Ba là, cần quy định đầy đủ nội dung chế độ
pháp lý biên giới quốc gia trên biển trong một
văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ
ban hành
Chế độ pháp lý BGQGTB cần bổ sung các
nguyên tắc và chính sách quản lý, bảo vệ
BGQGTB; phạm vi không gian quản lý, bảo vệ
BGQGTB của từng chủ thể, như Bộ đội Biên
phòng, Cảnh sát biển, Hải quân và cơ chế phối
hợp quản lý, bảo vệ BGQGTB trên từng không
gian cụ thể, nhất là trên biển và ở các vùng biển,
đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam nhằm tạo ra
sự phân công, phân nhiệm rõ ràng trong tổ chức
quản lý, bảo vệ BGQGTB, đồng thời, bảo đảm
sự phối hợp, hiệp đồng tốt, tránh chồng chéo, cản
trở lẫn nhau. Vấn đề cơ cấu tổ chức, chế độ,
chính sách đối với từng chủ thể nên tách ra thành
văn bản riêng.
Nguyên tắc quản lý, bảo vệ BGQGTB cần
ghi nhận những tư tưởng chủ đạo làm cơ sở cho
việc thực hiện quản lý, bảo vệ BGQGTB trong
mọi tình huống. Các chính sách quản lý, bảo vệ
BGQGTB phải hướng đến mục tiêu phát huy sức
mạnh toàn xã hội, của chính quyền và nhân dân
vùng biển, đảo, đặc biệt là ngư dân; phát huy vai
trò của các lực lượng thực thi pháp luật trên biển,
nhất là Bộ đội Biên phòng - lực lượng chủ trì,
phối hợp với các cơ quan nhà nước, các lực
lượng vũ trang nhân dân khác thực hiện quản lý,
bảo vệ BGQGTB.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật về biên giới quốc gia trên biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Thực trạng và kiến nghị hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
71
PHÁP LUẬT VỀ BIÊN GIỚI QUỐC GIA TRÊN BIỂN CỦA NƯỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM - THỰC TRẠNG
VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
Trần Minh Nguyệt1
Tóm tắt: Việt Nam là một quốc gia biển, có vùng biển rộng, bờ biển dài cùng hàng nghìn hòn
đảo lớn nhỏ gần và xa bờ, việc xác định và quản lý biên giới quốc gia trên biển còn gặp nhiều khó
khăn do các quy định của pháp luật về biên giới quốc gia trên biển còn chưa hoàn thiện. Vì vậy, trong
phạm vi bài viết này, tác giả xin trao đổi những nét cơ bản về thực trạng quy định của pháp luật đối
với biên giới quốc gia trên biển của Nhà nước ta nhằm góp phần nâng cao nhận thức về biên giới
quốc gia trên biển và hoàn thiện các quy định pháp luật về biên giới quốc gia trên biển trong thời
gian tới.
Từ khóa: biên giới quốc gia trên biển, khu vực biên giới biển, đường cơ sở, lãnh hải.
Nhận bài: 19/02/2018; Hoàn thành biên tập:21/03/2018; Duyệt đăng: 02/04/2018
Abstract: Vietnam is a sea nation with large seas, long coastlines and thousands of large and
small islands, the identification and management of the nation sea borders gets difficulties because
the provisions of the law on the national sea borders have not been perfect. Therefore, within the
scope of this article, I would like to discuss the basics of reality of law provisions on the national sea
borders in order to contribute to heighten awareness of the national sea borders and improve the
legal provisions on the national sea borders in the coming time.
Key words: the national sea borders, sea border regions, baselines, territorial waters.
