Pháp luật về chế độ công vụ theo vị trí việc làm - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Tạo ra môi trường làm việc và cơ hội thăng tiến của công chức theo VTVL: Môi trường làm việc và cơ hội thăng tiến cũng là điều rất quan trọng đối với công chức theo VTVL. Môi trường làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước phải là nơi đáng sống của công chức - được lựa chọn từ những người có tài năng và tâm huyết, muốn cống hiến hết mình cho đất nước. Pháp luật về CĐCV theo VTVL cần sớm có các chính sách khen thưởng, tôn vinh người công chức Việt Nam trong thời kỳ mới. Đảm bảo tôn trọng quyền con người, tôn trọng người có đức, có tài: Pháp luật về CĐCV theo VTVL có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền con người, tôn trọng người có đức, có tài. Từ năm 1945, Bác Hồ đã nói “mọi quyền lực đều thuộc về Nhân dân”, có nghĩa là Nhân dân có quyền tham gia quyết định luật pháp, là cơ sở pháp lý của Nhà nước pháp quyền. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn có chính sách tôn trọng quyền con người, có chính sách, quy chế tôn vinh những người có đức, có tài, tâm huyết với công việc. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên sẽ giúp cho pháp luật về CĐCV theo VTVL ngày càng hoàn thiện, đáp ứng được nhu cầu và sự phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Pháp luật về công vụ theo VTVL là CĐCV còn mới đối với Việt Nam, vì vậy, cần phải vừa làm vừa rút ra bài học kinh nghiệm. Xu hướng triển khai thực hiện hiệu quả pháp luật về công vụ theo VTVL là phù hợp với nền hành chính hiện đại, phù hợp với pháp luật công vụ của các nước tiên tiến trên thế giới

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 218 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật về chế độ công vụ theo vị trí việc làm - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHAÁP LUÊÅT VÏÌ CHÏË ÀÖÅ CÖNG VUÅ THEO VÕ TRÑ VIÏåC LAÂM - MÖÅT SÖË VÊËN ÀÏÌ LYÁ LUÊÅN VAÂ THÛÅC TIÏÎN Trần Thị hải yến* Chế độ công vụ (CĐCV) là một trong những bộ phận cấu thành của nền hành chính nhà nước. Trên thế giới có hai mô hình về CĐCV: chế độ chức nghiệp (career-based systems) và chế độ theo vị trí việc làm - VTVL (position-based systems). Pháp luật về CĐCV ở nước ta đang chuyển dần từ chế độ theo chức nghiệp sang chế độ theo VTVL, nhằm xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, tuân thủ pháp luật và phục vụ lợi ích của nhân dân. Điều này đòi hỏi cần có những nghiên cứu phù hợp nhằm chỉ ra nội dung, tính chất của pháp luật về CĐCV, đánh giá được thực trạng pháp luật về công vụ, cả những ưu điểm, hạn chế và những giải pháp để hoàn thiện pháp luật về CĐCV. * NCS. Trường Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - Bộ Nội vụ. 54 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 16(320) T8/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 1. Quan niệm pháp luật về chế độ công vụ theo vị trí việc làm Để đảm bảo trật tự trong hoạt động công vụ, cần phải có sự điều chỉnh của pháp luật về CĐCV. CĐCV ở Việt Nam cũng như các quốc gia khác được điều chỉnh bằng nhiều văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) khác nhau. Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có hiệu lực pháp lý tối cao, là cơ sở hình thành pháp luật về CĐCV, trong đó quy định các nguyên tắc có tính chính trị - xã hội cốt yếu nhất của pháp luật về CĐCV. Khoản 2 Điều 8 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”. Luật Cán bộ, công chức (CBCC) năm 2008 là văn bản QPPL liên quan đến mọi mặt về CĐCV và là cơ sở để ban hành những văn bản dưới luật về CĐCV. Chẳng hạn như Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 của Chính phủ quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức; Nghị định 