Bổ sung các quy định về xử phạt trong
lĩnh vực đấu giá hàng hóa thương mại.
Tăng cường công tác giám sát đối với
những đối tượng có chức vụ, quyền hạn và
đề xuất áp dụng chế tài đối với nhóm đối
tượng này.
Với những đối tượng có chức vụ,
quyền hạn17 tham gia đấu giá cần có yêu
cầu nhất định với bản thân họ cũng như với
phiên đấu giá đó. Các quy định của Luật
Đấu giá tài sản năm 2016 và những văn bản
pháp luật có liên quan hiện nay vẫn chưa
điều chỉnh vấn đề này. Phải có cơ chế điều
chỉnh đặc biệt đối với những đối tượng có
chức vụ, quyền hạn khi họ tham gia đấu giá
như yêu cầu xác minh nguồn gốc tài sản của
người có hàng hóa đấu giá, kiểm soát những
người cùng tham gia đấu giá, kiểm soát trình
tự, thủ tục tiến hành đấu giá.
Đề xuất bổ sung quy định về nhóm đối
tượng có chức vụ, quyền hạn vi phạm trong
lĩnh vực đấu giá hàng hóa thương mại có thể
được xem là hành vi tham nhũng theo Luật
Phòng, chống tham nhũng năm 201518. Bổ
sung quy định Tội phạm tham nhũng trong
lĩnh vực đấu giá tài sản bên cạnh các Tội
phạm tham nhũng được quy định tại chương
XXIII - Các tội phạm về chức vụ tại BLHS
năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 244 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật về đấu giá hàng hóa trong thương mại - Những bất cập và kiến nghị hoàn thiện, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt:
Hoàn thiện pháp luật về đấu giá hàng hóa trong thương mại là
một yêu cầu cấp thiết, nhất là trong bối cảnh Việt Nam đang ngày
càng có nhiều cơ hội hợp tác, phát triển với các quốc gia có nền
kinh tế lớn mạnh trên thế giới. Bài viết phân tích những bất cập,
hạn chế của pháp luật điều chỉnh hoạt động đấu giá hàng hóa
trong thương mại, đồng thời đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn
thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Nguyễn Thị Loan*
Võ Thị Thanh Linh**
* TS. GV. Khoa Luật, Đại học Đà Lạt
** ThS. NCS. GV Khoa Luật, Đại học Đà Lạt
Abstract
Improvement of the legal regulations on auctions of goods
for commercial purpose is urgently required, especially in the
context Vietnam is in upcoming opportunities for cooperation
and development with the nations of large economies in the
world. This article provides analysis of the inadequacies and
shortcomings of the legal regulations on auction activities of
goods and suggested recommendations for further improvements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: đấu giá hàng hóa, thương mại
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 20/03/2019
Biên tập : 20/05/2019
Duyệt bài : 27/05/2019
Article Infomation:
Keywords: auctions of goods; commerce
Article History:
Received : 20 Mar. 2019
Edited : 20 May 2019
Approved : 27 May 2019
PHÁP LUẬT VỀ ĐẤU GIÁ HÀNG HÓA TRONG THƯƠNG MẠI -
NHỮNG BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
1. Một số bất cập của pháp luật về đấu giá
hàng hóa trong thương mại
1.1 Quy định về doanh nghiệp tổ chức đấu giá
Quá trình chuyển đổi mô hình doanh
nghiệp sau ngày Luật Đấu giá tài sản năm
2016 có hiệu lực diễn ra chậm
Theo quy định của Luật Đấu giá tài
sản, trong thời gian 2 năm kể từ ngày Luật
có hiệu lực (từ ngày 1/7/2017), các doanh
nghiệp đấu giá tài sản được thành lập trước
ngày Luật này có hiệu lực được tiếp tục hoạt
động và phải tiến hành chuyển đổi thành
doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty hợp danh
theo Điều 6 và Điều 7 Nghị định số 62/2017/
NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một
số điều và biện pháp thi hành Luật Đấu giá
tài sản trước ngày 1/7/2019. Tuy nhiên, đã
hai năm Luật Đấu giá tài sản năm 2016 được
đưa vào thực tế nhưng việc chuyển đổi mô
hình như trên vẫn chưa thực sự diễn ra đồng
bộ, cản trở quá trình phát triển của hoạt động
đấu giá hàng hóa.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
51Số 10(386) T5/2019
Quy định về đăng ký, thành lập doanh
nghiệp đấu giá thiếu về nội dung đăng ký vốn
Doanh nghiệp đấu giá tài sản được
thành lập, tổ chức và hoạt động dưới hình
thức doanh nghiệp tư nhân, công ty hợp
danh theo quy định của Luật này và quy
định khác có liên quan, những nội dung liên
quan đến thành lập, tổ chức, hoạt động và
chấm dứt hoạt động của doanh nghiệp đấu
giá tài sản không quy định tại Luật này thì
thực hiện theo quy định của pháp luật về
doanh nghiệp1. Điều 184 Luật Doanh nghiệp
quy định: vốn đầu tư của chủ doanh nghiệp
tư nhân do chủ doanh nghiệp tự đăng ký;
chủ doanh nghiệp tư nhân có nghĩa vụ đăng
ký chính xác tổng số vốn đầu tư. Thông tư
số 20/2015/TT-BKHĐT ngày 01/12/2015
của Bộ Kế hoạch và Đầu tư Hướng dẫn về
đăng ký doanh nghiệp quy định mẫu Giấy đề
nghị đăng ký doanh nghiệp tư nhân, Giấy đề
nghị đăng ký công ty hợp danh đều có nội
dung đăng ký vốn góp và trong mẫu Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp tư nhân,
Giấy chứng nhận đăng ký công ty hợp danh
cũng có nội dung chứng nhận vốn góp, vốn
điều lệ.