Date of receipt: 19/02/2018; Date of revision: 21/03/2018; Date of approval: 02/04/2018
Biển và hải đảo là bộ phận lãnh thổ thiêng
liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn của biết
bao thế hệ người Việt Nam nhưng cũng là nơi
“hiểm yếu” kẻ thù dễ bề xâm nhập. Lịch sử dân
tộc Việt Nam đã ghi nhận 10/14 cuộc tiến công
của kẻ thù dùng đường biển để xâm lược nước
ta. Trong kháng chiến chống Mỹ, đường Hồ Chí
Minh trên biển với những con tàu không số đã
chuyển vào chiến trường miền Nam lực lượng và
vũ khí để góp phần làm nên chiến thắng lịch sử
mùa xuân năm 1975. Ngày nay, biển và hải đảo
là không gian kinh tế, chính trị, quốc phòng, an
ninh của cả nước nên việc quản lý, bảo vệ biên
giới quốc gia trên biển (BGQGTB) luôn là mối
quan tâm hàng đầu của Nhà nước ta. Tuy nhiên,
hoạt động quản lý, bảo vệ BGQGTB của các cơ
quan nhà nước, các lực lượng chức năng còn
nhiều mặt hạn chế mà một trong những nguyên
nhân cơ bản là do cơ sở pháp lý cho hoạt động
này còn chưa hoàn thiện. Vì vậy, trong phạm vi
bài viết này, tác giả xin trao đổi về những bất cập
và kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp
luật Việt Nam về BGQGTB hiện nay.
1. Khái quát thực trạng pháp luật về bảo
vệ biên giới quốc gia trên biển của nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Pháp luật về BGQGTB là một bộ phận của
pháp luật về biên giới quốc gia (BGQG), chuyên
điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá
trình xác định, quản lý, bảo vệ BGQGTB. Từ năm
1975 trở về trước, các quy định pháp luật quốc gia
về BGQGTB hầu như không phát triển ngoại trừ
việc thành lập lực lượng chuyên trách quản lý, bảo
vệ biên giới, bờ biển là lực lượng Công an nhân
dân vũ trang, nay là Bộ đội Biên phòng.
Sau Đại thắng mùa xuân năm 1975, nước nhà
giành độc lập, non sông thu về một mối. Thực hiện
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ngày nay ta
có ngày, có trời, có biển. Bờ biển của ta dài, tươi
đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó”2, Nhà nước ta đã
xúc tiến xây dựng các quy định pháp luật để bảo vệ
chủ quyền biển, đảo và BGQGTB của Tổ quốc.
1 Thạc sỹ, Giảng viên chính, Khoa Pháp luật - Học viện Biên phòng
2 Xem: Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh - Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng (2001), Quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác Biên phòng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.9.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
72
Văn bản pháp lý đầu tiên khẳng định chủ quyền
biển, đảo và là cơ sở pháp lý cho việc xác định
BGQGTB của Nhà nước ta là Tuyên bố ngày
12/5/1977 về lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam. Kể từ
đó đến nay, đã có nhiều văn bản pháp luật về biển,
đảo và BGQGTB được ban hành, tạo lập hành lang
pháp lý cho việc xác định, quản lý, bảo vệ
BGQGTB, như: Tuyên bố ngày 12/11/1982 về
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải Việt
Nam, Pháp lệnh Bộ đội Biên phòng năm 1997, Luật
BGQG năm 2003, Luật Biển Việt Nam năm
2012 Tuy nhiên, các quy định của pháp luật quốc
gia về BGQGTB trong các văn bản quy phạm pháp
luật hiện hành vẫn còn nhiều điểm bất cập, như:
Một là, chưa quy định rõ trường hợp, chủ thể
có thẩm quyền xác định biên giới quốc gia trên biển
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Về trường hợp xác định BGQGTB
Với tính chất “là đường vạch ra để phân định
vùng lãnh hải của quốc gia với vùng biển tiếp
liền mà quốc gia ven biển có quyền chủ quyền
hoặc với nội thủy, lãnh hải của quốc gia khác có
bờ biển đối diện hay kề bên”3, BGQGTB của
Việt Nam bao gồm BGQGTB của lục địa và
BGQGTB của các đảo, quần đảo. Tuy nhiên,
Nghị định số 140/2004/NĐ-CP ngày 26/6/2004
của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Luật BGQG mới chỉ quy định trường hợp
xác định BGQGTB ở những nơi lãnh hải, nội
thủy hoặc vùng nước lịch sử của Việt Nam tiếp
giáp với lãnh hải, nội thủy hoặc vùng nước lịch
sử của nước láng giềng. Việc xác định BGQGTB
không thuộc trường hợp này và BGQGTB của
các đảo, quần đảo chưa được quy định cụ thể.