56/2015/NĐ-CP của Chính phủ ngày 55 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 16(320) T8/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT 09/6/2015 quy định về đánh giá, phân loại cán bộ, công chức, viên chức; Nghị định số 34/2011/NĐ-CP của Chính phủ ngày 17/05/2011 quy định về xử lý kỷ luật đối với công chức Những quan hệ phát sinh của pháp luật về CĐCV theo VTVL điều chỉnh thuộc loại quan hệ chính trị - xã hội. Đó là lĩnh vực quan hệ liên quan đến quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị, mang tính chính trị - pháp lý. Mỗi quốc gia, mỗi thời đại có những quan niệm, quy định pháp luật khác nhau về CĐCV. Phân tích nội dung các quy định của pháp luật về CĐCV, có thể phân chia các QPPL trong lĩnh vực này thành các nhóm cơ bản sau đây: - Nhóm QPPL quy định các nguyên tắc thực thi công vụ; - Nhóm QPPL quy định địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia quan hệ công vụ, bao gồm tất cả các QPPL xác định trình tự thành lập, bãi bỏ, xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước về quản lý công chức; - Nhóm quy phạm quy định trình tự, thủ tục để thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể thực thi công vụ; quyền nghĩa vụ của từng chức vụ công chức tương ứng với VTVL do công chức thực hiện; - Nhóm quy phạm liên quan đến chế độ tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, quản lý, đánh giá, tiền lương. - Nhóm quy phạm quy định các biện pháp thưởng, phạt, quy định trách nhiệm giải trình, trách nhiệm kỷ luật của công chức. Như vậy, pháp luật về CĐCV theo VTVL là hệ thống các QPPL điều chỉnh về các quan hệ công vụ theo VTVL, bao gồm: thiết lập các chức vụ công chức; tuyển dụng công chức theo VTVL, sử dụng công chức theo VTVL, quản lý công chức theo VTVL; khen thưởng, kỷ luật công chức theo VTVL; quyền và nghĩa vụ của các chủ thể thực thi công vụ; quyền nghĩa vụ của từng chức vụ công chức tương ứng với VTVL do công chức thực hiện và các vấn đề khác trong chính sách đối với công chức nhà nước, của các chủ thể được nhà nước trao quyền, nhân danh Nhà nước thực hiện các hoạt động mang tính quyền lực nhà nước nhằm phục vụ lợi ích nhân dân. 2. nội dung của pháp luật về chế độ công vụ theo vị trí việc làm Nội dung của pháp luật về CĐCV theo VTVL bao gồm các quy định về: tuyển dụng, sử dụng, quản lý công chức nhà nước, quyền và nghĩa vụ của công chức, trách nhiệm công vụ; chế độ đãi ngộ, những bảo đảm về chức vụ, khen thưởng, kỷ luật công chức theo VTVL, cụ thể như sau: Tuyển dụng công chức theo VTVL: Tuyển dụng là quá trình bổ sung những người đủ tiêu chuẩn, điều kiện vào đội ngũ công chức. Tuyển dụng được công chức phù hợp, đáp ứng được yêu cầu VTVL sẽ góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả của nền hành chính nhà nước. Pháp luật về tuyển dụng công chức quy định về căn cứ, nguyên tắc, hình thức, điều kiện, thủ tục tuyển dụng công chức nhằm đảm bảo tuyển được công chức vừa có tài và có đức, đáp ứng yêu cầu của VTVL. Quản lý công chức theo VTVL: Quy định cụ thể về sử dụng, sắp xếp, bố trí các VTVL cho công chức, điều động công chức; bổ nhiệm công chức giữ chức vụ lãnh đạo, luân chuyển công chức; biệt phái công chức; từ chức hoặc miễn nhiệm đối với công chức. Pháp luật về quản lý công chức theo VTVL cần quy định về nguyên tắc quản lý, nội dung và thẩm quyền quản lý công chức theo VTVL. Đào tạo, bồi dưỡng công chức theo VTVL: Pháp luật quy định về nội dung, hình thức, chế độ, thời gian, phương pháp nhằm xây dựng phát triển đội ngũ công chức chuyên nghiệp, mẫn cán gắn với yêu cầu VTVL. Đào tạo, bồi dưỡng công chức theo 56 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 16(320) T8/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT VTVL phải thiết kế từng chương