Pháp luật về quản trị tài chính trong công ty cho thuê tài chính ỏ Việt Nam

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả quản trị tài chính trong công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam Pháp luật cần có quy định rõ ràng, chặt chẽ về việc bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị. Chủ tịch Hội đồng quản trị không được trực tiếp là lãnh đạo ngân hàng mẹ. Đây là quy định nhằm tạo ra sự độc lập tương đối giữa “ngân hàng mẹ” và công ty CTTC. Pháp luật cần sửa đổi quy định trên mới có thể bảo vệ quyền tự chủ, tự quyết định của công ty CTTC. Trong thời gian tới, để khuyến khích hoạt động CTTC phát triển rộng khắp, chúng ta cần có các giải pháp vĩ mô trên phương diện quản lý nhà nước. Với xu thế phát triển của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, chắc chắn trong những năm tới, nhu cầu về đổi mới trang thiết bị máy móc ngày càng cao, hoạt động CTTC sẽ là lĩnh vực đầy tiềm năng. Chính vì vậy, ngân hàng và tổ chức tín dụng Việt Nam trong đó có công ty CTTC phải chuẩn bị cho một cuộc cạnh tranh gay gắt.

pdf6 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 188 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Pháp luật về quản trị tài chính trong công ty cho thuê tài chính ỏ Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1. Bản chất của quản trị công ty và quản trị tài chính trong công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam Quản trị công ty (corporate governance) là hệ thống được xây dựng để điều khiển và kiểm soát các doanh nghiệp. Quản trị công ty là những cơ chế, quy định thông qua đó công ty được điều hành và kiểm soát hoạt động. Cấu trúc quản trị công ty xác định quyền hạn và trách nhiệm giữa các thành viên trong công ty như Hội đồng quản trị, Giám đốc, cổ đông, Ban kiểm soát và những chủ thể khác có liên quan (Stakeholder). Quản trị công ty quy định rõ các quy tắc và thủ tục để ra các quyết định trực tiếp tới vận hành công ty. Thông qua đó có thể ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực và giảm thiểu rủi ro không đáng có cho công ty. Bằng cách này, quản trị công ty cũng đưa ra cơ cấu quản lý thông qua đó người ta thiết lập các mục tiêu của công ty và cả phương tiện để đạt được mục tiêu hay giám sát hiệu quả công việc(1). Khu vực kinh tế tư nhân được đánh giá là đang có xu hướng phát triển mạnh mẽ, trở thành thị trư ờng toàn cầu, chiếm vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Để đạt được hiệu quả trong kinh doanh, các công ty phải cố gắng có được lợi thế cạnh tranh bền vững, trong đó quản trị công ty giữ vai trò quan trọng. Quản trị tài chính trong công ty là điều hành hoạt động tạo lập vốn, quản lý vốn và phân phối lợi nhuận trong công ty. Đối với doanh nghiệp, vốn là yếu tố đặc biệt quan trọng trong sản xuất kinh doanh. Ngoài việc sử dụng vốn tự có, khi đủ các điều kiện vay vốn, doanh nghiệp còn phải sử dụng vốn vay, trong đó có vốn vay của ngân hàng, của các tổ chức tín dụng. Trên thực tế, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng nhận được sự hỗ trợ về vốn từ phía ngân hàng nên khi các doanh nghiệp muốn đầu tư máy móc, trang thiết bị, chuyển giao công nghệ sẽ phải huy động từ những kênh khác. Trước tình hình đó, hoạt động tín dụng thuê mua ra đời đã từng bước giải quyết những khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp. Muốn công ty hoạt động tốt, nâng cao hiệu quả kinh doanh thì quản trị tài chính trong công ty phải tốt. Quản trị tài chính trong công ty cho thuê tài chính (CTTC) là việc tạo lập, quản lý vốn, sử dụng vốn có hiệu quả, có chiến lược kinh doanh tốt, có cơ chế phân chia lợi nhuận phù hợp và hạn chế được rủi ro có thể 47NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01(233) T1/2013 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH TRONG CÖNG TY CHO THUÏ TAÂI CHÑNH ÚÃ VIÏÅT NAM DOÃN HỒNG NHUNG* * TS. Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. (1). Xem: OECD (1999, 2004), Principles of Corpo rate Governance, Paris: OECD. 48 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01(233) T1/2013 xảy ra trong những quyết định kinh doanh sử dụng vốn của công ty. Pháp luật về quản trị công ty là tập hợp các thiết chế, các quy phạm pháp luật nhằm vận hành và định hướng các hoạt động của công ty. Hệ thống quản trị điều hành phân định rõ quyền hạn, trách nhiệm của các thành viên công ty và dung hòa các xung đột tiềm ẩn, lợi ích tiềm năng. Đồng thời, quản trị công ty sẽ hạn chế những quy định không rõ ràng hoặc không tuân thủ các quy định về công bố thông tin không minh bạch, làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của công ty. Các bản báo cáo tài chính hoặc bản cáo bạch là sự thể hiện sự minh bạch hóa tình hình tài chính của công ty Việt Nam đang tích cực đổi mới với mục tiêu đẩy nhanh quá trình hội nhập nền kinh tế thế giới và khu vực trong xu hướng toàn cầu hoá. Để thực hiện mục tiêu chung của đất nước, các doanh nghiệp Việt Nam có nhu cầu rất lớn trong việc đầu tư máy móc, thiết bị nhằm phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. CTTC là nghiệp vụ cấp tín dụng trung và dài hạn có nhiều ưu điểm đáp ứng yêu cầu khách hàng. Chính vì vậy, chất lượng quản trị tài chính trong công ty CTTC sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển kinh doanh của công ty nói riêng và tới nền kinh tế thị trường nói chung. Muốn phát triển kinh doanh, quy chế quản trị tài chính cần được xây dựng sao cho có thể khuyến kích người quản trị có những hoạt động sáng tạo, linh hoạt, phát triển lợi ích cho công ty. Việc thiết lập phương thức quản trị phù hợp sẽ góp phần tạo ra sự phát triển ổn định và lâu dài cho công ty. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, CTTC được coi là hoạt động cấp tín dụng. Hoạt động cấp tín dụng dưới hình thức CTTC được quy định trong Luật các tổ chức tín dụng(2), Nghị định số 16/2001/NĐ- CP ngày 2/5/2001 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty CTTC (sau đây gọi tắt là Nghị định số 16)(3). Pháp luật về quản trị tài chính trong công ty CTTC ở Việt Nam là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong hoạt động cơ cấu điều hành công ty CTTC. Quản trị tài chính trong công ty CTTC là điều hành, sử dụng và kiểm soát vốn trong công ty CTTC để bảo đảm cho việc thực thi phù hợp với lợi ích của các thành viên góp vốn, nhà đầu tư, nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp và các cơ quan nhà nước. 2. Những nét đặc thù của pháp luật về quản trị tài chính trong công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 và Thông tư số 06/2005/TT-NHNN của Thống đốc Ngân hàng nhà nước quy định cụ thể về cơ cấu tổ chức tại Mục III khoản 16 thì công ty CTTC được thành lập dưới ba hình thức pháp lý: Công ty CTTC cổ phần; Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên và Công ty TNHH hai thành viên trở lên. Theo đó với mỗi hình thức thì quản trị điều hành công ty lại có những yêu cầu nhất định theo Luật Doanh nghiệp hiện hành. Các hoạt động CTTC của các công ty CTTC ra nước ngoài được thực hiện theo Nghị định số 16. Như vậy, công ty CTTC là tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam. Công ty CTTC được thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới năm hình thức là: 1) công ty CTTC nhà nước; 2) công ty CTTC cổ phần; 3) công ty CTTC trực thuộc của tổ chức tín dụng; 4) công ty CTTC liên doanh; 5) công ty CTTC 100% vốn nước ngoài. Riêng công ty CTTC liên doanh được THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT (2). Xem: Khoản 10 Điều 20 Luật các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12/12/1997 (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng số 20/2004/QH11 ngày 15/06/2004). (3). Xem: Điều 1 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 về tổ chức và hoạt động của công ti CTTC. thành lập bằng vốn góp giữa bên Việt