc gia 2015: Các kết quả chủ yếu”, Hà Nội, tháng
12/2016, tr. 1.
21 Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số LHQ, nguồn đã dẫn, tr. 1.
22 Nguồn: Ấn phẩm "Migration and remittances factbook 2016" về di cư và kiều hối của các quốc gia trên thế giới của
Ngân hàng Thế giới xuất bản, 2016.
23 Điều 26 Pháp lệnh Dân số 2003.
là 13,4%20. Trong đó, vùng Đông Nam bộ là
nơi có tỷ lệ di cư cao nhất, chiếm 29,3%21.
Ngoài di cư trong nước, di cư quốc tế
cũng tăng lên đáng kể. Việt Nam nằm trong
top 10 quốc gia di cư ra nước ngoài nhiều
nhất khu vực Đông Á - Thái Bình Dương.
Theo số liệu của Tổ chức Di cư quốc tế
(IMO), trung bình mỗi năm có khoảng gần
100.000 người Việt di cư ra nước ngoài,
bao gồm cả số lượng lớn du học sinh. Có
2,67% công dân Việt Nam sinh sống tại
nước ngoài22.
Những đóng góp tích cực của di dân
đến tăng trưởng kinh tế và phát triển đất
nước là không thể phủ nhận. Tuy nhiên, tình
trạng di dân diễn ra với cường độ lớn và diễn
biến phức tạp, nhất là di dân từ nông thôn
vào đô thị, vào khu công nghiệp khá phổ
biến đã gây ảnh hưởng tới an ninh, trật tự,
an toàn xã hội, công tác quản lý nhà nước
về lao động, việc làm, an sinh xã hội, y tế...
2.5 Lồng ghép dân số trong phát triển
Việc lồng ghép các yếu tố dân số trong
quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển
kinh tế - xã hội đã được quy định tại Pháp
lệnh Dân số 200323. Tuy nhiên, việc lồng
ghép các biến dân số vào kế hoạch hóa phát
triển ở Việt Nam chỉ mới ở giai đoạn sơ
khai. Trong khi đó, quy mô, cơ cấu, phân bố
dân số biến đổi nhanh. Việc lồng ghép các
biến dân số vào hoạch định chính sách, lập
quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội chưa hiệu quả. Nguyên nhân chủ yếu là
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
44 Số 22(350) T11/2017
do chưa có các quy định của pháp luật để trở
thành quy trình bắt buộc đối với các ngành,
địa phương và cơ sở trong công tác kế hoạch
hóa và hoạch định chính sách. Thông tin, số
liệu về DS-KHHGĐ còn thiếu chính xác,
chưa đầy đủ, kịp thời và có sự khác biệt
lớn giữa các nguồn số liệu; việc xây dựng
công cụ đăng ký dân số và hệ cơ sở dữ liệu
quốc gia về dân cư dùng chung chưa được
triển khai.
2.6 Thực hiện công tác dân số
Thực hiện Pháp lệnh Dân số, công tác
dân số đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể,
tuy nhiên vẫn còn một số tồn tại nhất định.
Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
dân số thực hiện chưa thường xuyên, chưa
phổ biến sâu rộng tới mọi thành phần trong
xã hội, nhất là đến người dân ở vùng sâu,
vùng xa, vùng miền núi khó khăn.
Do tập trung vào mục tiêu giảm nhanh
mức sinh nên nội dung tuyên truyền, tư vấn
về dân số cũng thiên về DS-KHHGĐ, còn
một số vấn đề khác cũng rất quan trọng và
cấp thiết như cơ cấu dân số, chất lượng dân
số, phân bố dân số vẫn chưa được đề cập
hoặc quan tâm đúng mức.
Như vậy, sau 56 năm (1961-2017)
thực hiện pháp luật dân số nói chung và sau
14 năm (2003-2017) triển khai thực hiện
Pháp lệnh Dân số nói riêng, công tác dân
số đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng,
mức độ nhận biết và thực hành hành vi về
dân số của các nhóm đối tượng đã có sự
chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh
những kết quả đó, pháp luật dân số đã bộc lộ
những hạn chế, bất cập gây ảnh hưởng đến
việc thực hiện chính sách dân số, kế hoạch
hóa gia đình của Đảng, Nhà nước cũng như
chiến lược xây dựng đất nước trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật dân số
Thực tiễn thi hành pháp luật dân số
đòi hỏi phải hoàn thiện khuôn khổ pháp lý,
giải quyết những vấn đề mới phát sinh, nổi
cộm của công tác dân số hiện tại và đáp ứng
yêu cầu công tác dân số trong thời gian tới.
Trong giai đoạn hiện nay, hoàn thiện pháp
luật dân số, xây dựng Dự thảo Luật Dân số
cần đặt trọng tâm vào các vấn đề thực tiễn
sau đây:
3.1 Về quy mô dân số
Giải pháp hoàn thiện pháp luật dân số
là duy trì mức sinh thấp hợp lý, quy định
các biện pháp, chính sách phù hợp với thực
tế của mỗi địa phương. Không nên quy định
số con đối với mỗi cặp vợ chồng mà nên quy
định tạo sự chủ động cho các địa phương
để xây dựng và tổ chức thực hiện các biện
pháp, chính sách thích hợp (giảm sinh, duy
trì mức sinh thay thế hoặc khuyến sinh hợp
lý). Đồng thời, bảo đảm quyền sinh sản của
các cặp vợ chồng, cá nhân phù hợp với tinh
thần của các điều ước quốc tế.