trình, từng nhóm VTVL. Đánh giá công chức theo VTVL, với các tiêu chí sau đây: chấp hành đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước; phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, tác phong và lề lối làm việc; năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ; tiến độ và kết quả thực hiện nhiệm vụ; tinh thần trách nhiệm và phối hợp trong thực hiện nhiệm vụ; thái độ phục vụ Nhân dân. Quy định cách phân loại công chức theo VTVL theo từng tiêu chí đánh giá. Quyền lợi và nghĩa vụ công chức theo VTVL: mối quan hệ giữa công chức với Nhà nước và Nhân dân trong quá trình thực thi công vụ cần phải được pháp luật điều chỉnh. Nghĩa vụ và quyền của công chức thường gắn liền với nhau. Nghĩa vụ là những việc mà công chức có trách nhiệm và bổn phận phải thực hiện. Quyền của công chức là các điều kiện để đảm bảo thực hiện tốt các nghĩa vụ đó. Quy định đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ gắn với VTVL cụ thể. Trách nhiệm công vụ: Theo khía cạnh tích cực, trách nhiệm công vụ thể hiện phạm vi các yêu cầu cụ thể của Nhà nước thông qua các quy định của pháp luật về nội dung nhiệm vụ và phẩm chất của công chức khi thực thi công vụ. Trách nhiệm công vụ theo nghĩa tiêu cực là sự gánh chịu hậu quả pháp lý do không thực hiện hay thực hiện không đúng nghĩa vụ. Quy định việc công chức được làm, không được làm, xử lý công chức. Tiền lương công chức theo VTVL, bao gồm: mức lương tối thiểu chung; các bảng lương; các chế độ phụ cấp lương; chế độ nâng bậc lương; chế độ trả lương; nguồn kinh phí để thực hiện chế độ tiền lương; quản lý tiền lương và thu nhập đối với công chức hành chính nhà nước. Nguyên tắc tiền lương công chức tương ứng VTVL chứ không trả lương theo chế độ ngạch, bậc như trong chế độ chức nghiệp. Khen thưởng, kỷ luật: Các quy định về khen thưởng, kỷ luật công chức theo VTVL quy định về: các nguyên tắc, điều kiện, hình thức, thẩm quyền, trình tự xử lý các quan hệ nảy sinh trong quá trình khen thưởng và xử lý kỷ luật đối với công chức. 3. Một số nhận xét nội dung pháp luật về chế độ công vụ ở nước ta Phân tích các quy định của pháp luật về CĐCV ở nước ta hiện nay, có thể có một số nhận xét sau đây: Một là, Luật CBCC năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã thể chế hóa, cụ thể hóa tương đối đầy đủ các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về CĐCV ở những nội dung quy định về tuyển dụng công chức, sử dụng công chức, quản lý công chức và đào tạo, bồi dưỡng công chức theo VTVL. Nội dung pháp luật đã quy định cụ thể, chi tiết, đồng bộ về tuyển dụng; sử dụng, quản lý; quyền và nghĩa vụ; đào tạo, bồi dưỡng; khen thưởng, kỷ luật công chức. Hai là, pháp luật về CĐCV về cơ bản đã đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất giữa các quy phạm pháp luật, giữa pháp luật về CĐCV và phù hợp với các văn bản pháp luật có liên quan như pháp luật về tổ chức và hoạt động của Chính phủ, tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương, pháp luật lao động, pháp luật đất đai... Các quy định của pháp luật về CĐCV tương đối phù hợp với các điều kiện kinh tế - xã hội, phù hợp với đặc điểm, đặc trưng của CĐCV. Tuy nhiên, pháp luật về CĐCV còn một số hạn chế như: Việc quy định đối tượng công chức còn quá rộng, bao gồm cả công chức trong bộ máy nhà nước, bộ máy của Đảng, tổ chức chính trị - xã hội và đơn vị sự nghiệp công lập; chưa có những quy định chung về những nguyên tắc hoạt động công vụ, về chế độ phục vụ nhân dân, trách nhiệm giải trình của công chức khi thi hành công vụ; việc đánh giá công chức còn khá chung 57 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 16(320) T8/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT chung, chưa dựa vào việc hoàn thành công việc theo từng