Trên thực tế, Việt Nam phải hợp tác với Trung
Quốc và Campuchia để xác định (hoạch định)
BGQGTB, nhưng vấn đề này mới chỉ đạt được
một phần thông qua việc ký kết Hiệp định về phân
định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm
lục địa trong Vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và
Trung Quốc vào ngày 25/12/2000. Hiệp định đã
xác định rõ “biên giới lãnh hải” giữa Việt Nam và
Trung Quốc ở khu vực ngoài cửa sông Bắc Luân
là một đoạn nối liền 9 điểm có tọa độ cụ thể quy
định tại Điều II của Hiệp định. Tuy nhiên, từ điểm
số 9 đến cửa Vịnh vẫn chưa được xác định cụ thể.
Đảo và quần đảo thuộc chủ quyền của Việt
Nam là bộ phận không thể tách rời của lãnh thổ
Việt Nam. Chúng cũng có các vùng biển như lục
địa nên việc xác định BGQGTB của chúng là
đương nhiên, phù hợp với pháp luật quốc tế. Tuy
nhiên, cho đến nay, ngoài việc xác định về
nguyên tắc chúng cũng có BGQGTB, tức ranh
giới ngoài của lãnh hải, thì chưa có bất kỳ quy
định nào là cơ sở pháp lý cần thiết và vững chắc
cho việc xác định BGQGTB của đảo, quần đảo,
nhất là quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, trong
khi công tác quản lý các đảo trên thực tế còn
nhiều hạn chế.
- Về chủ thể có thẩm quyền xác định
BGQGTB
Lãnh thổ và BGQG là bộ phận quan trọng
nhất cấu thành chủ quyền quốc gia và chỉ có quốc
gia mới có quyền quyết định các vấn đề liên quan
đến chúng trên cơ sở ý chí của nhân dân. Nhà
nước là chủ thể đại diện cho quốc gia và Chính
phủ thường là cơ quan có quyền ký kết các điều
ước quốc tế để xác định biên giới biển. Tuy
nhiên, ở những nơi không chồng lấn với nội thủy,
lãnh hải của quốc gia láng giềng thì cơ quan nào
có thẩm quyền xác định BGQGTB lại là vấn đề
mà pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, có quyền quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước, trong đó có việc phê chuẩn, quyết
định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều
ước quốc tế liên quan đến chủ quyền quốc gia.
Trong lĩnh vực quốc phòng và an ninh, Ủy ban
quốc phòng và an ninh của Quốc hội thực hiện
thẩm tra các dự án luật, dự án pháp lệnh và giám
sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ
Quốc hội thuộc lĩnh vực quốc phòng và an ninh.
Chính phủ - cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện quản lý thống nhất các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Theo Luật tổ chức Chính phủ
năm 2015, Chính phủ có nhiệm vụ tổ chức thực
hiện các biện pháp để bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Nếu coi
3 Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội (2009), Giáo trình Luật quốc tế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, tr.172, 173.
Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
73
việc xác định BGQGTB là một biện pháp để bảo
vệ chủ quyền biển, đảo thì việc tổ chức thực hiện
biện pháp đó như thế nào vẫn là vấn đề còn để ngỏ
trong sự điều chỉnh của pháp luật.
Bộ Ngoại giao là cơ quan của Chính phủ thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về đối ngoại
với nhiều nội dung, trong đó có công tác biên
giới, lãnh thổ quốc gia. Đối với việc xác định
BGQGTB, Bộ Ngoại giao có trách nhiệm chủ trì,
phối hợp với các cơ quan có liên quan tham mưu
về việc xác định biên giới và phạm vi chủ quyền
quốc gia trên các vùng biển, hải đảo; xây dựng
phương án hoạch định biên giới.