Nam (gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng, doanh nghiệp Việt Nam) và bên nước ngoài (gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài) trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Công ty CTTC 100% vốn nước ngoài được thành lập bằng vốn góp của một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam. Tại mục 2 Nghị định số 16 quy định cơ cấu tổ chức, quản trị điều hành và kiểm soát của công ty CTTC. Theo đó, việc mở chi nhánh, văn phòng đại diện trong nước, ngoài nước của công ty CTTC phải được Ngân hàng nhà nước chấp thuận bằng văn bản. Việc thành lập công ty trực thuộc có tư cách pháp nhân, hạch toán độc lập của công ty CTTC để hoạt động trên một số lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bảo hiểm thực hiện theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Chính việc không thể tách bạch giữa người sở hữu công ty và người điều hành cho nên quản trị công ty cũng mang những sắc thái riêng so với công ty cổ phần hoặc các doanh nghiệp nhà nước. Về việc cấp tín dụng có thể thông qua hợp đồng cho thuê hai bên hoặc ba bên, hợp đồng đồng tài trợ(4). Những nét đặc thù về quản trị tài chính trong công ty CTTC được thể hiện thông qua các yếu tố sau: Thứ nhất, muốn xây dựng cơ chế tạo lập vốn, các công ty phải hoàn thiện chức năng và nhiệm vụ. Như vậy, vấn đề huy động vốn từ các khách hàng của công ty là vấn đề cần được cân nhắc, tính toán, nhất là về thời gian trả nợ. Mặc dù khách hàng không phải là thành viên của công ty nhưng sự tác động của họ đến sản xuất kinh doanh của công ty là không nhỏ. Họ cho công ty vay tiền, đến thời hạn công ty sẽ trả cho họ cả vốn và lãi. Thời hạn mà công ty CTTC vay của tổ chức, cá nhân thường là 13 tháng (trên một năm) nhưng thời hạn hợp đồng mà công ty kí kết với khách hàng thường phải từ 3 đến 5 năm hoặc lâu hơn vì bản chất của hoạt động CTTC là tín dụng trung và dài hạn. Nếu các khoản vay của công ty đồng loạt đến hạn thanh toán trong khi các hợp đồng chưa đáo hạn thì công ty cần có nguồn tài chính để duy trì hoạt động, số vốn phải gấp 2 lần vốn tự có của công ty và có thể nhiều hơn nữa. Riêng đối với phát hành trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và giấy tờ có giá khác có kì hạn trên một năm để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước phải được Thống đốc Ngân hàng nhà nước chấp thuận. Đây là vấn đề khó khăn về nhu cầu vốn đầu vào cho công ty để kinh doanh bởi nếu thiếu vốn sẽ hạn chế việc phát triển kinh doanh của công ty. Thứ hai, muốn quản lý vốn có hiệu quả, việc sắp xếp, điều hành thời gian tiếp nhận vốn vay, thanh toán nợ đến hạn sẽ giúp cho hoạt động kinh doanh của công ty hiệu quả hơn, tránh hiện tượng “no dồn đói góp”. Hoạt động CTTC trên lãnh thổ Việt Nam phải được thực hiện thông qua các công ty CTTC được thành lập và hoạt động tại Việt Nam(5). Công ty CTTC là loại hình tổ chức tín dụng phi ngân hàng, được thực hiện một số hoạt động ngân hàng như nội dung kinh doanh thường xuyên, được dùng nguồn vốn tự có, vốn huy động để CTTC(6). Chính vì vậy, việc quản lý vốn và phát triển vốn là hoạt động mang tính nghề nghiệp của công ty. Thứ ba, để quản trị tài chính trong công ty CTTC có hiệu quả, cần chú trọng quá trình sử dụng vốn trong công ty, cụ thể: Kiểm soát hoạt động của người nhận vốn là một trong những vấn đề được đặt lên hàng đầu. Kiểm soát hoạt động nhận vốn là 49NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01(233) T1/2013 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT (4). Xem: Phạm Thị Giang Thu, Về pháp luật điều chỉnh các hoạt động tài trợ của các tổ chức tín dụng, Tạp chí luật học số 1/2005, tr. 59 - 64. (5). Xem: Khoản 3 Điều 1 Nghị định của Chính phủ số 16/2001/NĐ-CP ngày 2/5/2001 về tổ chức và hoạt động của công ti CTTC. (6).Xem: Điều 20, Điều 61 Luật các tổ chức tín dụng năm 1997. công việc không thể thiếu để bảo đảm việc quản lý vốn và tài sản thuộc sở