VTVL; pháp luật về CĐCV chưa chuyển hẳn sang hướng theo VTVL; chưa có quy định chung về tỷ lệ các ngạch công chức để đảm nhiệm các VTVL. 4. những hạn chế trong thực thi pháp luật về chế độ công vụ Về mặt pháp lý, tuy đã có Luật CBCC năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành của Chính phủ quy định về CĐCV, nhưng trên thực tế, việc tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức hiện nay chủ yếu gắn với chỉ tiêu biên chế. Cách thức tuyển dụng công chức áp dụng theo chế độ làm việc lâu dài phù hợp với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhưng chưa phù hợp với yêu cầu xây dựng nền hành chính hiện đại, năng động. Việc xây dựng đề án xác định VTVL là cần thiết, nhưng cũng rất phức tạp, đòi hỏi sự khảo sát kỹ lưỡng về số lượng công việc, tần suất công việc trong các cơ quan, tổ chức. Trên thực tế, không ít cơ quan giao việc chồng chéo, có khi nhiều người cùng làm chung một việc, dẫn đến tình trạng đùn đẩy, né tránh công việc. Đến năm 2015, nhiều cơ quan, đơn vị đã hoàn thiện xong đề án xác định VTVL nhưng chưa triển khai thực hiện vì chưa có căn cứ khoa học. Các quy định về các môn thi tuyển công chức chưa phù hợp để có thể tuyển chọn được người đáp ứng yêu cầu của chức danh công chức. Ví dụ về các môn thi chuyên ngành, một số môn chuyên ngành đã có ở bậc đào tạo đại học, nhưng một số môn chuyên ngành chưa có ở bậc đào tạo đại học như thanh tra đã gây khó khăn cho việc tuyển dụng công chức theo VTVL. Theo quy định pháp luật, việc tuyển dụng công chức chủ yếu căn cứ vào bằng cấp và những bài thi môn kiến thức chung và môn kiến thức chuyên ngành, tin học, ngoại ngữ. Nhưng quy định đó là không đầy đủ vì ngoài kiến thức chuyên môn, cần phải có những kỹ năng cần thiết để đảm nhận công việc như kỹ năng phối hợp, làm việc nhóm, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng phân tích, giải quyết tình huống. Những tiêu chí và phương pháp đánh giá, phân loại công chức còn thiếu đồng bộ, chưa gắn với kết quả thực hiện nhiệm vụ của công chức nên việc xem xét, đánh giá để bố trí, sử dụng và đãi ngộ còn nhiều bất hợp lý. Quy định về đào tạo, bồi dưỡng công chức theo VTVL mới dừng ở các chế độ đào tạo, bồi dưỡng, nội dung, hình thức đào tạo bồi dưỡng mà chưa gắn đào tạo, bồi dưỡng với sử dụng, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật công chức theo VTVL. Chính sách tiền lương, chế độ phụ cấp đối với công chức theo VTVL vẫn còn nhiều bất hợp lý, tiền lương gắn với chế độ ngạch bậc (theo mô hình chức nghiệp) và chưa tương xứng với VTVL (theo mô hình việc làm) mà công chức đang đảm nhận, chưa tương xứng với năng lực và kết quả làm việc của những người tài năng. 5. Một số kiến nghị và giải pháp 5.1. Hoàn thiện pháp luật về CĐCV theo VTVL Thứ nhất, cần xác định rõ CĐCV ở Việt Nam. Hiện nay, các văn bản QPPL, đặc biệt là Luật CBCC năm 2008 chưa quy định rõ CĐCV của nước ta là CĐCV theo chức nghiệp hay CĐCV theo VTVL, hay kết hợp cả hai hệ thống đó với nhau. Luật CBCC năm 2008, các văn bản của Chính phủ, và các văn bản hướng dẫn của Bộ Nội vụ có những quy định mang dấu hiệu của CĐCV theo VTVL như chế độ tuyển dụng công chức theo VTVL, chế độ đào tạo, bồi dưỡng công chức theo VTVL, chế độ đánh giá công chức theo VTVL, nhưng đồng thời, nhiều quy định lại đang có những dấu hiệu của CĐCV theo chức nghiệp, như chế độ tiền lương công chức theo ngạch, bậc; tuyển dụng công chức cũng có dấu hiệu của CĐCV theo chức nghiệp, đó là quyết định bổ nhiệm vào ngạch của công chức sau khi trúng tuyển; việc đào tạo, bồi dưỡng theo ngạch, bậc công chức Như vậy, có thể khẳng định CĐCV hiện tại của Việt Nam là CĐCV kết hợp giữa CĐCV theo chức nghiệp và CĐCV theo VTVL. Tuy nhiên, nhiều quy định không rõ ràng đã dẫn tới những mâu