Thời điểm xác lập tư cách cổ đông trong
trường hợp cổ đông là cá nhân chết
Về thời điểm xác lập tư cách cổ đông
trong các trường hợp chuyển nhượng cổ
phần, theo khoản 7 Điều 126 LDN 2014:
“Người nhận cổ phần trong các trường hợp
quy định tại Điều này chỉ trở thành cổ đông
công ty từ thời điểm các thông tin của họ
quy định tại khoản 2 Điều 121 của Luật này
được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông”.
Thời điểm thông tin của người nhận chuyển
nhượng được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ
đông là thời điểm làm phát sinh tư cách cổ
đông cho người nhận chuyển nhượng.
Trong khi đó, theo quy định của khoản
3 Điều 126 LDN 2014, “trường hợp cổ đông
là cá nhân chết thì người thừa kế theo di
chúc hoặc theo pháp luật của cổ đông đó là
cổ đông của công ty”, người thừa kế đương
nhiên trở thành cổ đông của công ty từ khi
cổ đông là cá nhân chết. Tuy nhiên, quy định
này lại mâu thuẫn với khoản 7 Điều 126
LDN 2014, bởi theo quy định của khoản 7
Điều 126 LDN 2014, thời điểm thông tin
của người thừa kế được ghi nhận đầy đủ vào
sổ đăng ký cổ đông thì họ mới có tư cách
cổ đông. Nếu phải đợi đến khi thông tin của
người thừa kế được ghi đầy đủ vào sổ đăng
ký cổ đông thì tồn tại một khoảng thời gian
nhất định mà người thừa kế chưa trở thành
cổ đông công ty, khi này, quyền và nghĩa vụ
của họ đối với lượng cổ phần thừa kế của
mình được xử lý như thế nào thì chưa được
pháp luật làm rõ. Như vậy, quy định của
LDN 2014 có sự chồng chéo trong việc xác
định thời điểm xác lập tư cách cổ đông công
ty cổ phần của người thừa kế cổ phần.
Theo quy định của khoản 1 Điều 611
Bộ luật Dân sự năm 2015, thời điểm mở thừa
kế là thời điểm người có tài sản chết, và theo
Điều 614 của Bộ luật thì kể từ thời điểm mở
thừa kế, những người thừa kế có các quyền,
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Do
đó, kể từ khi người có tài sản chết thì di sản
thừa kế được dịch chuyển sang cho người
thừa kế, và người thừa kế tiếp tục kế thừa
các quyền và nghĩa vụ đối với tài sản nhận
được. Dựa theo tinh thần này, chúng tôi kiến
nghị ghi nhận khoản 3 Điều 126 LDN 2014
như là một trường hợp ngoại lệ của Khoản
7 Điều 126 LDN 2014, qua đó nhằm nhanh
chóng xác lập tư cách cổ đông cho người
thừa kế và cũng là cách để có người kế thừa
quyền, nghĩa vụ cho số cổ phần thừa kế.
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 234 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật hợp đồng Việt Nam nhìn ở góc độ so sánh với luật cộng hoà Pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHÁP LUẬT HỢP ĐỒNG VIỆT NAM
NHÌN Ở GÓC ĐỘ SO SÁNH VỚI LUẬT CỘNG HOÀ PHÁP
Tóm tắt:
Thời gian áp dụng Bộ luật Dân sự năm 2015 trong thực tiễn là chưa
đủ để có thể nhìn nhận và phân tích những ưu điểm cũng như những
hạn chế trong các quy định. Do vậy, việc phân tích, so sánh pháp luật
Việt Nam với pháp luật Pháp - một hệ thống pháp luật khá tiên tiến
và nhiều tương đồng, để có cách hiểu cũng như cách giải thích phù
hợp với thực tiễn, là một việc cần thiết, để từ đó chúng ta có cơ sở
cho những đề xuất nhằm làm hoàn thiện hơn nữa các quy định của
pháp luật hiện hành.
Đoàn Thị Phương Diệp*
** TS. Khoa Luật, Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh
Abstract
The enforcement duration of the Civil Code of 2015 in practice is
long not enough for comprehensive perceptions and analysis of
the advantages and shortcoming of its provisions. Therefore, it is
necessary to seek analysis and comparison of Vietnamese law with
the French one - an advanced law system that is considered as a
similar one to Vietnamese law in order to see an understanding as
well as an practical appropriateness, from which it may establish a
solid ground for recommendations of further improvements to the
provisions of the current law.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: luật hợp đồng, hợp đồng vô
hiệu
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 21/05/2019
Biên tập : 28/06/2019
Duyệt bài : 05/07/2019
Article Infomation:
Keywords: contract law, invalid
contract
Article History:
Received : 21 May 2019
Edited : 28 Jun./2019
Approved : 05 Jul./2019
1. Những thay đổi của pháp luật
hợp đồng ở Việt Nam trong bối cảnh áp
dụng Bộ luật Dân sự năm 2015
Sự thống nhất trong các quy định về
hợp đồng ở Việt Nam hiện nay. Chế định
“hợp đồng dân sự” quy định trong Bộ luật
Dân sự (BLDS) năm 1995 được BLDS năm
2005 thay bằng “Hợp đồng” và được BLDS
năm 2015 quy định chung trong phần thứ
ba về “Nghĩa vụ và hợp đồng”. Sự thay đổi
tên gọi trong này hàm ý rằng, BLDS năm
2015 sẽ là văn bản xác lập nguyên tắc chung
về hợp đồng, các quy định của Luật Thương
mại năm 2005 hay Luật Kinh doanh bất
động sản, Luật Kinh doanh bảo hiểm. sẽ
điều chỉnh các hợp đồng chuyên biệt cho
từng lĩnh vực. Điều này bảo đảm tính thống
nhất trong các quy định của hợp đồng trong
các lĩnh vực khác nhau.