Hoàn thiện pháp luật dân số trong giai
đoạn hiện nay cần quy định các biện pháp
làm giảm tỷ lệ phá thai và các biện pháp làm
giảm tình trạng vô sinh. Cụ thể: quy định
về các điều kiện phá thai an toàn; điều kiện,
trách nhiệm điều trị vô sinh của cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh; vai trò của Nhà nước đối
với công tác nghiên cứu, áp dụng công nghệ
điều trị vô sinh
3.2 Cơ cấu dân số
Mất cân bằng giới tính khi sinh là một
vấn đề cấp thiết và nan giải trong công tác
dân số nước ta. Bởi vậy, Dự thảo Luật Dân
số cần phải quy định những hình thức xử
phạt thực sự có hiệu quả để răn đe mọi hành
vi tuyên truyền, hướng dẫn lựa chọn và xác
định giới tính thai nhi dưới mọi hình thức,
đặc biệt là các ấn phẩm với nội dung hướng
dẫn sinh con trai hay con gái theo ý muốn,
phương pháp siêu âm chẩn đoán giới tính
thai nhi, phá thai lựa chọn giới tính; quy
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
45Số 22(350) T11/2017
định các chính sách an sinh xã hội để thích
ứng với xã hội già hóa dân số và xã hội dân
số già.
Thích ứng và chuẩn bị cho một xã
hội già hóa dân số là nhu cầu khách quan,
đòi hỏi phải được thể chế trong pháp luật
dân số. Tuy nhiên, cần có sự phân định rõ
rệt với những quy định của Luật Người cao
tuổi năm 2009. Việc xây dựng và hoàn thiện
pháp luật dân số nhằm đối phó với xu hướng
già hóa dân số, để có thể tận dụng tốt nhất
các yếu tố cơ hội và hạn chế các tác động
tiêu cực của hiện tượng già hóa dân số.
3.3 Chất lượng dân số
Thực tiễn cho thấy, Việt Nam hiện nay
không chỉ đứng trước nguy cơ bùng nổ dân
số trở lại mà đang còn phải đối mặt với nhiều
thách thức trong việc nâng cao chất lượng
dân số, khi vẫn tồn tại sự khác biệt dân số
giữa các vùng miền, trong việc chăm sóc
sức khỏe sinh sản phụ nữ, giải quyết vấn đề
đói nghèo và việc làm, hiện tượng tảo hôn ở
đồng bào các dân tộc, phòng chống HIV,
Dự thảo Luật Dân số cần bao hàm quy
định về những vấn đề liên quan đến chất
lượng dân số; quy định về các giải pháp xây
dựng và mở rộng các dịch vụ chăm sóc sức
khỏe gia đình và phúc lợi xã hội; kiểm soát
tỷ lệ giới tính khi sinh; hỗ trợ cá nhân, gia
đình có các vấn đề về bệnh di truyền; nâng
cao phúc lợi xã hội; đảm bảo các dịch vụ xã
hội cơ bản cho người di cư; quy định về chế
độ hỗ trợ khám sức khỏe tiền hôn nhân đối
với các trường hợp có nguy cơ cao; quy định
về các nội dung mới liên quan đến việc nâng
cao chất lượng dân số, bao gồm: độ tuổi của
người mang thai và số lượng thai trong quá
trình thụ tinh nhân tạo; cơ chế để quản lý
chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng tinh
trùng và ngân hàng tế bào gốc; về mang thai
hộ; về cơ quan có trách nhiệm tư vấn sức
khỏe người cao tuổi và chính sách hỗ trợ xây
dựng các trung tâm tư vấn sức khỏe người
cao tuổi; nâng cao chất lượng dân số về mặt
trí tuệ và tinh thần cho các đối tượng dân cư.
3.4 Phân bố dân số
Sự phân bố dân cư chưa hợp lý ảnh
hưởng rất lớn đến việc sử dụng lao động và
khai thác tài nguyên thiên nhiên. Vì vậy, việc
phân bố lại dân cư và lao động trên phạm vi
cả nước là rất cần thiết.
Dự thảo Luật Dân số cần định hướng
cho việc xây dựng chính sách chuyển cư phù
hợp để thúc đẩy sự phân bố dân cư, lao động
giữa các vùng; quy định việc xây dựng quy
hoạch và chính sách thích hợp nhằm đáp
ứng xu thế chuyển dịch cơ cấu dân số nông
thôn và thành thị. Pháp luật dân số là cơ sở
pháp lý cho việc thực hiện chính sách phân
bố dân số hợp lý hơn, góp phần vào sự phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước. Trong đó,
các quy định về phân bố dân số hợp lý cần
được xây dựng phù hợp với các quan điểm,
chủ trương của Đảng và Nhà nước và thống
nhất với các quy định của Luật Cư trú năm
2013 và các đạo luật có liên quan.
Hoàn thiện pháp luật dân số nhằm quy
định các giải pháp đúng đắn cho vấn đề điều
chỉnh phân bố dân số quốc gia, thích ứng với
quá trình đô thị hóa, ổn định từng bước cuộc
sống của người dân di cư là yêu cầu quan
trọng trong bối cảnh hiện nay.
3.5 Lồng ghép vấn đề dân số trong
phát triển kinh tế - xã hội
Lồng ghép vấn đề dân số trong phát
triển nhằm đương đầu với những thách thức
liên quan tới dân số và phát triển, đan xen
cùng với những vấn đề về nghèo đói và
bất bình đẳng. Bởi vậy, yêu cầu đặt ra là
xây dựng pháp luật dân số điều chỉnh việc
thực hiện thống nhất từ trung ương đến địa
phương và sự tham gia của các tổ chức, đoàn
thể phù hợp với từng vùng miền và phù hợp
với cam kết của Chính phủ trong việc thực
(Xem tiếp trang 64)
BAÂN VÏÌ DÛÅ AÁN LUÊÅT
46 Số 22(350) T11/2017
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_dan_so_lich_su_thuc_tien_thi_hanh_va_kien_nghi_hoa.pdf