Như vậy, đối với doanh nghiệp, việc
góp vốn khi thực hiện đăng ký là một trong
những nội dung cơ bản để đảm bảo cho hoạt
động của doanh nghiệp và thể hiện quy mô
của doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay các
biểu mẫu Giấy đề nghị đăng ký hoạt động
doanh nghiệp đấu giá tài sản cũng như
Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động của
doanh nghiệp đấu giá tài sản ban hành kèm
theo Thông tư số 06/2017/TT-BTP ngày
15/6/2017 của Bộ Tư pháp đều không có nội
dung đăng ký vốn của doanh nghiệp và nội
dung chứng nhận vốn của Sở Tư pháp nên
quá trình thực hiện đăng ký thành lập doanh
nghiệp đấu giá tài sản còn gặp khó khăn.
1 Điều 23 LĐGTS 2016
2 Nghị định số 62/2017/NĐ-CP ngày 16-5-2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật
Đấu giá tài sản.
3 Thông tư số 20/2015/TT-BKHĐT ngày 01/12/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn về đăng ký doanh nghiệp.
4 Điều 56 Luật Đấu giá tài sản năm 2016
Chưa có quy định cụ thể cơ cấu tổ chức,
nhân sự của doanh nghiệp đấu giá tài sản.
Đấu giá tài sản là ngành nghề kinh
doanh có điều kiện (về nguồn vốn, chất
lượng đấu giá viên, cơ sở vật chất, trang
thiết bị v.v..). Theo đó, doanh nghiệp đấu giá
hàng hóa khi muốn hoạt động phải đảm bảo
các điều kiện về vốn, về nhân lực v.v.. Hiện
nay, trong các văn bản pháp luật liên quan
đến việc thành lập doanh nghiệp đấu giá
tài sản như Luật Đấu giá tài sản năm 2016,
Nghị định số 62/2017/NĐ-CP2, Thông tư số
20/2015/TT-BKHĐT hướng dẫn về đăng
ký doanh nghiệp3 đều chưa quy định cụ thể
nguồn nhân lực đảm bảo cho hoạt động của
doanh nghiệp. Luật Doanh nghiệp cũng chỉ
quy định Điều lệ công ty có nội dung về
cơ cấu tổ chức quản lý, không quy định bộ
phận chấp hành, giúp việc. Điều này dẫn đến
thực tế là nhiều trường hợp cơ quan có thẩm
quyền gặp khó khăn khi xác định điều kiện
thành lập doanh nghiệp đấu giá, vì tính chất
đặc thù của lĩnh vực, nhiều doanh nghiệp
đấu giá vì không đáp ứng nhân lực đã phải
chọn cách giải thể hoặc phá sản.
1.2 Nội dung pháp luật về đấu giá hàng hóa
Về quyền lựa chọn doanh nghiệp tổ
chức đấu giá của người bán hàng hóa.
Để tạo điều kiện cho khách hàng khi
lựa chọn tổ chức đấu giá, Luật Đấu giá tài sản
2016 quy định người có tài sản có quyền lựa
chọn doanh nghiệp tổ chức đấu giá hàng hóa
căn cứ theo hồ sơ tham gia và tiêu chí được
quy định trong Luật4. Theo đó, những doanh
nghiệp đấu giá được lựa chọn phải có tên trong
danh sách các tổ chức đấu giá tài sản do Bộ Tư
pháp công bố. Nhưng cho đến nay, khi Luật
Đấu giá tài sản đã đi vào thực tế thì danh sách
này vẫn chưa được Bộ Tư pháp công bố mà
chỉ có vài địa phương công khai danh sách tổ
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
52 Số 10(386) T5/2019
chức đấu giá trên địa bàn như Quảng Bình5,
Bình Dương6, TP. Hồ Chí Minh...
Thực trạng trên đã gây nên sự cạnh
tranh không lành mạnh giữa các doanh
nghiệp đấu giá trên cùng thị trường, vì thực
tế những doanh nghiệp được Bộ Tư pháp
công bố thông tin thì sẽ được khách hàng tìm
đến, ngược lại, nhiều doanh nghiệp không
có khách hàng, hoặc khi khách hàng tìm đến
thì có ít thời gian để chuẩn bị hồ sơ đấu giá.
Quy định về giám định hàng hóa đấu
giá còn hạn chế.