Bộ Quốc phòng - cơ quan có chức năng quản
lý nhà nước về quốc phòng trong phạm vi cả
nước, có nhiệm vụ quản lý, bảo vệ biên giới,
vùng biển, đảo, quần đảo với các nội dung cụ thể,
nhưng ngoài nội dung chủ trì, phối hợp với các
cơ quan có liên quan để “quản lý nhà nước về
bảo vệ BGQG”, “quản lý, bảo vệ BGQG”, bảo
vệ chủ quyền trên các vùng biển, đảo, quần đảo,
không nội dung nào thể hiện trách nhiệm của Bộ
Quốc phòng trong xác định hay tham gia vào
việc xác định BGQGTB.
Như vậy, Bộ Ngoại giao là cơ quan có trách
nhiệm rõ ràng nhất trong việc xác định
BGQGTB, nhưng đó mới chỉ dừng lại ở việc
tham mưu xác định và xây dựng phương án
hoạch định BGQGTB. Những công việc tiếp
theo như thế nào, cơ quan nào thực hiện chưa
được quy định. Bên cạnh đó, cơ quan được giao
nhiệm vụ đánh dấu đường BGQGTB bằng các
tọa độ trên hải đồ sau khi nó được xác định cũng
chưa có quy định cụ thể.
Hai là, quy định về đường cơ sở dùng để tính
chiều rộng lãnh hải - căn cứ cho việc xác định
BGQGTB chưa đầy đủ
Đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải
(gọi tắt là đường cơ sở) là đường ranh giới phía
trong của lãnh hải và phía ngoài của nội thủy, do
quốc gia ven biển hay quốc gia quần đảo định ra
phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật
Biển năm 1982 để làm cơ sở xác định phạm vi các
vùng biển thuộc chủ quyền và quyền tài phán quốc
gia, cũng như xác định đường BGQGTB.
BGQGTB là đường song song với đường cơ
sở và cách đường cơ sở một khoảng cách vừa
bằng chiều rộng của lãnh hải. Vì vậy, để xác định
BGQGTB, cần phải xác định đường cơ sở dùng
để tính chiều rộng lãnh hải. Kể từ Tuyên bố ngày
12/11/1982 về đường cơ sở dùng để tính chiều
rộng lãnh hải của Việt Nam đến nay, ngoại trừ
cách diễn giải về đường cơ sở có sự thay đổi
trong các văn bản quy phạm pháp luật (Luật
BGQG, Luật Biển Việt Nam) thì quy định về
việc xác định đường cơ sở chưa đạt thêm một
bước tiến nào. Theo đó, nước ta có một đường
cơ sở không “khép kín”, chạy dọc theo bờ biển từ
tỉnh Kiên Giang đến tỉnh Bình Trị Thiên (nay là
tỉnh Quảng Trị) và dừng lại ở đó (hai điểm đầu và
cuối còn để ngỏ chưa xác định cụ thể do nằm ở
giữa vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia
hoặc nằm ở cửa Vịnh Bắc Bộ). Như vậy, tại các
khu vực biển: vịnh Bắc Bộ và vùng nước Việt
Nam - Campuchia chưa có đường cơ sở. Việc xác
định đường cơ sở của các đảo và quần đảo thuộc
chủ quyền của Việt Nam hay đang bị chiếm giữ
trái phép cũng chưa được xác định. Điều đó đồng
nghĩa với việc không có căn cứ để xác định
BGQGTB ở những nơi chưa có đường cơ sở.
Ba là, quy định về chế độ pháp lý biên giới
quốc gia trên biển còn chưa đầy đủ
Luật BGQG năm 2003 dành riêng Chương II
với 10 điều để quy định chế độ pháp lý BGQG,
khu vực biên giới nhưng không có sự tách biệt
rạch ròi giữa chế độ pháp lý BGQG với chế độ
pháp lý khu vực biên giới hay giữa chế độ pháp lý
của các loại BGQG với nhau. Điều này bắt nguồn
từ yêu cầu xác định không gian (vùng) cần thiết
cho việc triển khai các hoạt động quản lý của Nhà
nước đối với BGQG. Mọi hoạt động quản lý, bảo
vệ BGQGTB đều cơ bản được thực hiện trên
không gian từ vùng bờ ra đến các vùng biển thuộc
chủ quyền, quyền chủ quyền của quốc gia.