Vấn đề về giao kết hợp đồng. BLDS
năm 2015 bổ sung hai điểm mới có vai trò
như điểm nhấn làm nên sự sinh động trong
các quy định của BLDS 2015, đó là quy
định về đề nghị giao kết hợp đồng “Đề nghị
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
56 Số 11(387) T6/2019
giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định
giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về
đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã
được xác định hoặc tới công chúng (sau đây
gọi chung là bên được đề nghị)”1 và quy
định về thông tin trong giao kết hợp đồng
theo quy định tại Điều 387 BLDS.
Điểm mới thứ nhất liên quan đến đề
nghị giao kết hợp đồng. Khoản 1 Điều 386
BLDS 2015 quy định: “Đề nghị giao kết
hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết
hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị
này của bên đề nghị đối với bên đã được
xác định hoặc tới công chúng (sau đây gọi
chung là bên được đề nghị)”. Với quy định
này, BLDS 2015 đã xác định cụ thể chủ thể
được đề nghị giao kết hợp đồng. Các chủ
thể này gồm “bên đã được xác định” hoặc
“công chúng”. Quy định này cho thấy, pháp
luật chấp nhận đề nghị cho hai chủ thể, một
chủ thể cụ thể được xác định trong đề nghị
và chủ thể thứ hai là bất kỳ người nào chấp
nhận đề nghị với một đề nghị được đưa ra
cho đại chúng. Quy định này của pháp luật
Việt Nam hoàn toàn tương đồng với Điều
1114 Lệnh số 2016-131 của Cộng hoà Pháp
về sửa đổi pháp luật hợp đồng về chủ thể
được đề nghị giao kết hợp đồng: “Đề xuất
giao kết hợp đồng được đưa ra cho một chủ
thể cụ thể hoặc không xác định bao gồm các
yếu tố cơ bản của hợp đồng được dự kiến,
thể hiện ý chí của tác giả và bị ràng buộc
trong trường hợp đề nghị được chấp nhận.
Nếu thiếu vắng các yếu tố cơ bản này thì xem
như chỉ có lời mời tham gia đàm phán”2. Tuy
nhiên, chúng tôi cho rằng, nội dung của đề
nghị giao kết hợp đồng chưa phù hợp với
yêu cầu của thực tiễn, bởi vì, BLDS vẫn cho
phép, trong một số trường hợp, tình trạng im
lặng được xem là chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng3 và “hợp đồng được giao kết vào
thời điểm bên đề nghị nhận được chấp nhận
giao kết” (khoản 1 Điều 400 BLDS 2015) sẽ
làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên.
1 Khoản 1 Điều 386 BLDS năm 2015
2 Ordonnance 2016-31 ngày 10/2/2016 sửa đổi bổ sung pháp luật hợp đồng Cộng hoà Pháp
3 Khoản 2 Điều 399 BLDS 2015 “Sự im lặng của bên được đề nghị không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng, trừ trường hợp có thỏa thuận hoặc theo thói quen đã được xác lập giữa các bên”.
Quy định chưa phân biệt giữa đề nghị giao
kết hợp đồng và đề nghị đàm phán hợp đồng.
Điểm mới thứ hai liên quan đến thông
tin trong giao kết hợp đồng. Theo quy định
của khoản 1 Điều 387 BLDS 2015, “trường
hợp một bên có thông tin ảnh hưởng đến việc
chấp nhận giao kết hợp đồng của bên kia thì
phải thông báo cho bên kia biết” và các bên
chịu tránh nhiệm giữ bí mật thông tin cho
nhau. Quy định này tạo ra một nghĩa vụ “tiền
hợp đồng” giữa các bên, nghĩa vụ này đi liền
ngay sau đó là chế tài về bồi thường thiệt hại
với tư cách là một loại trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo chúng tôi, quy
định này không có ý nghĩa nhiều trong thực
tiễn áp dụng luật. Bởi lẽ, ngay cả khi không
có quy định này, giả định rằng một bên biết về
những thông tin có ảnh hưởng quan trọng đến
việc giao kết hợp đồng nhưng không báo cho
bên kia, sau khi hợp đồng được giao kết mới
phát hiện ra những thông tin này thì tuỳ thuộc
vào trường hợp xảy ra trong thực tiễn hành
động không cung cấp thông tin có thể được
được xem là lừa dối hoặc gây ra một sự nhầm
lẫn cho việc giao kết hợp đồng. Khi đó, bên
bị lừa hoặc nhầm có thể yêu cầu toà án tuyên
bố vô hiệu hợp đồng cùng với việc yêu cầu
bồi thường thiệt hại, nếu có. Như vậy, không
cần đến quy định tại Điều 387 BLDS 2015
thì nghĩa vụ này cũng đã đặt ra giữa các bên
trong đề nghị giao kết hợp đồng với tư cách
là một nghĩa vụ phải ngay thẳng và trung thực
trong vấn đề đề nghị và giao kết hợp đồng.
Vấn đề thực hiện và chấm dứt hợp
đồng. BLDS 2015 bổ sung hai quy định có
ý nghĩa dưới tác động của pháp luật quốc tế.
Thứ nhất, quy định về thực hiện hợp
đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản (Điều
420 BLDS 2015). Theo quy định này, trong
trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản, bên
có lợi ích bị ảnh hưởng có quyền yêu cầu bên
kia đàm phán lại hợp đồng trong một thời
hạn hợp lý, trường hợp các bên không thể
thỏa thuận được về việc sửa đổi hợp đồng
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
57Số 11(387) T6/2019
trong một thời hạn hợp lý, một trong các bên
có thể yêu cầu Tòa án cho phép chấm dứt
hợp đồng tại một thời điểm xác định hoặc
sửa đổi hợp đồng để cân bằng quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên do hoàn cảnh thay
đổi cơ bản. Quy định này giúp “bảo vệ tốt
hơn quyền và lợi ích của bên yếu thế trong
quan hệ hợp đồng, cân bằng quyền và lợi ích
khi có sự chênh lệch quá mức, loại bỏ bất
công, bảo đảm lẽ công bằng trong xã hội”4.