Hàng hóa đấu giá được bán đúng thực
giá so với giá thị trường khi hàng hóa đó
được giám định kỹ và được thực hiện bởi
những đơn vị, tổ chức có chuyên môn. Thông
thường, hàng hóa thuộc lĩnh vực nào thì sẽ
do cơ quan giám định có chuyên môn về lĩnh
vực ấy giám định. Nếu người bán thỏa thuận
với tổ chức đấu giá về việc ủy quyền giám
định thì doanh nghiệp đấu giá sẽ ký hợp đồng
với đơn vị giám định để đơn vị này trực tiếp
giám định hàng hóa. Thông qua việc giám
định hàng hóa, người bán hoặc người tổ chức
đấu giá mới có thể xác định giá khởi điểm và
mức giá bán phù hợp khi những người tham
gia trả giá đưa ra mức giá.
Pháp luật Việt Nam quy định tài sản
được mang đi giám định theo quy định của
pháp luật hoặc khi người tham gia đấu giá
có yêu cầu và phải có được sự chấp thuận
của người có tài sản đấu giá7, nhưng không
đề cập đến trường hợp trung tâm đấu giá
hoặc doanh nghiệp đấu giá bắt buộc phải ủy
quyền cho đơn vị giám định chuyên môn để
giám định hàng hóa. Điều này không đảm
5 https://stp.quangbinh.gov.vn/3cms/danh-sach-to-chuc-dau-gia-tai-san-va-dau-gia-vien-dang-hanh-nghe-tai-to-chuc-
dau-gia-tai-san-tr-48512939.htm
6 https://stp.binhduong.gov.vn/bo-tro-tu-phap/Lists/DauGia/DispForm.aspx?ID=35
7 Khoản 3 Điều 8 Luật Đấu giá tài sản năm 2016
8 Khoản 2, Điều 199 Luật Thương mại năm 2015 quy định “Người tổ chức đấu giá có thể yêu cầu người tham gia đấu giá
nộp một khoản tiền đặt trước, nhưng không quá 2% giá khởi điểm của hàng hóa đấu giá”.
9 Khoản 1 Điều 209 Luật Thương mại năm 2005: Văn bản bán đấu giá hàng hóa là văn bản xác nhận việc mua bán hàng
hóa đấu giá, đây cũng là căn cứ để chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa mà pháp luật quy định phải chuyển quyền sở
hữu. Do vậy đối với đấu giá hàng hóa trong thương mại, việc chuyển giao hàng hóa cho người mua chỉ được tiến hành
sau khi lập Văn bản đấu giá hàng hóa.
bảo được tính khách quan trong đấu giá hàng
hóa. Doanh nghiệp đấu giá không thể đồng
thời cùng thực hiện hai chức năng vừa định
giá hàng hóa vừa tổ chức đấu giá hàng hóa
được. Chính quy định không chặt chẽ này
đã dẫn đến hiện tượng tùy tiện trong khâu
định giá hàng hóa đấu giá và tổ chức bán
đấu giá hàng hóa để trục lợi, làm ảnh hưởng,
gây thiệt hại cho người có tài sản ủy quyền
đấu giá.
Quy định mức tiền đặt trước chưa phù hợp.
Khoản tiền đặt trước như là một hình
thức nắm giữ lòng tin giữa người mua hàng
hóa và doanh nghiệp đấu giá. Tuy nhiên,
việc quy định mức giá đặt trước trong đấu
giá hàng hóa thương mại vẫn còn khiến cho
nhiều doanh nghiệp đấu giá hàng hóa e ngại
khi mức tiền đặt cọc không được vượt quá
2% giá khởi điểm của hàng hóa đấu giá8.
Việc quy định mức tiền đặt cọc như vậy
còn khá thấp, gây ra tình trạng đấu giá “ảo”,
người tham gia đấu giá có thể dễ dàng rút lại
giá đã trả hoặc từ chối mua sau khi đấu giá
thành công khiến cho cuộc đấu giá hàng hóa
bị lũng đoạn.
Quy định về công tác thực hiện chuyển
quyền sở hữu đối với hàng hóa còn bất cập.
Hàng hóa trong đấu giá bao gồm
hàng hóa không phải đăng ký quyền sở
hữu và hàng hóa có đăng ký quyền sở hữu.
Khi kết thúc phiên đấu giá, đối với hàng
hóa không phải đăng ký quyền sở hữu thì
người mua được nhận hàng hóa sau khi lập
Văn bản đấu giá hàng hóa9. Đối với hàng
hóa có đăng ký quyền sở hữu thì người mua
hàng chỉ nhận được hàng hóa sau khi người
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
53Số 10(386) T5/2019
tổ chức đấu giá hoàn thành thủ tục chuyển
quyền sở hữu. Cả người bán hàng và người
tổ chức đấu giá hàng hóa đều có nghĩa vụ
thực hiện thủ tục đăng ký quyền sở hữu của
hàng hóa, chuyển quyền sở hữu hàng hóa
đó cho người mua10. Nhìn chung, quy định
chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa hiện
nay thì vẫn còn các bất cập sau:
Một là, pháp luật chưa quy định về
mốc thời điểm cụ thể để người bán hàng hóa
đấu giá chuyển giao giấy tờ liên quan đến
hàng hóa phải chuyển quyền sở hữu. Hiện
nay, theo quy định của pháp luật về thương
mại thì việc chuyển giao này chỉ thực hiện
dựa trên sự thỏa thuận giữa người bán với
người tổ chức đấu giá trong trường hợp
người bán ủy quyền cho doanh nghiệp tổ
chức đấu giá thực hiện việc bán hàng hóa.