“Chế độ” là thuật ngữ được dùng “khi đề cập
đến một hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, thủ tục
và thể chế”4. Theo đó, chế độ pháp lý BGQGTB
là hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, thủ tục và
thể chế về BGQGTB do quốc gia ven biển đặt ra
nhằm khẳng định chủ quyền của quốc gia trên
4 Xem: Lê Minh Nghĩa (1996), Cơ sở khoa học của việc hoạch định và quản lý các vùng biển, thềm lục địa Việt Nam,
Đề tài khoa học cấp Bộ thuộc Chương trình Biển KT-03, Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Hà Nội, tr.43.
HOÏC VIEÄN TÖ PHAÙP
74
biển và tổ chức thực thi có hiệu quả hoạt động
quản lý, bảo vệ BGQGTB của Nhà nước.
Hiện nay, nội dung chế độ pháp lý BGQGTB
bao gồm các vấn đề cơ bản, như:
- Hệ thống quy tắc quản lý hoạt động của
người, phương tiện trong khu vực biên giới biển
và quản lý, bảo vệ an ninh, trật tự tại cửa khẩu
cảng biển;
- Tổ chức bộ máy, trách nhiệm quản lý, bảo
vệ BGQGTB, các chế độ, chính sách đối với chủ
thể thực hiện và tham gia thực hiện quản lý, bảo
vệ BGQGTB;
- Hành vi vi phạm, chế tài và thủ tục xử lý vi
phạm về quản lý, bảo vệ BGQGTB.
Tuy nhiên, trong mỗi vấn đề cơ bản này vẫn
tồn tại nhiều điểm chưa phù hợp, như: các quy
tắc quản lý hoạt động của người, phương tiện
trong khu vực biên giới biển được áp dụng chung
cho cả vùng bờ, nội thủy, lãnh hải; cơ chế phối
hợp, phân công nhiệm vụ giữa các cơ quan, các
lực lượng quản lý, bảo vệ BGQGTB chưa rõ
ràng; hành vi vi phạm pháp luật về quản lý, bảo
vệ BGQGTB chưa được quy định đầy đủ, chế tài
và thủ tục xử lý vi phạm pháp luật chưa phù hợp
với đặc thù địa bàn khu vực biên giới biển...
Thực tế hiện nay, các nội dung của chế độ pháp
lý BGQGTB đang được ghi nhận tại nhiều văn
bản quy phạm pháp luật khác nhau, chưa mang
tính hệ thống.
Pháp luật về BGQGTB là cơ sở pháp lý cho
hoạt động quản lý, bảo vệ BGQGTB của Nhà
nước ta. Vì vậy, sự thiếu hoàn thiện của chế định
pháp luật này có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt
động quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của
Nhà nước ta.
2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về biên
giới quốc gia trên biển
Luật BGQG năm 2003 là văn bản có hiệu lực
pháp lý cao nhất quy định về BGQG; chế độ
pháp lý BGQG; xây dựng, quản lý, bảo vệ
BGQG và khu vực biên giới. Qua gần 15 năm tổ
chức thực hiện, Luật BGQG và các văn bản có
liên quan đã bộc lộ những bất cập so với thực
tiễn, nhất là các quy định về BGQGTB. Vì vậy,
việc sửa đổi, bổ sung các quy định này cần được
thực hiện để đáp ứng yêu cầu quản lý, bảo vệ
BGQGTB trong bối cảnh nguy cơ xâm phạm chủ
quyền biển và hải đảo của Việt Nam đã và đang
hiện hữu. Cụ thể như sau:
Một là, quy định rõ trường hợp, chủ thể có
thẩm quyền xác định biên giới quốc gia trên biển
Các quy định của pháp luật cần xác định rõ
hai trường hợp xác định BGQGTB, đó là: Nhà
nước Việt Nam tự xác định BGQGTB phù hợp
với quy định của Công ước Luật biển năm 1982
và Việt Nam hợp tác với các nước láng giềng để
xác định biên giới biển (đường biên giới quốc tế).