hữu của bên cho thuê. Đến hạn quy định trong hợp đồng, người thuê phải nộp tiền đầy đủ cho bên cho thuê. Nếu không nộp đúng hạn, người cho thuê có quyền chuyển số tiền thuê đó thành nợ quá hạn và áp dụng lãi phạt. Vì vậy, người quản lý trong doanh nghiệp nhận vốn (người quản lý tài sản, thiết bị trong doanh nghiệp nhận) cần phải là người có đạo đức nghề nghiệp và trình độ chuyên môn cao. Đăng kí tài sản CTTC. Để bảo toàn vốn, bảo vệ tài sản của công ty, việc đăng kí tài sản giúp cho tài sản, thiết bị không bị thất thoát, tranh chấp và dễ quản lý đồng thời tạo tâm lý yên tâm cho khách hàng của công ty- người đã bỏ vốn đầu tư để kinh doanh. Khi tiến hành quản lý trong lĩnh vực đăng kí tài sản CTTC, Chính phủ đã quy định: Cục đăng kí giao dịch bảo đảm giúp cho Bộ trưởng Bộ Tư pháp thực hiện việc quản lý nhà nước về đăng kí tài sản CTTC. Khi tiến hành các hoạt động CTTC, các công ty CTTC cần phải quản lý chặt chẽ tài sản cho thuê. Việc quy định đăng kí tài sản CTTC với góc độ công khai hoá thông tin về giao dịch thuê tài chính đối với người thứ ba có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo vệ quyền sở hữu của công ty CTTC. Khi tiến hành đăng kí tài sản, các quyền về tài sản của bên cho thuê được khẳng định đối với bên thuê và người thứ ba. Đối với các tài sản cho thuê trên cơ sở hợp đồng CTTC được kí kết trước ngày Thông tư số 04/2002/TT-BTP ngày 22/2/2002 của Bộ Tư pháp có hiệu lực thi hành (8/3/2002) mà vẫn còn thời gian thực hiện thì cũng phải đăng kí theo quy định của Thông tư. Cơ chế giám sát, kiểm tra đánh giá tình hình hoạt động của công ty. Một trong những yếu tố quan trọng, xuyên suốt hoạt động của công ty là thông tin. Các thông tin phải đảm bảo công khai, minh bạch, chính xác, khách quan. Thông tin cần phải được cung cấp cho khách hàng chính xác, nhanh chóng, thường xuyên, chân thực và hiệu quả. Thông tin có thể tiếp nhận bằng hai kênh chính là công bố công khai của công ty hoặc/và thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng (phát thanh, truyền hình, báo chí, internet...). Theo kênh thứ nhất, tất cả những thông tin có liên quan đến vấn đề quản trị vốn của công ty phải được công bố một cách kịp thời và chính xác. Chức năng của kiểm toán chuyên ngành và kiểm toán nội bộ phải được hoạt động nhịp nhàng, chính xác. Những thông tin đưa ra cần phải phản ánh đúng tình trạng tài chính của công ty, đảm bảo tiêu chuẩn về chất lượng các thông tin được đưa ra theo đúng quy tắc nghề nghiệp. Các kiểm toán cần phải tự chủ, độc lập và không chịu ảnh hưởng bởi các mối quan hệ khác với công ty. Theo kênh thứ hai, thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng là các thông tin có tác động mạnh mẽ, nhanh chóng, hiệu quả nhất với toàn dân. Khách hàng của công ty tuy không đóng vai trò điều hành, quản lý công ty nhưng sự chi phối của họ đối với hoạt động của công ty là vô cùng to lớn. Những thông tin không chính xác về tình hình hoạt động của công ty sẽ ảnh hưởng đến lưu lượng khách hàng, khả năng kinh doanh, uy tín của công ty, vốn quay vòng... Thông qua nắm bắt thông tin, xử lý thông tin, các cơ quan chức năng biết đến những thiếu sót, khó khăn để kiểm tra, xử lý, chấn chỉnh kịp thời những sai phạm, đưa ra những biện pháp khắc phục khó khăn... Kênh thông tin truyền thông chính là phương tiện đắc lực để có thể tăng hiệu quả quản trị kinh doanh, quản lý vốn, hạn chế được những rủi ro xảy ra đối với nguồn vốn đưa vào sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó nó làm tăng tính minh bạch, đảm bảo quyền lợi của các bên có liên quan đến hoạt động thuê mua ở Việt Nam. Nghĩa vụ bảo trì tài sản, thiết bị. Trong công ty CTTC ở Việt Nam hiện nay, chế độ bảo trì thuộc về khách hàng và được nhà 50 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01(233) T1/2013 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT cung cấp hỗ trợ kĩ thuật. Trung bình khoảng 3 tháng một lần, máy móc, thiết