BLDS cũng xác định rõ hoàn cảnh thay đổi
cơ bản khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Sự thay đổi hoàn cảnh do nguyên
nhân khách quan xảy ra sau khi giao kết hợp
đồng;
b) Tại thời điểm giao kết hợp đồng,
các bên không thể lường trước được về sự
thay đổi hoàn cảnh;
c) Hoàn cảnh thay đổi lớn đến mức
nếu như các bên biết trước thì hợp đồng đã
không được giao kết hoặc được giao kết
nhưng với nội dung hoàn toàn khác;
d) Việc tiếp tục thực hiện hợp đồng mà
không có sự thay đổi nội dung hợp đồng sẽ
gây thiệt hại nghiêm trọng cho một bên;
đ) Bên có lợi ích bị ảnh hưởng đã áp
dụng mọi biện pháp cần thiết trong khả năng
cho phép, phù hợp với tính chất của hợp
đồng mà không thể ngăn chặn, giảm thiểu
mức độ ảnh hưởng đến lợi ích”.
Điều 1195 BLDS Cộng hoà Pháp có
quy định khá tương đồng “Trong trường hợp
có sự thay đổi không lường trước được tại
thời điểm ký kết hợp đồng khiến cho việc
thực hiện quá tốn kém cho một bên mà bên
này không đồng ý chấp nhận rủi ro đó, thì
bên đó có thể yêu cầu đàm phán lại hợp
đồng. Hợp đồng tiếp tục được thực hiện
trong quá trình đàm phán lại.
Trong trường hợp từ chối đàm phán lại
hoặc đàm phán không thành công, các bên
có thể thoả thuận về chấm dứt hợp đồng, vào
ngày và theo các điều kiện mà họ xác định,
4 Nguyễn Văn Huy, Mối liên hệ giữa thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản với giao dịch bảo đảm, Tạp chí
Dân chủ và Pháp luật, số tháng 3/2016
5 Ngô Thu Trang - Nguyễn Thế Đức Tâm, Thực hiện hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi cơ bản, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật, số 1(345) năm 2017, tr. 60-67
hoặc yêu cầu thẩm phán đồng ý với sự điều
chỉnh này của họ. Trong trường hợp không có
thỏa thuận trong một thời gian hợp lý, thẩm
phán có thể, theo yêu cầu của một bên, sửa
đổi hợp đồng hoặc chấm dứt hợp đồng vào
thời điểm và với các điều kiện đã sửa đổi”.
Trên cơ sở so sánh với Điều 420
BLDS Việt Nam 2015 nêu trên, có thể thấy
quy định của luật Việt Nam khá cụ thể và
chặt chẽ trong việc giải thích rõ các điều
kiện cho phép không tiếp tục thực hiện
(chấm dứt) hợp đồng khi hoàn cảnh thay đổi
cơ bản. Chúng tôi cho rằng, tinh thần của
điều luật hoàn toàn phù hợp với thực tiễn
tại Việt Nam trong bối cảnh áp dụng nguyên
tắc về tôn trọng quyền tự định đoạt của các
bên vì suy cho cùng, hợp đồng là kết quả
của sự thoả thuận tự nguyện và rằng các bên
phải chịu trách nhiệm với các quyết định
của mình khi tham gia vào hợp đồng. Với
nhìn nhận như vậy, có thể thấy pháp luật hợp
đồng Việt Nam một mặt thừa nhận thông lệ
quốc tế trong lĩnh vực này5, mặt khác giữ lại
những nét riêng cần có phù hợp với bối cảnh
pháp lý của Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, về bồi thường thiệt hại do
vi phạm hợp đồng (Điều 419 BLDS 2015).
BLDS 2015 tiếp tục kế thừa quy định của
BLDS 2005 về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại cả về vật chất và tinh thần trong
trường hợp có hành vi vi phạm hợp đồng.
Điều này có nghĩa là, việc bồi thường thiệt
hại tính mạng, sức khoẻ tiếp tục không đặt
ra trong khuôn khổ trách nhiệm dân sự do vi
phạm hợp đồng. Bên cạnh đó, BLDS 2015
khẳng định rằng, “trường hợp có thiệt hại
do vi phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa
vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có
quy định khác” (Điều 360 BLDS 2015) và
“bên có quyền phải áp dụng các biện pháp
cần thiết, hợp lý để thiệt hại không xảy ra
hoặc hạn chế thiệt hại cho mình” (Điều 362
BLDS 2015).
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
58 Số 11(387) T6/2019
Về chấm dứt hợp đồng, không có sự
thay đổi đáng kể trong quy định của BLDS
2015 so với BLDS 2005. Sự thay đổi duy
nhất ở trường hợp về chấm dứt hợp đồng
trong trường hợp hoàn cảnh thay đổi cơ bản.
Theo chúng tôi, quy định này là chưa đầy
đủ cho tất cả các trường hợp chấm dứt hợp
đồng, cần bổ sung vào Điều 422 BLDS 2015
trường hợp chấm dứt hợp đồng do nguyên
nhân bị tuyên bố vô hiệu. Trong khoa học
pháp lý có nhiều quan điểm khác nhau liên
quan đến vô hiệu, vô hiệu là trường hợp
chấm dứt hợp đồng thông thường và vô hiệu
là trường hợp triệt tiêu hợp đồng6.
2. Tuyên bố vô hiệu hợp đồng
Vô hiệu hợp đồng là thuật ngữ pháp
lý được sử dụng khá phổ biến trong pháp
luật các quốc gia trên thế giới7. Do vậy, việc
nghiên cứu mang tính so sánh chế định này
trong luật Việt Nam và pháp luật các quốc
gia khác là sự cần thiết trong bối cảnh hội
nhập kinh tế quốc tế với sự cần thiết phải
xây dựng một số các chuẩn mực pháp lý
tiệm cận.