Trường hợp thứ nhất được tiến hành ở nơi nội
thủy, lãnh hải, vùng nước lịch sử của Việt Nam
không tiếp giáp hoặc đối diện nội thủy, lãnh hải,
vùng nước lịch sử của nước láng giềng và đối với
các đảo, quần đảo của Việt Nam. Trường hợp thứ
hai đã được pháp luật quy định nhưng cần bổ
sung vai trò của các bằng chứng lịch sử, pháp lý
và thực tế trong đàm phán và ký kết điều ước
quốc tế nhằm bảo đảm lợi ích chính đáng của các
bên tham gia đàm phán và nhận được sự đồng
tình, ủng hộ của nhân dân.
Chủ thể có thẩm quyền xác định BGQGTB
phải là cơ quan được Quốc hội trao quyền quản
lý thống nhất các lĩnh vực của đời sống xã hội,
tức Chính phủ. Do việc xác định và quản lý, bảo
vệ BGQGTB liên quan đến hoạt động của nhiều
cơ quan của Chính phủ nên cần xác định vai trò
và trách nhiệm của từng cơ quan trong các vấn đề
cụ thể, như:
- Bộ Tài nguyên và Môi trường (trực tiếp là
Tổng cục Biển và hải đảo) là cơ quan chủ trì,
phối hợp với các cơ quan có liên quan nghiên
cứu, đánh giá và tham mưu cho Chính phủ về các
yếu tố tự nhiên (đặc trưng của địa hình ở khu vực
biên giới biển) có liên quan đến việc xác định
BGQGTB, nhất là địa hình bờ biển, thủy triều
của lục địa, các đảo ven bờ được lựa chọn làm
điểm cơ sở.
- Bộ Quốc phòng (trực tiếp là Bộ đội Biên
phòng, Hải quân, Cảnh sát biển) có trách nhiệm
chủ trì, phối hợp với các cơ quan có liên quan
nghiên cứu, đánh giá và tham mưu về yêu cầu
bảo đảm quốc phòng, an ninh trên biển để Chính
phủ lựa chọn và quyết định các vị trí điểm cơ sở,
cũng như xác định đường cơ sở.
- Bộ Ngoại giao tham mưu cho Chính phủ
xác định BGQGTB, xây dựng phương án hoạch
Soá 2/2018 - Naêm thöù Möôøi Ba
75
định BGQGTB và xúc tiến các hoạt động đàm
phán để ký kết điều ước quốc tế xác định biên
giới biển.
- Bộ Tư pháp có trách nhiệm chủ trì, phối hợp
với Bộ Ngoại giao và các cơ quan có liên quan
nghiên cứu, đánh giá và tham mưu cho Chính
phủ về bảo đảm tính pháp lý, trình tự, thủ tục của
việc xác định BGQGTB.
- Các bộ, ngành khác có liên quan thực hiện
tham mưu cho Chính phủ về các vấn đề liên quan
đến xác định BGQGTB phù hợp với chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Để việc phối hợp giữa các chủ thể được tiến
hành thuận lợi và hiệu quả, cần thành lập một Ủy
ban chuyên trách về xác định BGQGTB thuộc
Chính phủ. Ủy ban gồm các thành viên làm việc
kiêm nhiệm ở một số bộ, cơ quan ngang bộ mà
chức năng, nhiệm vụ có liên quan trực tiếp đến
việc xác định BGQGTB như Bộ Tài nguyên và
Môi trường, Bộ Ngoại giao, Bộ Quốc phòng và
Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố ven biển.
Thủ tướng Chính phủ trực tiếp lãnh đạo hoạt
động của Ủy ban. Sau khi kết thúc việc xác định
BGQGTB, Ủy ban được giải thể.