Trên thực tế có nhiều trường hợp người bán
sau khi bán được hàng hóa đấu giá vì một
vài nguyên nhân khách quan sẽ không giao
giấy tờ liên quan đến hàng hóa cho người
tổ chức đấu giá. Điều này cản trở người tổ
chức hàng hóa thực hiện quá trình hoàn tất
thủ tục chuyển giao quyền sở hữu cho người
mua hàng hóa. Mà quá trình thực hiện các
thủ tục này thì mất khá nhiều thời gian, gây
nên tâm lý khó chịu cho người mua, nghiêm
trọng hơn có thể dẫn đến việc người mua từ
chối việc mua hàng hóa đó, chấp nhận mất
luôn một khoản tiền để bù đắp chi phí đấu
giá. Đặc biệt đối với những hàng hóa là vật
gắn liền với đất đai như nhà ở, công trình
xây dựng... thì việc thời gian làm thủ tục
chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người
mua bị chậm trễ sẽ gây ra những hậu quả to
lớn và phức tạp hơn rất nhiều.
Hai là, các thủ tục hành chính trong
chuyển đổi quyền sở hữu đối với hàng hóa
khá rườm rà, mất nhiều thời gian. Khi trở
thành người mua trúng đấu giá, tâm lý người
mua là muốn nhận được hàng hóa sớm vì
10 Khoản 3 điều 206; khoản 2 Điều 209 Luật Thương mại năm 2005.
nhiều mục đích khác như chuyển đổi quyền
sở hữu hoặc tiếp tục kinh doanh Tuy
nhiên, quy định trên đã gây khó khăn cho
chính người tổ chức đấu giá hàng hóa khi
họ cũng không thể xác định được thời gian
hoàn thành thủ tục trên và thời điểm họ sẽ
giao hàng cho người mua.
Các quy định của pháp luật về hình thức
đấu giá trực tuyến chưa thực sự có hiệu quả
Đấu giá trực tuyến hàng hóa trong
thương mại đã được hình thành khá lâu
và dần trở nên phổ biến trong nền kinh tế
- thương mại. Tuy nhiên, hiện nay cơ chế
quản lý hoạt động đấu giá trực tuyến còn
gặp rất nhiều khó khăn vì các lý do:
(i) Pháp luật chưa đưa ra một khái
niệm nào về đấu giá hàng hóa trực tuyến mà
người mua hay người bán chỉ có thể hiểu
đó là việc đấu giá được thực hiện qua mạng
internet thông qua các website đấu giá.
(ii) Chất lượng hàng hóa được mang
ra đấu giá trực tuyến rất khó để kiểm định
vì một số trường hợp, người bán cung cấp
thông tin sai về chất lượng, tráo hàng giả,
hàng nhái khiến cho người tham gia khó
phân biệt.
(iii) Hiện nay pháp luật chưa đưa ra
được bất kỳ quy định cụ thể nào liên quan
đến tài sản được phép đấu giá trực tuyến,
cách thức tiến hành và trách nhiệm của các
chủ thể khi vi phạm nghĩa vụ thực hiện đấu
giá trực tuyến chưa được quy định rõ.
Vì vậy, hình thức đấu giá trực tuyến
mặc dù có quy định trong Luật Đấu giá tài
sản năm 2016 và được xem như một cách
thức đấu giá nhằm đơn giản thủ tục, hạn chế
sự móc nối, thông đồng giữa những người
tham gia đấu giá, nhưng thực sự vẫn chưa
phát huy hiệu quả và cần phải hoàn thiện
hơn trong thời gian tới.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
54 Số 10(386) T5/2019
1.3 Quy định của pháp luật về hợp đồng
đấu giá hàng hóa
Thứ nhất, thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng mua bán hàng hóa đấu giá đối với
hàng hóa là bất động sản khó xác định.
Đối với hợp đồng đấu giá hàng hóa
trong thương mại, kể từ thời điểm người
tham gia đấu giá được công bố là người mua
được tài sản là thời điểm giao kết của hợp
đồng, và từ thời điểm giao kết thì hợp đồng
đấu giá có hiệu lực11. Như vậy, có thể hiểu
tại thời điểm người điều hành đấu giá công
bố người mua được hàng hóa đấu giá đối
với phương thức trả giá lên hoặc người đầu
tiên chấp nhận giá đối với phương thức đặt
giá xuống là thời điểm giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa đấu giá. Từ thời điểm
này, các bên phát sinh nghĩa vụ đối với hợp
đồng hay nói cách khác là hợp đồng mua
bán hàng hóa đấu giá có hiệu lực. Nhưng đối
với những loại hàng hóa là vật gắn liền với
đất thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng
mua bán hàng hóa đấu giá sẽ không được
xác định như trên mà phải dựa vào pháp luật
có liên quan.