Theo quy định của pháp luật Việt
Nam, vô hiệu hợp đồng được xác định trên
cơ sở kết hợp hai chế định, chế định về giao
dịch dân sự và chế định hợp đồng. Theo quy
định của khoản 1 Điều 407 BLDS 2015,
“quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ
Điều 123 đến Điều 133 của Bộ luật này cũng
được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu”.
Bên cạnh đó chế định hợp đồng còn xác
định một số các trường hợp đặc thù của vô
hiệu hợp đồng.
2.1 Vô hiệu hợp đồng trên cơ sở vô
hiệu giao dịch dân sự
Theo quy định tại Điều 122 BLDS
năm 2015 “Giao dịch dân sự không có một
trong các điều kiện được quy định tại Điều
117 của Bộ luật này thì vô hiệu, trừ trường
6 Nhà pháp luật Việt-Pháp, Các thuật ngữ hợp đồng thông dụng, Nxb. Từ điển Bách khoa, 2011, tr. 572 “Vô hiệu và huỷ
hợp đồng cho phép bao quanh hai đặc tính lớn của lý do triệt tiêu hợp đồng”.
7 Nhà pháp luật Việt-Pháp, tlđd, tr. 571
8 Patrick Canin- Maitre de Conférences à L’Université Grenoble 2, Droit civil- Les obligations, 6e édition, Hachette
supérieur, Trang 58
9 Nguyên văn của quy định tại Điều 1128 BLDS Pháp “Sont nécessaires à la validité d'un contrat : 1° Le consentement
des parties ; 2° Leur capacité de contracter ; 3° Un contenu licite et certain”.
hợp Bộ luật này có quy định khác”. Về các
điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân
sự, Điều 117 BLDS 2015 quy định:
“1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có
đủ các điều kiện sau đây:
a) Chủ thể có năng lực pháp luật dân
sự, năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao
dịch dân sự được xác lập;
b) Chủ thể tham gia giao dịch dân sự
hoàn toàn tự nguyện;
c) Mục đích và nội dung của giao dịch
dân sự không vi phạm điều cấm của luật,
không trái đạo đức xã hội.
2. Hình thức của giao dịch dân sự là
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
trong trường hợp luật có quy định”.
Quy định này về tổng thể có thể nói là
khá tương đồng với cách hiểu và giải thích
về vô hiệu trong luật Cộng hoà Pháp. Trong
pháp luật Cộng hoà Pháp, vô hiệu hợp đồng
được xem là một chế tài áp dụng cho trường
hợp có các vi phạm về giao kết hợp đồng8,
chế tài này được xác lập một cách khác biệt
so với chế tài áp dụng trong trường hợp vi
phạm hợp đồng. Theo quy định của Điều
1128 BLDS Cộng hoà Pháp, có ba điều kiện
cần phải đáp ứng để hợp đồng có hiệu lực:
- Sự ưng thuận của các bên giao kết
hợp đồng
- Năng lực của các bên giao kết hợp
đồng
- Nội dung của hợp đồng hợp pháp và
cụ thể9
Như vậy, có thể thấy rằng, ở góc độ
tổng thể, pháp luật Cộng hoà Pháp không
xem hình thức của hợp đồng là một điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng. Tuy nhiên,
thực tiễn cũng ghi nhận hai trường hợp
ngoài lệ mà theo đó nếu không tuân thủ hình
thức nhất định thì hiệu lực pháp lý của hợp
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
59Số 11(387) T6/2019
đồng sẽ “có vấn đề”. Trường hợp thứ nhất
là, các hợp đồng sẽ bị tuyên bố vô hiệu nếu
không được xác lập bằng văn bản có công
chứng (hợp đồng hôn nhân hay hợp đồng thế
chấp)10. Trường hợp thứ hai là, các hợp
đồng được xếp vào nhóm hợp đồng thực
tế (hay hợp đồng thực tại - theo một số tác
giả)11, loại hợp đồng này yêu cầu phải có
sự chuyển giao đối tượng thì mới phát sinh
hiệu lực, đây cũng là một yêu cầu về hình
thức cần tuân thủ12. Trong khi đó, luật hợp
đồng Úc chia các trường hợp vô hiệu thành
hai nhóm: vô hiệu theo quy định của pháp
luật (bị cấm bởi pháp luật) và vô hiệu do vi
phạm các quy định cấm của thông lệ. Cả hai
trường hợp này đều không cho phép tuyên
bố vô hiệu hợp đồng do vi phạm điều kiện
về hình thức13.
Về điều kiện về hình thức, khoản 2
Điều 117 BLDS quy định: “Hình thức của
giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của
giao dịch dân sự trong trường hợp luật có
quy định”. Có hai cách giải thích đối với quy
định này: thứ nhất, chỉ khi nào pháp luật có
quy định, ví dụ như “hợp đồng có hiệu lực
khi được công chứng, chứng thực”, trong
trường hợp này nếu không công chứng,
chứng thực thì xem như vi phạm điều kiện
về hình thức; thứ hai, chỉ cần có quy định
“hợp đồng phải được xác lập bằng văn bản”
hoặc “hình thức của hợp đồng là văn bản có
công chứng, chứng thực” nếu các bên không
xác lập bằng văn bản hay không công chứng,
chứng thực thì xem như đã vi phạm điều kiện
có hiệu lực về hình thức của hợp đồng. Quy
định này của BLDS 2015 đã thu hẹp phạm vi
các trường hợp tuyên bố vô hiệu do vi phạm
điều kiện về hình thức. Có thể chứng minh
cho xu hướng này qua hai minh chứng: thứ
nhất, các yêu cầu về hình thức mang tính bắt
10 Điều 1394 BLDS Cộng hoà Pháp quy định “Toutes les conventions matrimoniales seront rédigées par acte devant
notaire, en la présence et avec le consentement simultanés de toutes les personnes qui y sont parties ou de leurs man-
dataires” , nghĩa là các thoả thuận về quan hệ tài sản giữa vợ chồng phải xác lập bằng văn bản trước công chứng viên.