Hai là, khẩn trương soạn thảo và ban hành
Pháp lệnh về đường cơ sở
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc xác
định đường cơ sở đối với việc hoạch định biển
nói chung, xác định BGQGTB nói riêng, Nhà
nước ta đã có chủ trương xây dựng Pháp lệnh về
đường cơ sở, được thể hiện tại Nghị quyết của
Quốc hội khóa IX, kỳ họp thứ 8 về công tác xây
dựng pháp luật từ nay đến hết nhiệm kỳ Quốc hội
khóa IX (ngày 28/10/1995). Thời gian qua, do
nhiều nguyên nhân, trong đó có vấn đề về địa
hình khu vực biên giới biển phức tạp, các quần
đảo Hoàng Sa, Trường Sa còn đang bị tranh
chấp, nên việc xây dựng Pháp lệnh về đường cơ
sở biển đã không được xúc tiến.
Công cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền đối
với quần đảo Hoàng Sa và các đảo thuộc quần
đảo Trường Sa sẽ còn lâu dài và phức tạp. Vì vậy,
cần tích cực nghiên cứu xây dựng Pháp lệnh về
đường cơ sở với các quy định phù hợp với điều
kiện tự nhiên biển, đảo Việt Nam và Công ước về
Luật biển năm 1982. Trong đó, cần ưu tiên xây
dựng các quy định về đường cơ sở trong vịnh
Bắc Bộ, vùng nước lịch sử Việt Nam - Campuchia
và đường cơ sở của các đảo để làm căn cứ cho
việc phân định các vùng biển và đường
BGQGTB.
Ba là, cần quy định đầy đủ nội dung chế độ
pháp lý biên giới quốc gia trên biển trong một
văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ
ban hành
Chế độ pháp lý BGQGTB cần bổ sung các
nguyên tắc và chính sách quản lý, bảo vệ
BGQGTB; phạm vi không gian quản lý, bảo vệ
BGQGTB của từng chủ thể, như Bộ đội Biên
phòng, Cảnh sát biển, Hải quân và cơ chế phối
hợp quản lý, bảo vệ BGQGTB trên từng không
gian cụ thể, nhất là trên biển và ở các vùng biển,
đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam nhằm tạo ra
sự phân công, phân nhiệm rõ ràng trong tổ chức
quản lý, bảo vệ BGQGTB, đồng thời, bảo đảm
sự phối hợp, hiệp đồng tốt, tránh chồng chéo, cản
trở lẫn nhau. Vấn đề cơ cấu tổ chức, chế độ,
chính sách đối với từng chủ thể nên tách ra thành
văn bản riêng.
Nguyên tắc quản lý, bảo vệ BGQGTB cần
ghi nhận những tư tưởng chủ đạo làm cơ sở cho
việc thực hiện quản lý, bảo vệ BGQGTB trong
mọi tình huống. Các chính sách quản lý, bảo vệ
BGQGTB phải hướng đến mục tiêu phát huy sức
mạnh toàn xã hội, của chính quyền và nhân dân
vùng biển, đảo, đặc biệt là ngư dân; phát huy vai
trò của các lực lượng thực thi pháp luật trên biển,
nhất là Bộ đội Biên phòng - lực lượng chủ trì,
phối hợp với các cơ quan nhà nước, các lực
lượng vũ trang nhân dân khác thực hiện quản lý,
bảo vệ BGQGTB.
Các quy tắc quản lý hoạt động của người,
phương tiện trong khu vực biên giới biển cần
phân ra thành các nhóm: nhóm các quy tắc quản
lý chung và các quy tắc quản lý ở những khu vực
đặc thù, như: cửa khẩu cảng, trên các đảo, nội
thủy, lãnh hải. Trên cơ sở các quy tắc này, cần
xác định các hành vi bị cấm, hành vi vi phạm
pháp luật, chế tài, thủ tục và thẩm quyền xử lý vi
phạm, đặc biệt, cần quy định thủ tục xử lý vi
phạm; các biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử lý
vi phạm cho phù hợp với điều kiện thực thi pháp
luật trên biển của các lực lượng.
(Xem tiếp trang 86)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_ve_bien_gioi_quoc_gia_tren_bien_cua_nuoc_cong_hoa.pdf