Theo Luật Nhà ở năm 2014, đối với
hợp đồng mua bán đấu giá hàng hóa là nhà
ở thương mại thì hợp đồng đó phải thực hiện
công chứng, chứng thực hợp đồng và thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm
công chứng, chứng thực hợp đồng12. Tại
khoản 1, Điều 5 Luật Công chứng năm 2014
đưa ra quy định: “Văn bản công chứng có
hiệu lực kể từ ngày được công chứng viên
ký và đóng dấu của tổ chức hành nghề công
chứng”. Như vậy, có thể thấy đối với những
hàng hóa mà pháp luật yêu cầu phải công
chứng hợp đồng mua bán thì thời điểm phát
11 Giao kết hợp đồng trong bán đấu giá hàng hóa được xem là giao kết bằng lời nói, theo đó, thời điểm giao kết hợp đồng
bằng lời nói là thời điểm các bên đã thỏa thuận về nội dung của hợp đồng (khoản 3 Điều 400 BLDS 2015). Hợp đồng
được giao kết hợp pháp có hiệu lực từ thời điểm giao kết trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật liên quan có quy
định khác (khoản 1 Điều 401 BLDS năm 2015).
12 Trường hợp mua bán, tặng cho, đổi, góp vốn, thế chấp nhà ở, chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thương mại thì
phải thực hiện công chứng, chứng thực hợp đồng - Theo khoản 1 Điều 122 Luật Nhà ở năm 2014.
sinh hiệu lực của hợp đồng sẽ là thời điểm
hợp đồng được công chứng. Giá trị pháp lý
của hợp đồng đấu giá hàng hóa đối với bất
động sản không bao gồm đất đai ở thời điểm
người mua đấu giá thành công không được
công nhận mà phải cho đến khi hợp đồng
trên được công chứng hợp pháp thì lúc đó,
hợp đồng mới chính thức có hiệu lực, quyền
và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng lúc
này mới được xác lập. Nếu trong khoảng
thời gian đợi công chứng hợp đồng để hợp
đồng mua bán hàng hóa đấu giá chính thức
có hiệu lực mà các bên chủ thể có xảy ra
tranh chấp thì cơ chế nào sẽ được áp dụng để
giải quyết những tranh chấp đó? Trong thời
điểm này, các bên vẫn chưa hình thành quan
hệ hợp đồng mua bán hàng hóa đấu giá mà
chỉ đang trong quan hệ giao kết hợp đồng
mua bán hàng hóa đấu giá nên không thể áp
dụng các quy định về hợp đồng để giải quyết
tranh chấp, cùng với đó quyền và lợi ích của
các chủ thể cũng không được đảm bảo. Đây
là một khoảng trống trong pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa đấu giá đối với hàng
hóa là những vật gắn liền với đất đai. Cần
phải khắc phục để đảm bảo hiệu quả hoạt
động đấu giá hàng hóa cũng như tạo ra một
khung pháp luật vững chắc bảo đảm quyền
lợi cho các bên tham gia.
Thứ hai, pháp luật chưa quy định
về nghĩa vụ liên đới chịu trách nhiệm của
doanh nghiệp bán đấu giá khi người được
ủy quyền bán hàng hóa hoặc người bán
hàng hóa sai phạm.
Có rất nhiều đối tượng có thể trở thành
người bán hàng hóa đấu giá (có thể là chủ
sở hữu hàng hóa, người được chủ sở hữu ủy
quyền, người có quyền bán theo quy định
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
55Số 10(386) T5/2019
của pháp luật), nhưng khi đặt ra quy định
trách nhiệm, xử phạt đối với người bán hàng
hóa thì pháp luật hiện nay vẫn chỉ tập trung
vào sai phạm của người bán mà chưa có sự
liên đới chịu trách nhiệm giữa người bán với
người tổ chức đấu giá
Tham khảo Luật Bán đấu giá của
Trung Quốc, Chương V quy định về trách
nhiệm pháp lý như sau: “Nếu người bán vi
phạm quy định tại điều 6 Luật này về ủy
quyền bán đấu giá hàng hóa hoặc quyền tài
sản không thuộc về họ hoặc họ không thể
chuyển nhượng theo pháp luật, họ có thể
phải chịu trách nhiệm pháp lý phát sinh về
sau theo quy định của pháp luật. Nếu nhà tổ
chức bán đấu giá biết rõ người bán không sở
hữu món hàng hoặc không có quyền được
ủy quyền bán đấu giá hoặc người bán không
chịu trách nhiệm pháp lý về hàng hóa hoặc
quyền tài sản, họ cũng có thể bị liên đới chịu
trách nhiệm.”13. Theo quy định pháp luật
Việt Nam, khi hàng hóa đấu giá sai phạm thì
chỉ có người bán chịu trách nhiệm, thiết nghĩ
quy định này không phù hợp khi chính các
doanh nghiệp đấu giá có thể biết trước về lỗi
khiếm khuyết của hàng hóa, người bán hàng
hóa nhưng vẫn tổ chức bán đấu giá và không
hề thông báo trước cho bên mua.
2. Một số nguyên nhân
Thứ nhất, nhiều địa phương còn chưa
nghiêm túc trong việc xây dựng bản quy chế
đấu giá, vì vậy các doanh nghiệp cũng như
Trung tâm bán đấu giá gặp lúng túng khi xử
lý các công việc phát sinh, trong khi Luật
Đấu giá tài sản năm 2016 không quy định rõ.
Thứ hai, một số địa phương chưa thực
sự chú ý đến lĩnh vực đấu giá hàng hóa trong
thương mại mà chỉ tập trung vào hoạt động
đấu giá tài sản nói chung. Đội ngũ cán bộ
làm công tác quản lý về lĩnh vực đấu giá tài
sản còn mỏng, chưa được đào tạo bồi dưỡng
13 Điều 58 Luật Bán đấu giá Trung Quốc.