thuẫn nội tại của pháp luật liên quan, gây khó khăn trong thực hiện. Thứ hai, cần rà soát những quy định của Luật CBCC năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành để tránh sự chồng chéo, thiếu rõ ràng; chú trọng hơn đến tính khả thi, tính đồng bộ trong các quy định. Các văn bản QPPL về vấn đề quản lý, sử dụng công chức cần được quy định chặt chẽ, logic, rõ ràng, chính xác, tránh việc văn bản QPPL vừa được ban hành đã sửa đổi. Pháp luật về CĐCV phải gắn kết chính sách tuyển dụng công chức theo VTVL với các nội dung khác như đào tạo, bồi dưỡng công chức, quản lý công chức, quy hoạch, đề bạt, bổ nhiệm, đánh giá công chức, tăng lương theo VTVL... tạo thành một chỉnh thể thống nhất, đồng bộ có tác dụng khuyến khích người công chức vươn lên trong học tập và công tác. Đồng thời, cần phải có những quy định chung về các nguyên tắc công vụ, CĐCV, trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức; đánh giá công chức phải khách quan, dựa trên cơ sở hệ thống các tiêu chí khoa học. 5.2. Bảo đảm việc thực hiện pháp luật về CĐCV Thứ nhất, cần xác định được chính xác trong cơ quan hành chính nhà nước có bao nhiêu VTVL và bảng mô tả công việc của từng VTVL. Việc xác định các VTVL không chỉ xác định khối lượng, số lượng công việc phải thực hiện ở một vị trí nhất định, mà quan trọng hơn là xác định được đặc điểm, đặc thù, tính phức tạp và tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ cần thiết để thực hiện công việc. Xác định được VTVL trong cơ quan hành chính nhà nước là cơ sở, căn cứ để tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, quản lý công chức theo VTVL... nhằm mục tiêu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Từ việc xác định VTVL trong cơ quan, tổ chức, chúng ta sẽ xác định cơ cấu công chức trong cơ quan hành chính nhà nước sao cho hợp lý, khoa học, chính xác. Giả sử, Bộ A có thể có cơ cấu công chức như sau: Tổng số có 1.000 VTVL, trong đó, VTVL ở ngạch chuyên viên cao cấp là 30 vị trí, VTVL ở ngạch chuyên viên chính là 180 vị trí, VTVL ở ngạch chuyên viên là 450 vị trí, VTVL ở ngạch cán sự là 340 vị trí; VTVL về công tác thi đua, khen thưởng có 100 vị trí, trong đó có VTVL ở ngạch chuyên viên cao cấp là 03 vị trí, VTVL ở ngạch chuyên viên chính là 33 vị trí, VTVL ở ngạch chuyên viên là 50 vị trí, VTVL ở ngạch cán sự là 14 vị trí... Dựa trên kết quả như vậy, chúng ta mới có thể bắt tay vào việc xây dựng kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, đánh giá, tiền lương của công chức theo VTVL... một cách khách quan, khoa học và đạt chất lượng cao. Từ đó, tạo cơ sở cho sự phân hóa công chức, vị trí chuyên viên cao cấp chỉ làm nhiệm vụ tham mưu chiến lược, nghiên cứu, lãnh đạo... còn công chức chuyên viên làm nhiệm vụ công chức thừa hành. Thứ hai, cần đổi mới đồng bộ việc tuyển dụng, sử dụng, đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, và chế độ tiền lương của công chức theo VTVL, với các nội dung cụ thể như sau: Hoàn thiện công tác tuyển dụng công chức theo VTVL: Về nguyên tắc phải công khai, minh bạch, khách quan, bảo đảm thu hút được những người có phẩm chất, năng lực tốt vào hoạt động công vụ. Đổi mới nội dung và phương pháp thi tuyển công chức, tiếp tục nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông tin vào tuyển dụng công chức theo VTVL. Đẩy mạnh phân cấp trong quá trình tuyển dụng công chức theo VTVL từ đó tạo nên cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của từng cơ quan, tổ chức, đơn vị, phù hợp với những tình hình thực tế của cơ quan, đơn vị. 58 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁP Söë 16(320) T8/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng công chức theo VTVL: Rà soát, sửa đổi, bổ sung đối với những chương trình đã và