11 Contrat réel
12 Điều 1919 BLDS Cộng hoà Pháp về hợp đồng gửi giữ (contrat de dépôt), theo quy định này thì hợp đồng gửi giữ có
hiệu lực khi có sự chuyển giao thực tế đối tượng của hợp đồng (trừ trường hợp việc chuyển giao là “giả định” nếu đối
tượng của hợp đồng đã được cầm cố)
13 Daniel Khoury, Yvonne Yamouni, Understanding Contract law, 8th edition, LexisNexis Butterworths- Australia, 2010,
trang 364 và về sau.
buộc đã không còn nhiều trong BLDS 2015,
trong số các hợp đồng thông dụng được quy
định chỉ còn hợp đồng tặng cho tài sản, hợp
đồng hợp tác, hợp đồng mua bán tài sản là
bất động sản... là bắt buộc phải xác lập bằng
văn bản hoặc bằng văn bản có công chứng,
chứng thực; thứ hai, theo quy định tại Điều
129 BLDS 2015 “Giao dịch dân sự vi phạm
quy định điều kiện có hiệu lực về hình thức
thì vô hiệu, trừ trường hợp sau đây:
1. Giao dịch dân sự đã được xác lập
theo quy định phải bằng văn bản nhưng văn
bản không đúng quy định của luật mà một
bên hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai
phần ba nghĩa vụ trong giao dịch thì theo
yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án
ra quyết định công nhận hiệu lực của giao
dịch đó;
2. Giao dịch dân sự đã được xác lập
bằng văn bản nhưng vi phạm quy định bắt
buộc về công chứng, chứng thực mà một bên
hoặc các bên đã thực hiện ít nhất hai phần ba
nghĩa vụ trong giao dịch thì theo yêu cầu của
một bên hoặc các bên, Tòa án ra quyết định
công nhận hiệu lực của giao dịch đó. Trong
trường hợp này, các bên không phải thực
hiện việc công chứng, chứng thực”.
Như vậy, quy định này một lần nữa
hạn chế việc tuyên bố giao dịch dân sự vô
hiệu do vi phạm điều kiện về hình thức. Từ
các minh chứng trên, chúng tôi cho rằng,
quy định hình thức của giao dịch dân sự là
điều kiện có hiệu lực của giao dịch được
áp dụng trong trường hợp pháp luật có quy
định, nghĩa là chỉ khi nào pháp luật có quy
định rõ ràng rằng “giao dịch dân sự có hiệu
lực khi được công chứng, chứng thực” hay
tương tự “giao dịch dân sự có hiệu lực từ
thời điểm bên có nghĩa vụ chuyển giao
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
60 Số 11(387) T6/2019
đối tượng hợp đồng cho bên có quyền”
mà các bên không thực hiện yêu cầu công
chứng, chứng thực, chuyển giao thì mới
có thể bị yêu cầu tuyên bố vô hiệu. Chúng
tôi cho rằng, cách giải thích này là phù hợp
trong bối cảnh thu hẹp các trường hợp áp
dụng để đi đến không tuyên bố vô hiệu khi
hợp đồng được xác lập vi phạm điều kiện về
hình thức. Vì suy cho cùng, sự tự nguyện và
thoả thuận của các bên trong hợp đồng mới
là điều quan trọng chứ không phải là hình
thức chuyển tải nó.
Các điều kiện về nội dung của giao
dịch dân sự14. Chúng tôi dùng từ điều kiện
về nội dung để đối lập với điều kiện về hình
thức. Thuật ngữ “nội dung” này được hiểu
theo nghĩa rộng của vấn đề, bao gồm điều
kiện về năng lực chủ thể, về sự tự nguyện
và điều kiện về mục đích cũng như nội dung
của giao dịch dân sự.
Điều kiện về năng lực chủ thể. Theo
quy định tại khoản 1 điểm a Điều 117 BLDS
2015 “Chủ thể có năng lực pháp luật dân sự,
năng lực hành vi dân sự phù hợp với giao
dịch dân sự được xác lập”. Quy định này
được áp dụng kết hợp với Điều 21, 22, 23, 24
BLDS 2015 cho phép xác định trường hợp
nào giao dịch dân sự phải do người có đầy
đủ năng lực chủ thể xác lập, trường hợp nào
giao dịch dân sự có thể do người chưa thành
niên hay người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự xác lập. Cũng giống như BLDS Việt
Nam, luật dân sự Cộng hoà Pháp cũng đặt
ra yêu cầu về năng lực chủ thể (bao gồm
năng lực pháp luật - capacité de jouissance
và năng lực hành vi - capacité d’exercice)15
khi giao kết hợp đồng. Về vấn đề năng lực
chủ thể trong giao kết hợp đồng, BLDS Việt
Nam hoàn toàn không đề cập đến chủ thể
là pháp nhân, đây là một sự thiếu sót cần
thiết phải hoàn thiện16. Về vấn đề này có thể
học hỏi kinh nghiệm tại Điều 1145 BLDS
Cộng hoà Pháp “Năng lực chủ thể của pháp
14 Thuật ngữ này cũng được sử dụng trong Giáo trình Luật Dân sự 1, Đại học Cần Thơ - TS. Nguyễn Ngọc Điện, 2007.
15 Patrick Canin, tlđd, tr. 49
16 Điều 86 BLDS 2015 có quy định về năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân, tuy nhiên chỉ đơn giản là một định nghĩa
chứ không phải là quy định về năng lực giao kết hợp đồng.