14
thường xuyên về kiến thức, kỹ năng quản
lý nhà nước đối với lĩnh vực đấu giá hàng
hóa trong thương mại. Chưa có cơ chế phối
hợp giữa cơ quản quản lý nhà nước với các
doanh nghiệp đấu giá hàng hóa trong thương
mại trong công tác quản lý, vận hành và hỗ
trợ phát triển. Hoạt động triển khai, tuyên
truyền các nội dung của Luật Thương mại
2005 về đấu giá hàng hóa chưa được chú
trọng, và khi tiến hành tổ chức thì còn rất
nhiều vướng mắc.
Thứ ba, do chênh lệch về trình độ phát
triển kinh tế cũng như các chính sách pháp
luật của từng địa phương mà hiện nay, các
doanh nghiệp đấu giá hàng hóa đa phần hoạt
động mạnh tại những thành phố lớn, còn ở
những địa phương nhỏ thì hầu như không
có doanh nghiệp nào. Bên cạnh đó là tâm
lý chủ quan của các chủ doanh nghiệp đấu
giá hàng hóa khi kiểm định nguồn gốc, chất
lượng của sản phẩm dẫn đến những tình
trạng đáng tiếc như khi mua được hàng hóa
rồi người mua hàng hóa mới biết hàng hóa
đó không đúng như cam kết, thông báo ban
đầu, nhất là trong các phiên đấu giá tác phẩm
nghệ thuật14.
3. Kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp
luật điều chỉnh hoạt động đấu giá hàng
hóa trong thương mại.
3.1 Hoàn thiện quy định về doanh nghiệp
bán đấu giá hàng hóa
Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh, hoàn
thiện pháp luật về chuyển đổi mô hình doanh
nghiệp đấu giá tài sản.
Mặc dù điểm đ khoản 1 Điều 79 Luật
Đấu giá tài sản năm 2016 đã nêu rất rõ lộ
trình chuyển đổi, với những ràng buộc cụ
thể (xem xét, phê duyệt đề án thực hiện cơ
chế tự chủ, đề án chuyển đổi Trung tâm dịch
vụ đấu giá tài sản thành doanh nghiệp trong
trường hợp không cần thiết duy trì Trung
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
56 Số 10(386) T5/2019
tâm, đề án giải thể Trung tâm dịch vụ đấu
giá tài sản trong trường hợp không có khả
năng chuyển đổi Trung tâm thành doanh
nghiệp sau khi có ý kiến thống nhất của Bộ
Tư pháp. Tuy nhiên, cần có văn bản pháp
luật quy định cụ thể tiêu chí, lộ trình cụ thể
về việc chuyển đổi để tạo điều kiện cho
các địa phương trong quá trình chuyển đổi
doanh nghiệp.
Thứ hai, về đăng ký thành lập doanh
nghiệp bán đấu giá. Cần quy định bổ sung
trong biểu mẫu Giấy đề nghị đăng ký hoạt
động doanh nghiệp đấu giá tài sản và Giấy
chứng nhận đăng ký hoạt động của doanh
nghiệp đấu giá tài sản, nội dung đăng ký vốn
của doanh nghiệp và nội dung chứng nhận
vốn của Sở Tư pháp để phù hợp với Luật
Doanh nghiệp 2014.
Thứ ba, nên bổ sung quy định về thành
phần, nhân sự trong doanh nghiệp đấu giá,
cần có văn bản quy phạm pháp luật hướng
dẫn chung để đảm bảo thống nhất trong áp
dụng quy định pháp luật. Điều này góp phần
nâng cao trách nhiệm pháp lý của doanh
nghiệp đấu giá trong hành nghề, bảo vệ
quyền lợi hợp pháp của người có tài sản,
người tham gia đấu giá, đồng thời đảm bảo
tính chuyên nghiệp về tổ chức và hoạt động
của doanh nghiệp đấu giá tài sản.
3.2 Hoàn thiện quy định của pháp luật về
nội dung pháp luật điều chỉnh về bán đấu
giá hàng hóa trong thương mại
Thứ nhất, Bộ Tư pháp cần nhanh
chóng công bố danh sách tổ chức đấu giá
trên phạm vi cả nước để đảm bảo quyền lợi
của người có hàng hóa cũng như các doanh
nghiệp đấu giá hàng hóa.
15 Bộ Tư pháp (2015), Báo cáo tổng thuật pháp luật nước ngoài về đấu giá hàng hóa – Hồ sơ Dự án Luật đấu giá trình
Quốc hội tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII (ngày 20/10/2015 - 27/11/2015).
16 Căn cứ điều 335 BLDS năm 2015 quy định về bảo lãnh, “Bảo lãnh ngân hàng” là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín
dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng
(bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo
lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay.
Thứ hai, bổ sung quy định về giám
định hàng hóa đấu giá.
Phải quy định rõ hàng hóa đấu giá
được giám định bởi cá nhân, tổ chức có trình
độ, kinh nghiệm, chuyên môn trong lĩnh vực
giám định tài sản. Như ở Pháp, đấu giá viên
là những người được đào tạo hết sức nghiêm
ngặt, bài bản, họ có kiến thức sâu rộng trong
việc xác định giá cả thị trường. Người bán
thường sẽ đưa ra mức giá tối thiểu và mức
giá này sẽ phải được đấu giá viên đồng ý.