bị được bảo hành, bảo dưỡng tuân thủ theo các quy định, quy tắc sử dụng tài sản được nhà sản xuất quy định. Nội dung này đã được các bên thoả thuận trong hợp đồng. Chế độ thông tin, báo cáo, thống kê: Các báo cáo của công ty CTTC phải được thể hiện bằng tiếng Việt và số tiền thanh toán bằng đồng Việt Nam. Công ty CTTC phải thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, thống kê theo quy định hiện hành và hướng dẫn của Ngân hàng nhà nước, thông thường là hàng năm. Kiểm tra, giám sát, thu hồi tài sản thuê: Công ty có trách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng tài sản thuê của doanh nghiệp trong suốt thời hạn thuê. Mọi vi phạm trong quá trình sử dụng tài sản thuê phải được xử lý theo quy định của pháp luật. Tài sản cho thuê được thu hồi theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Nghị định số 16, nếu tài sản thu hồi là tài sản nhập khẩu của nước ngoài thì khi xuất khẩu không phải nộp thuế xuất khẩu. Trong trường hợp quyền sở hữu tài sản cho thuê được chuyển cho bên thuê khi kết thúc thời hạn thuê thông qua việc nhượng bán tài sản cho thuê, bên thuê không phải nộp thuế trước bạ. Trong hoạt động của công ty CTTC hiện thời, nhân viên khai thác thị trường tiếp xúc với khách hàng. Tại các phòng kinh doanh của công ty, các nhân viên theo dõi hợp đồng sẽ chính là người quản lý hợp đồng, quản lý số vốn mà doanh nghiệp đã cho thuê. Họ sẽ là người quản lý từ khi doanh nghiệp kí kết hợp đồng đến khi thanh lý hợp đồng. Họ có trách nhiệm quản lý, kiểm tra, giám sát tài sản, chịu trách nhiệm báo cáo những vấn đề phát sinh trong quá trình nhận vốn cho thuê đến khi thanh lý xong hợp đồng, chuyển sở hữu xong tài sản. 3. Một số hạn chế, bất cập của pháp luật về quản trị tài chính trong công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam. Như đã phân tích về những nét đặc thù riêng của pháp luật điều chỉnh hoạt động quản trị công ty CTTC cho thuê thì tại Điều 32 khoản 1,2 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 quy định về cơ cấu quản lý tổ chức tín dụng cụ thể như sau: “1. Cơ cấu tổ chức quản lý của tổ chức tín dụng được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần bao gồm Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc); 2. Cơ cấu tổ chức quản lý của tổ chức tín dụng được thành lập dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên bao gồm Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc)”. Như vậy, theo quy định này, cơ cấu quản trị điều hành công ty CTTC trách nhiệm hữu hạn một thành viên và hai thành viên trở lên là giống nhau. Cơ cấu đều bao gồm Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc). Riêng công ty CTTC cổ phần thì bổ sung thêm Đại hội đồng cổ đông thay cho Hội đồng thành viên hai loại hình kể trên và Hội đồng quản trị. Chúng ta nhận thấy cơ cấu quản trị điều hành ở công ty TNHH được quy định trong Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 có điểm chưa tương đồng với quy định của Luật Doanh nghiệp năm 2005. Trong Luật Doanh nghiệp năm 2005 quy định trong công ty TNHH một thành viên không cần có Hội đồng thành viên và Ban kiểm soát. Theo Điều 3 khoản 3 điểm a của Nghị định số 102/2010/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Doanh nghiệp năm 2005 thì cơ cấu quản trị điều hành của tổ chức tín dụng lại được áp dụng theo Luật các tổ chức tín dụng năm 2010. Qua quá trình thực tiễn làm việc và nghiên cứu cơ chế điều hành, quản lý của công ty CTTC, chúng tôi nhận thấy nhiều công ty thuộc Ngân hàng thương mại có Chủ tịch Hội đồng quản trị đồng thời là lãnh đạo “Ngân hàng mẹ”- Việc kiêm nhiệm như vậy thiếu sự giám sát chặt chẽ để dung hòa lợi ích. Việc kiêm nhiệm này rất dễ tạo ra những 51NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁPSöë 01(233) T1/2013 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT giao dịch tư lợi, thiếu minh bạch và có thể dẫn đến nhiều hậu quá vi phạm pháp luật. Đơn