17 Daniel Khoury, Yvonne Yamouni, tlđd, tr. 363
nhân bị giới hạn trong khuôn khổ các hành
vi cần thiết phải thực hiện để hoàn tất mục
đích hoạt động của pháp nhân theo quy định
của pháp luật và các hành vi bổ sung cho
cho các mục đích này, phù hợp với các quy
tắc áp dụng cho từng pháp nhân”. Theo cách
quy định này, pháp nhân chỉ được giao kết
hợp đồng trong khuôn khổ phục vụ cho các
hoạt động của pháp nhân (đã xác định bởi
điều lệ, quyết định thành lập hoặc theo quy
định của pháp luật). Nếu xác lập các hợp
đồng ngoài giới hạn này được xem như vi
phạm điều kiện về năng lực chủ thể. Theo
quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay,
pháp nhân được phép giao kết tất cả các hợp
đồng mà chủ thể này muốn. Sự sửa đổi này
là thực sự là cần thiết trong nhu cầu xác định
có hay không có việc xác lập hợp đồng trong
tình trạng vi phạm điều kiện về năng lực chủ
thể đối với pháp nhân.
Điều kiện về sự tự nguyện. Trong pháp
luật về hợp đồng ở các quốc gia trên thế giới,
vấn đề vô hiệu hợp đồng có thể chia thành
hai trường phái. Trường phái thứ nhất xem
vô hiệu hợp đồng là sự triệt tiêu hợp đồng do
sự cần thiết phải bảo vệ lợi ích công, luật của
Úc là một điển hình, các trường hợp vô hiệu
đều do nguyên nhân là gây thiệt hại cho các
lợi ích công cộng17. Thứ hai là trường phái
chấp nhận việc tuyên bố vô hiệu hợp đồng
là điều cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích công
cũng như lợi ích của các bên có liên quan
(đây là quan điểm được chấp nhận trong
luật Việt Nam, Pháp và các nước Châu Âu).
Về sự phân chia này có thể hình dung được
nếu việc giao kết hợp đồng thiếu vắng sự
tự nguyện thì hợp đồng có thể bị tuyên bố
vô hiệu theo quy định của Điều 1131 BLDS
Cộng hoà Pháp “Các tì vết của sự ưng thuận
là các nguyên nhân làm vô hiệu hợp đồng
một cách tương đối”. Điều 1130 BLDS Pháp
cũng xác định “nhầm lẫn, lừa dối và cưỡng
ép là các tì vết của sự tự nguyện nếu như
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
61Số 11(387) T6/2019
trong điều kiện không có các yếu tố này một
bên sẽ không giao kết hợp đồng hoặc giao
kết hợp đồng với những điều kiện hoàn toàn
khác biệt”. Như vậy, với hai quy định này,
luật dân sự Pháp khẳng định một cách rõ
ràng rằng có 3 trường hợp được xem là vi
phạm sự tự nguyện đó là nhầm lẫn, lừa dối
và cưỡng ép. Trong khi đó, khoản 1 Điều
117 BLDS Việt Nam 2015 quy định: “Chủ
thể tham gia giao dịch dân sự hoàn toàn tự
nguyện”. Tiếp theo sau quy định này có các
quy định từ Điều 123 BLDS đến 129 BLDS
liệt kê các trường hợp tuyên bố vô hiệu.
Tuy nhiên, BLDS và các văn bản hướng
dẫn thi hành không xác định như thế nào là
vi phạm sự tự nguyện và có những trường
hợp vi phạm sự tự nguyện nào. Tình trạng
này dẫn đến trên thực tế, có các cách giải
hiểu khác nhau về các trường hợp vi phạm
sự tự nguyện (vices du consentement trong
luật Cộng hoà Pháp). Có ý kiến cho rằng, vi
phạm điều kiện về sự tự nguyện bao gồm
các trường hợp xác lập giao dịch bởi người
bị mất năng lực hành vi dân sự, xác lập hợp
đồng có yếu tố nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa18.
Trong khi đó, ý kiến khác lại khẳng định,
những trường hợp vi phạm sự tự nguyện khi
giao kết hợp đồng bao gồm ký kết hợp đồng
một cách giả tạo, hợp đồng được xác lập có
sự nhầm lẫn, lừa dối, đe doạ, việc xác lập
hợp đồng trong lúc không nhận thức, điều
khiển được hành vi19. Sự khác biệt về quan
điểm này xuất phát từ thực tế BLDS không
xác định rõ ràng sự tự nguyện trong giao kết
hợp đồng được hiểu như thế nào hay chí ít
là những trường hợp nào được xác định là
vi phạm sự tự nguyện. Thực tế này dẫn đến
tình trạng chưa có sự tương đồng thật sự
giữa Điều 117 khoản 1 BLDS 2015 với các
18 Nguyễn Ngọc Điện, Giáo trình Luật Dân sự 1- Trường Đại học Cần Thơ, 2007, tr. 7, 8
19 Đỗ Văn Đại (chủ biên), Giáo trình pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức, 2013,
tr. 156-158.
20 Đỗ Văn Đại (chủ biên), tlđd, tr. 152
21 Ví dụ cụ thể là trường hợp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có tranh chấp, theo quy định tại Điều 188 khoản
2 Luật Đất đai 2014 quy định một trong các điều kiện để chuyển nhượng quyền sử dụng đất là “đất không có tranh
chấp”. Tuy nhiên Luật đất đai không nói rằng nếu vi phạm điều kiện này thì hợp đồng sẽ bị tuyên bố vô hiệu. Do đó
trên thực tế khi quyền sử dụng đất là đối tượng của hợp đồng chuyển nhượng bị tranh chấp, các Toà án áp dụng luật dân
sự để tuyên bố vô hiệu, và có Toà án cho rằng hợp đồng này bị vô hiệu vì đã vi phạm điều cấm của pháp luật nhưng có
Toà án thì lại cho rằng vô hiệu do đối tượng của hợp đồng không thể thực hiện được.
trường hợp vô hiệu cụ thể ghi nhận từ Điều
123 đến Điều 129 BLDS 2015. Do vậy, theo
chúng tôi, để khoa học pháp lý rõ ràng hơn
và không có những tranh cãi không cần thiết
trong trường hợp này, cần có quy định cụ thể
xác định đâu là những trường hợp xác lập
hợp đồng vi phạm sự tự nguyện.