Đấu giá viên sẽ là người xác định giá khởi
điểm dựa trên khả năng am hiểu kiến thức
sâu rộng về giá cả thị trường15.
Trình tự, thủ tục giám định hàng hóa
đấu giá được thực hiện theo quy định của
pháp luật áp dụng với loại hàng hóa đó.
Việc giám định hàng hóa đấu giá phải
được thực hiện công khai, trung thực và lập
thành văn bản. Chi phí giám định do người
chủ sở hữu hàng hóa và người tổ chức đấu
giá thỏa thuận với nhau, nếu không có sự
thỏa thuận thì người chủ sở hữu hàng hóa sẽ
chịu toàn bộ chi phí liên quan đến giám định
hàng hóa.
Thứ ba, nâng mức tiền đặt trước trong
đấu giá hàng hóa thương mại lên để tránh
tình trạng đấu giá ảo.
Pháp luật thương mại cần quy định
bắt buộc tại Khoản 2 Điều 199 Luật Thương
mại 2005: “Người tham gia đấu giá phải nộp
một khoản tiền đặt trước từ 2% đến 15% giá
khởi điểm của hàng hóa đấu giá. Khoản tiền
đặt trước được nộp vào tài khoản riêng của
doanh nghiệp đấu giá mở tại tổ chức tín dụng
hoặc các bên có thể thỏa thuận thay thế nộp
tiền đặt trước bằng bảo lãnh ngân hàng16”.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
57Số 10(386) T5/2019
Điều này sẽ giúp cho việc quản lý số tiền đặt
trước của phiên đấu giá hàng hóa được minh
bạch hóa, góp phần đảm bảo chất lượng dịch
vụ đấu giá hàng hóa trong thương mại.
Thứ tư, xây dựng các quy định tạo điều
kiện thuận lợi cho việc chuyển quyền sở hữu
hàng hóa đấu giá. Tiếp tục hoàn thiện, sửa
đổi các quy định liên quan đến quá trình
chuyển đổi quyền sở hữu, quyền sử dụng tài
sản trong toàn bộ hệ thống pháp luật. Xây
dựng quy trình thủ tục chuyển quyền sở hữu
hàng hóa đầy đủ, chính xác, nhanh gọn.
Đặt ra quy định về nghĩa vụ của người
bán hàng hóa phải giao đầy đủ các giấy tờ
liên quan đến hàng hóa đấu giá trong trường
hợp hàng hóa đó phải chuyển quyền sở hữu
theo pháp luật ngay sau khi kết thúc phiên
đấu giá. Nếu người bán hàng chậm trễ trong
việc bàn giao các giấy tờ liên quan đến hàng
hóa phải chuyển quyền sở hữu thì tùy theo
mức độ sẽ phải chịu các hình phạt như phạt
hành chính, phạt bồi thường thiệt hại vì có
hành vi xâm phạm quyền lợi của người mua
hàng hóa.
Khi soạn thảo văn bản hợp đồng mua
bán hàng hóa đấu giá phải chuyển quyển sở
hữu thì vấn đề làm thủ tục chuyển đổi với cơ
quan nhà nước có thẩm quyền của các bên
tham gia cần phải làm rõ trong hợp đồng.
Thứ năm, hoàn thiện quy định của
pháp luật về đấu giá trực tuyến:
Một là, bổ sung các quy định cụ thể,
chi tiết đối với việc giao kết hợp đồng trong
bán đấu giá hàng hóa qua mạng internet. Cần
siết chặt quy chế quản lý đối với những nhà
đầu tư (người bán, người mua) và cả người
tổ chức đấu giá.
Hai là, bổ sung quy chế thẩm định tư
cách tham gia bán đấu giá qua mạng. Với một
website đấu giá, người bán và người mua có
thể sử dụng nhiều hình thức gian lận nhằm
thu lợi bất hợp pháp như người bán khai gian
lận về các thông số hàng hóa hoặc người mua
là một thực thể ma, gây nhiễu và cản trở trong
quá trình kinh doanh của người bán. Do vậy,
cần tăng cường các quy định về xác định tư
cách chủ thể tham gia bán đấu giá, yêu cầu
trách nhiệm cao đối với những chủ thể này
khi thực hiện bán đấu giá hàng hóa.
Ba là, tăng cường công tác chuyển
giao cho các doanh nghiệp đấu giá tự thực
hiện website đấu giá của mình. Việc chuyển
giao hoàn toàn công việc xây dựng trang
thông tin điện tử đấu giá cho các doanh
nghiệp tự quyết định sẽ là một biện pháp
ngăn chặn những hành vi thông đồng, gây
rối giữa người bán và người mua. Bên cạnh
đó, mỗi doanh nghiệp đấu giá sẽ có những
mục tiêu, chiến lược, ưu đãi khác nhau dành
cho khách hàng khi tham gia đấu giá trực
tuyến, khách hàng có thể dựa vào kết quả
hoạt động được công bố trên website đấu giá
của doanh nghiệp để lựa chọn được người tổ
chức đấu giá phù hợp với nhu cầu.