đang được triển khai thực hiện và tiếp tục hoàn thiện, xây dựng mới các chương trình hiện nay còn thiếu. Tiếp tục xây dựng và đưa vào triển khai thực hiện với chương trình bồi dưỡng theo VTVL. Tăng cường phân cấp trong hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức theo VTVL. Tạo lập cơ chế trao dần quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho cơ quan quản lý, đơn vị sử dụng công chức quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động đào tạo, bồi dưỡng công chức theo VTVL do cơ quan, đơn vị quản lý và sử dụng; kể cả vấn đề sử dụng kinh phí cho hoạt động này. Quản lý công chức theo VTVL: Cần xác định rõ danh mục công việc cho từng vị trí công chức trong cơ quan hành chính nhà nước. Xây dựng và hoàn thiện Quy chế làm việc của cơ quan, đơn vị, nội quy, quy chế quản lý công chức phù hợp với các nội dung của Luật CBCC năm 2008. Việc bổ nhiệm công chức phải được thực hiện một cách chặt chẽ, khoa học, dân chủ và nhất thiết phải dựa trên các tiêu chuẩn về năng lực, trình độ, đạo đức và uy tín. Hoàn thiện công tác đánh giá công chức theo VTVL: Tiếp tục đổi mới cơ chế đánh giá công chức theo nguyên tắc cấp trên đánh giá cấp dưới, người đứng đầu đánh giá những người thuộc quyền quản lý, cấp trên trực tiếp đánh giá người đứng đầu. Đánh giá công chức dựa trên mức độ thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, thể hiện ở khối lượng, chất lượng, tiến độ, hiệu quả của công việc trong từng vị trí, từng thời gian; tinh thần trách nhiệm trong hoạt động công vụ. Đánh giá theo hiệu quả công tác căn cứ theo tiêu chí của ngành, địa phương, đơn vị. Hoàn thiện chế độ tiền lương công chức theo VTVL: Thực hiện chế độ trả tiền lương theo kết quả làm việc và theo VTVL, thay thế cho việc trả tiền lương theo ngạch, bậc. Việc chuyển sang trả lương theo vị trí và kết quả công việc cần phải được làm đồng bộ. Phải đổi mới phương thức lập và phân bổ ngân sách, tiến tới việc lập và phân bổ ngân sách dựa trên kết quả công việc của từng cơ quan, đơn vị. Tạo ra môi trường làm việc và cơ hội thăng tiến của công chức theo VTVL: Môi trường làm việc và cơ hội thăng tiến cũng là điều rất quan trọng đối với công chức theo VTVL. Môi trường làm việc trong các cơ quan hành chính nhà nước phải là nơi đáng sống của công chức - được lựa chọn từ những người có tài năng và tâm huyết, muốn cống hiến hết mình cho đất nước. Pháp luật về CĐCV theo VTVL cần sớm có các chính sách khen thưởng, tôn vinh người công chức Việt Nam trong thời kỳ mới. Đảm bảo tôn trọng quyền con người, tôn trọng người có đức, có tài: Pháp luật về CĐCV theo VTVL có vai trò rất quan trọng trong việc đảm bảo quyền con người, tôn trọng người có đức, có tài. Từ năm 1945, Bác Hồ đã nói “mọi quyền lực đều thuộc về Nhân dân”, có nghĩa là Nhân dân có quyền tham gia quyết định luật pháp, là cơ sở pháp lý của Nhà nước pháp quyền. Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn luôn có chính sách tôn trọng quyền con người, có chính sách, quy chế tôn vinh những người có đức, có tài, tâm huyết với công việc. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên sẽ giúp cho pháp luật về CĐCV theo VTVL ngày càng hoàn thiện, đáp ứng được nhu cầu và sự phát triển của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Pháp luật về công vụ theo VTVL là CĐCV còn mới đối với Việt Nam, vì vậy, cần phải vừa làm vừa rút ra bài học kinh nghiệm. Xu hướng triển khai thực hiện hiệu quả pháp luật về công vụ theo VTVL là phù hợp với nền hành chính hiện đại, phù hợp với pháp luật công vụ của các nước tiên tiến trên thế giới n 59 NGHIÏN CÛÁU LÊÅP PHAÁPSöë 16(320) T8/2016 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphap_luat_ve_che_do_cong_vu_theo_vi_tri_viec_lam_mot_so_van.pdf
Tài liệu liên quan