cử một vụ việc xảy ra năm 2011, trong lĩnh vực CTTC, Công ty CTTC II (ALC II), thuộc Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam - Agribank không thực hiện thẩm định hồ sơ trước khi cho thuê. Họ đã không kiểm tra chất lượng tài sản và xác định giá thiếu cẩn trọng. Trong quá trình đầu tư tài sản cho thuê, Công ty CTTC này đã có sai phạm như: mua tài sản không thuộc sở hữu của bên bán, xác định giá mua bán tài sản không có cơ sở, có dấu hiệu bất thường trong việc xác định giá mua tài sản (ví dụ như hồ sơ cho thuê xe cẩu của công ty TNHN xây dựng và thương mại Quang Vinh). Ngân hàng đã không quản lý chặt chẽ tiền giải ngân, cố ý để bên thuê chiếm dụng số tiền lớn, đơn cử như vụ đầu tư vào 5 tàu biển từ năm 2008 đến năm 2009 trị giá 451 tỉ đồng đã giải ngân hết trong khi khách hàng chưa có tàu bàn giao. Bên cạnh đó, chưa kể đến việc ALC II còn rất mạnh tay trong huy động vốn với mức huy động vượt trần lãi suất, thậm chí thoát ra khỏi hạn mức bảo lãnh của Agribank... Hệ lụy của hoạt động quản trị tài chính kém hiệu quả là một trong những nguyên nhân dẫn đến nhiều sai phạm, năm 2009 ALC II lỗ tới 3.004 tỉ đồng (gấp 8,5 lần vốn điều lệ), đưa công ty đến bờ vực phá sản và làm thất thoát số tiền của Nhà nước lên tới 4.617 tỉ đồng, tỉ lệ nợ xấu ở mức cao bằng 60,4% tổng dư nợ, tổng nợ phải trả lớn hơn tổng tài sản là 2.573 tỉ đồng, mất khả năng thanh khoản trầm trọng vào quý IV năm 2009 là 1.763 tỉ đồng và đến cuối năm 2010, ước tính mất khả năng thanh khoản ở mức hơn 6.600 tỉ đồng và có thể còn cao hơn thế nếu không có biện pháp thu hồi nợ tích cực. Ban kiểm soát đã hoạt động chưa hết chức năng của mình nên rủi ro xảy ra là điều khó tránh khỏi trong quá trình kinh doanh. 4. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả quản trị tài chính trong công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam Pháp luật cần có quy định rõ ràng, chặt chẽ về việc bổ nhiệm Chủ tịch Hội đồng quản trị. Chủ tịch Hội đồng quản trị không được trực tiếp là lãnh đạo ngân hàng mẹ. Đây là quy định nhằm tạo ra sự độc lập tương đối giữa “ngân hàng mẹ” và công ty CTTC. Pháp luật cần sửa đổi quy định trên mới có thể bảo vệ quyền tự chủ, tự quyết định của công ty CTTC. Trong thời gian tới, để khuyến khích hoạt động CTTC phát triển rộng khắp, chúng ta cần có các giải pháp vĩ mô trên phương diện quản lý nhà nước. Với xu thế phát triển của nền kinh tế Việt Nam hiện nay, chắc chắn trong những năm tới, nhu cầu về đổi mới trang thiết bị máy móc ngày càng cao, hoạt động CTTC sẽ là lĩnh vực đầy tiềm năng. Chính vì vậy, ngân hàng và tổ chức tín dụng Việt Nam trong đó có công ty CTTC phải chuẩn bị cho một cuộc cạnh tranh gay gắt. Dưới đây là một số kiến nghị, giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản trị tài chính trong công ty CTTC ở Việt Nam: Một là đảm bảo tính thống nhất cao trong các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động cho thuê. Pháp luật cần nâng vốn pháp định của công ty CTTC từ 150 tỷ VNĐ lên 500 tỷ VNĐ cho phù hợp với Nghị định số 10/2011/NĐ-CP sửa đổi bổ sung Nghị định số 141/2006/NĐ-CP của Chính phủ ban hành về vốn pháp định của các tổ chức tín dụng . Cần bổ sung các ưu đãi về thuế, về đối tượng thuê tài sản và phương thức thanh toán ngoại hối. Bởi lẽ bên đi thuê chỉ thanh toán số tiền thuê với công ty CTTC bằng tiền Việt Nam nhưng việc mua máy móc, thiết bị nhập khẩu lại phải thanh toán bằng ngoại tệ. Đây chính là giải pháp đảm bảo cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các công ty, ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước. Tăng cường tuyên truyền giới thiệu hoạt động CTTC cho các đối tượng kinh doanh. 52 NGHIÏN CÛÁULÊÅP PHAÁP Söë 01(233) T1/2013 THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT (Xem tiÕp trang 59)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfphap_luat_ve_quan_tri_tai_chinh_trong_cong_ty_cho_thue_tai_c.pdf
Tài liệu liên quan