Mục đích và nội dung hợp đồng không
vi không vi phạm điều cấm của luật, không
trái đạo đức xã hội (Điều 117 khoản 1 điểm
c BLDS Việt Nam 2015). Đây là điều kiện
đặt ra để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác20. Quy định này của pháp luật
Việt Nam khá tương đồng với Điều 1162
BLDS Cộng hoà Pháp “các thoả thuận và
mục đích của hợp đồng không được xâm
phạm đến trật tự công cộng dù các bên
biết hoặc không biết về sự vi phạm này”.
Điều cấm của pháp luật được định nghĩa “là
những quy định của luật không cho phép chủ
thể thực hiện những hành vi nhất định”. Có
hai cách giải thích khác nhau về vấn đề này:
thứ nhất, chỉ vi phạm điều cấm của pháp luật
khi cụ thể có quy định “cấm”; thứ hai, được
xem là vi phạm điều cấm tất cả các trường
hợp pháp luật yêu cầu chủ thể thực hiện một
công việc trong khuôn khổ một quy phạm
mệnh lệnh mà chủ thể lại không thực hiện.
Cũng có quan điểm cho rằng, chỉ xem là vi
phạm điều cấm của luật, trái đạo đức xã hội
khi hành vi vi phạm tác động đến các lợi ích
công, lợi ích của nhà nước. Các quan điểm
khá đa dạng này dẫn đến thực tiễn xét xử
trong nhiều trường hợp là không thống nhất
với nhau21.
Về vấn đề này, pháp luật Cộng hoà
Pháp cho phép có sự can thiệp của án lệ
trong việc giải thích quy định tại Điều 1162
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
62 Số 11(387) T6/2019
nêu trên bằng cách công nhận có hai trường
hợp được xem là vi phạm: thứ nhất, có sự
thoả thuận rõ ràng của các bên về việc xâm
phạm trật tự công; thứ hai, mặc dù các bên
không có thoả thuận nhưng mục đích đạt đến
của hợp đồng lại gây hại đến lợi ích này22.
Chúng tôi cho rằng, quy định của pháp
luật Việt Nam về vấn đề nêu trên là hoàn
toàn phù hợp. Tuy nhiên, cần có sự giải thích
rõ ràng thông qua án lệ để việc áp dụng quy
định vào thực tiễn được thống nhất.
2.2 Vô hiệu hợp đồng do có đối tượng
không thể thực hiện được
Theo quy định tại khoản 1 Điều 408
BLDS 2015 “Trường hợp ngay từ khi giao
kết, hợp đồng có đối tượng không thể thực
hiện được thì hợp đồng này bị vô hiệu”. Quy
định này được đặt ra trong chế định về hợp
đồng chứ không nằm trong các quy định về
điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
nói chung (Điều 117). Điều này có nghĩa là,
nó chỉ được áp dụng đối với việc tuyên bố
hợp đồng vô hiệu chứ không được áp dụng
đối với các loại giao dịch dân sự khác (hành
vi pháp lý đơn phương, giao dịch dân sự
có điều kiện). Đây không phải là quy định
mới của BLDS 2015, tuy nhiên từ thời điểm
được đưa vào và áp dụng từ BLDS 2005 đến
nay quy định này chưa được giải thích kể cả
bằng án lệ. Thực tiễn có xu hướng chấp nhận
rằng đối tượng không thể thực hiện được
của hợp đồng là những hành động không
thể thực hiện được do các nguyên nhân khác
quan (bao gồm cả sự kiện bất khả kháng),
chẳng hạn như hợp đồng mua bán một căn
nhà mà chẳng may căn nhà ấy bị cháy trước
khi chuyển quyền sở hữu, hay hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà đột
ngột phát sinh quy hoạch dẫn đến quyền sử
dụng đất là không thể chuyển nhượng được.
Điều 1163 BLDS Cộng hoà Pháp quy
định: “Nghĩa vụ phải vì một đối tượng hiện
tại hoặc tương lai. Đối tượng này phải có thể
thực hiện được, xác định được hoặc có thể
22 Cass. Civ. 1ère, 3 février 1999, JCP 1999, II, 10083, note M. Billiau et G. Loiseau.
Cass. civ. 1ère, 29 octobre 2014, n° 13-19729.
23 Patrick Canin, tlđd, tr. 51-54
xác định được”. Quy định này cho phép xác
định nếu hợp đồng được giao kết vi phạm
quy định này sẽ bị tuyên bố vô hiệu theo quy
định tại Điều 1178 “Hợp đồng nếu không
thoả mãn các điều kiện về hiệu lực thì sẽ vô
hiệu”. Pháp thừa nhận ba yêu cầu liên quan
đến đối tượng của hợp đồng: thứ nhất, đối
tượng của hợp đồng phải xác định được (về
giá cả, số lượng, chất lượng...); thứ hai, đối
tượng của hợp đồng có thể thực hiện được,
yêu cầu này đặt ra trong bối cảnh pháp luật
chấp nhận đối tượng của hợp đồng có thể
là tài sản hình thành trong tương lai (Điều
1163); thứ ba, đối tượng của hợp đồng phải
hợp pháp23. Tất cả các điều kiện liên quan
đến đối tượng của hợp đồng đặt ra trong
khuôn khổ điều kiện liên quan đến nội dung
của hợp đồng.
Chúng tôi cho rằng, về vấn đề nêu
trên, quy định của pháp luật Việt Nam là đầy
đủ và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
của Việt Nam. Vấn đề vô hiệu hợp đồng liên
quan đến đối tượng của hợp đồng phải tuỳ
từng trường hợp mà áp dụng Điều 408 hoặc
Điều 117 BLDS 2015. Ví dụ, nếu đối tượng
của hợp đồng là hoàn toàn hợp pháp nhưng
vì lý do khách quan nào đó không thể thực
hiện được thì áp dụng Điều 408 đề tuyên bố
vô hiệu. Nhưng nếu đối tượng của hợp đồng
liên quan đến các hành vi bị cấm (hàng cấm
hoặc hành vi bị cấm thực hiện...) thì hợp
đồng sẽ bị tuyên bố vô hiệu trên cơ sở kết
hợp Điều 117 và Điều 123 BLDS 2015. Sự
áp dụng kết hợp các điều luật cho phép một
sự đánh giá khá toàn vẹn vấn đề liên quan
đến lĩnh vực này.