Bốn là, thành lập các website trung
gian để giám sát việc hoạt động bán đấu giá
giữa các chủ thể. Các website này có thể do
Bộ Tư pháp quản lý hoặc là do một công ty
quản lý việc đấu giá thực hiện. Công ty trung
gian sẽ giúp cho cả người có hàng hóa, người
mua và doanh nghiệp bán đấu giá xác định sự
tổn tại và tính trung thực từ nhiều phía.
Năm là, xây dựng các quy định quản
lý nhà nước về bán đấu giá qua mạng. Nhà
nước cần phải quản lý tất cả mọi thứ liên
quan đến vấn đề này như về số lượng giao
dịch, số lượng giao dịch thành công và đánh
thuế với những giao dịch thành công.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
58 Số 10(386) T5/2019
3.3 Hoàn thiện quy định của pháp luật về hợp
đồng đấu giá hàng hóa trong thương mại
Về giải quyết tranh chấp đối với hợp đồng
mua bán hàng hóa đấu giá là bất động sản.
Các địa phương cần đưa vào Quy chế
đấu giá để nâng cao tinh thần trách nhiệm của
các chủ thể tham gia mua bán hàng hóa đấu
giá (đối với bất động sản) về các quy định,
nguyên tắc giải quyết tranh chấp, mâu thuẫn
phát sinh (nếu có) trong thời gian hợp đồng
được công chứng. Hạn chế đến mức thấp
nhất tình trạng phải hủy kết quả đấu giá trước
khi hợp đồng mua bán hàng hóa đấu giá được
công chứng theo quy định của pháp luật
Về trách nhiệm của doanh nghiệp bán
đấu giá hàng hóa đối với hành vi vi phạm
trong hợp đồng.
Một là, cần quy định cụ thể trách
nhiệm của người bán hàng hóa trong trường
hợp người bán không phải là chủ sở hữu của
hàng hóa; không được phép ủy quyền hoặc
nhận ủy quyền theo quy định của pháp luật;
không có quyền chuyển nhượng quyền tài
sản thì phải chịu trách nhiệm do hành vi vi
phạm của mình theo pháp luật.
Hai là, trong trường hợp doanh nghiệp
biết rõ người bán hàng không phải là chủ
sở hữu của hàng hóa; không được ủy quyền
hoặc nhận ủy quyền; không có quyền chuyển
nhượng quyền tài sản mà vẫn thực hiện việc
bán đấu giá hàng hóa, khai báo thông tin
không trung thực trong thông báo, niêm yết
hàng hóa đấu giá thì phải liên đới chịu trách
nhiệm đối với hành vi vi phạm trên.
17 Người có chức vụ, quyền hạn trong bán đấu giá hàng hóa thương mại có thể là Giám đốc doanh nghiệp đấu giá, Phó
giám đốc doanh nghiệp đấu giá, đấu giá viên.
18 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2015 quy định tham nhũng bao gồm 12 hành vi cụ thể như sau:Tham ô tài
sản; Nhận hối lộ; Lạm dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi thi hành nhiệm
vụ, công vụ để vụ lợi; Lạm quyền trong thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh
hưởng đến những người khác vì trục lợi; Giả mạo trong công tác để vụ lợi; Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện
bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyêt công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương để vụ lợi; Lợi
dụng chức vụ, quyền hạn và sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước để vụ lợi; Nhũng nhiễu vì vụ lợi; Không thực hiện
nhiệm vụ, công cụ vì vụ lợi; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ
lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, kiểm toán, thanh tra, điều tra, xét xử, truy tố, và thi hành án vì
vụ lợi.
3.4 Bổ sung các quy định về xử phạt trong
lĩnh vực đấu giá hàng hóa thương mại.
Tăng cường công tác giám sát đối với
những đối tượng có chức vụ, quyền hạn và
đề xuất áp dụng chế tài đối với nhóm đối
tượng này.
Với những đối tượng có chức vụ,
quyền hạn17 tham gia đấu giá cần có yêu
cầu nhất định với bản thân họ cũng như với
phiên đấu giá đó. Các quy định của Luật
Đấu giá tài sản năm 2016 và những văn bản
pháp luật có liên quan hiện nay vẫn chưa
điều chỉnh vấn đề này. Phải có cơ chế điều
chỉnh đặc biệt đối với những đối tượng có
chức vụ, quyền hạn khi họ tham gia đấu giá
như yêu cầu xác minh nguồn gốc tài sản của
người có hàng hóa đấu giá, kiểm soát những
người cùng tham gia đấu giá, kiểm soát trình
tự, thủ tục tiến hành đấu giá.
Đề xuất bổ sung quy định về nhóm đối
tượng có chức vụ, quyền hạn vi phạm trong
lĩnh vực đấu giá hàng hóa thương mại có thể
được xem là hành vi tham nhũng theo Luật
Phòng, chống tham nhũng năm 201518. Bổ
sung quy định Tội phạm tham nhũng trong
lĩnh vực đấu giá tài sản bên cạnh các Tội
phạm tham nhũng được quy định tại chương
XXIII - Các tội phạm về chức vụ tại BLHS
năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
59Số 10(386) T5/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phap_luat_ve_dau_gia_hang_hoa_trong_thuong_mai_nhung_bat_cap.pdf