2.3 Về hậu quả pháp lý của việc tuyên
bố hợp đồng vô hiệu
Điểm giống nhau của hầu hết các hệ
thống pháp luật các quốc gia Châu Âu và
Việt Nam là vấn đề liên quan đến giá trị pháp
lý của hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu. Khi
hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu thì xem như
hợp đồng đó không phát sinh giá trị pháp lý
ngay từ khi xác lập (Điều 1178 BLDS Cộng
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
63Số 11(387) T6/2019
hoà Pháp và khoản 1 Điều 131 BLDS 2015).
Chính vì xem như giao dịch dân sự
chưa hề được xác lập (không phát sinh giá
trị pháp lý) nên hậu quả kéo theo tuyên bố
vô hiệu là phải khôi phục lại tình trạng ban
đầu như trước khi xác lập giao dịch bằng
cách các bên phải hoàn trả cho nhau những
gì đã nhận (khoản 2 Điều 131 BLDS 2015
và Điều 1178 BLDS Cộng hoà Pháp).
Sự khác nhau cơ bản giữa các quy
định của BLDS Việt Nam và Cộng hoà Pháp
24 Vộ hiệu tuyệt đối - la nullité absolue và vô hiệu tương đối - la nullité relative được quy định tại Điều 1179 BLDS Cộng
hoà Pháp.
nằm ở quy định về vô hiệu tuyệt đối hoặc vô
hiệu tương đối. Nếu vô hiệu tuyệt đối hoặc
tương đối chỉ tồn tại ở khía cạnh khoa học
pháp lý ở Việt Nam thì nó được ghi nhận
rõ ràng trong BLDS Cộng hoà Pháp cùng
với những hậu quả pháp lý khá cụ thể cho
từng trường hợp vô hiệu này24. Thực tiễn ở
Việt Nam cũng tồn tại cách phân loại này,
tuy nhiên theo chúng tôi, điều này hoàn toàn
không có ý nghĩa gì khi thiếu vắng cơ sở
pháp lý cho việc vận dụng
(Tiếp theo trang 40)
CHUYỂN NHƯỢNG CỔ PHẦN THEO ...
NĐ-CP đã quy định, thay vào đó, LDN 2014
cần yêu cầu DNXH phải nêu rõ mục tiêu
hoạt động của mình trong Điều lệ công ty.
3. Thời điểm xác lập tư cách cổ đông trong
trường hợp cổ đông là cá nhân chết
Về thời điểm xác lập tư cách cổ đông
trong các trường hợp chuyển nhượng cổ
phần, theo khoản 7 Điều 126 LDN 2014:
“Người nhận cổ phần trong các trường hợp
quy định tại Điều này chỉ trở thành cổ đông
công ty từ thời điểm các thông tin của họ
quy định tại khoản 2 Điều 121 của Luật này
được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ đông”.
Thời điểm thông tin của người nhận chuyển
nhượng được ghi đầy đủ vào sổ đăng ký cổ
đông là thời điểm làm phát sinh tư cách cổ
đông cho người nhận chuyển nhượng.
Trong khi đó, theo quy định của khoản
3 Điều 126 LDN 2014, “trường hợp cổ đông
là cá nhân chết thì người thừa kế theo di
chúc hoặc theo pháp luật của cổ đông đó là
cổ đông của công ty”, người thừa kế đương
nhiên trở thành cổ đông của công ty từ khi
cổ đông là cá nhân chết. Tuy nhiên, quy định
này lại mâu thuẫn với khoản 7 Điều 126
LDN 2014, bởi theo quy định của khoản 7
Điều 126 LDN 2014, thời điểm thông tin
của người thừa kế được ghi nhận đầy đủ vào
sổ đăng ký cổ đông thì họ mới có tư cách
cổ đông. Nếu phải đợi đến khi thông tin của
người thừa kế được ghi đầy đủ vào sổ đăng
ký cổ đông thì tồn tại một khoảng thời gian
nhất định mà người thừa kế chưa trở thành
cổ đông công ty, khi này, quyền và nghĩa vụ
của họ đối với lượng cổ phần thừa kế của
mình được xử lý như thế nào thì chưa được
pháp luật làm rõ. Như vậy, quy định của
LDN 2014 có sự chồng chéo trong việc xác
định thời điểm xác lập tư cách cổ đông công
ty cổ phần của người thừa kế cổ phần.
Theo quy định của khoản 1 Điều 611
Bộ luật Dân sự năm 2015, thời điểm mở thừa
kế là thời điểm người có tài sản chết, và theo
Điều 614 của Bộ luật thì kể từ thời điểm mở
thừa kế, những người thừa kế có các quyền,
nghĩa vụ tài sản do người chết để lại. Do
đó, kể từ khi người có tài sản chết thì di sản
thừa kế được dịch chuyển sang cho người
thừa kế, và người thừa kế tiếp tục kế thừa
các quyền và nghĩa vụ đối với tài sản nhận
được. Dựa theo tinh thần này, chúng tôi kiến
nghị ghi nhận khoản 3 Điều 126 LDN 2014
như là một trường hợp ngoại lệ của Khoản
7 Điều 126 LDN 2014, qua đó nhằm nhanh
chóng xác lập tư cách cổ đông cho người
thừa kế và cũng là cách để có người kế thừa
quyền, nghĩa vụ cho số cổ phần thừa kế.
KINH NGHIÏåM QUÖËC TÏË
64 Số 11(387) T6/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_hop_dong_viet_nam_nhin_o_goc_do_so_sanh_voi_luat_c.pdf