Kết luận
Hải Phòng đang từng bước xây dựng và phát
triển thành thành phố cảng văn minh, hiện đại,
đầu mối giao thông quan trọng, cửa ngõ chính
vươn biển của các tỉnh phía Bắc; từng bước trở
thành một Trung tâm công nghiệp, dịch vụ hàng
hải và vận tải biển lớn của Việt Nam., là “bàn
đạp” tiến ra biển, là hậu phương hỗ trợ các hoạt
động trên biển thông qua các trung tâm kinh tế
biển, đảo; một cực tăng trưởng quan trọng của
vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ Trong xu thế
hội nhập, kinh tế hàng hải của Hải Phòng cần
tập trung phát triển nhanh, toàn diện hệ thống
đội tàu, dịch vụ cảng và logistics đồng bộ với hệ
thống cảng và công nghiệp đóng, sửa chữa tàu
theo hướng hiện đại trên cơ sở huy động sự tham
gia của nhiều thành phần kinh tế, tạo tiền đề
vươn ra đại dương. Đầu tư chiều sâu và mở rộng
quy mô các ngành kinh tế biển truyền thống,
thành phố chủ trương xây dựng nền kinh tế biển
xanh, tập trung mở rộng không gian thành phố
về phía biển. Chú trọng nâng cao hiệu lực quản
lý nhà nước về biển thông qua việc hoàn thiện tổ
chức bộ máy quản lý và nâng cao năng lực của
các cơ quan quản lý biển. Khuyến khích các nhà
đầu tư, các tập đoàn kinh tế có uy tín trong và
ngoài nước tham gia vào lĩnh vực xây dựng, khai
thác, sử dụng và phát triển kinh tế biển, đảo;.
Bên cạnh đó, chú trọng bảo tồn và phát triển bền
vững các hệ sinh thái biển; phòng, chống thiên
tai, ứng phó tác động tiêu cực của biến đổi khí
hậu và nước biển dâng.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 293 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển kinh tế biển Hải Phòng trong bối cảnh hội nhập quốc tế - Hiện trạng và tương lai, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
17
Tóm tắt
Việt Nam nằm phía Tây Biển Đông - có bờ biển
dài khoảng 3260 km, nằm trên đường hàng hải
đông đúc thứ hai trên thế giới, con đường chiến
lược về giao thương quốc tế giữa Ấn Độ Dương và
Thái Bình Dương, nơi tập trung nhiều nguồn tài
nguyên thiên nhiên, chiếm tới một phần ba toàn
bộ đa dạng sinh học biển thế giới. Tiềm năng,
thực tế đó đã và đang tạo nền tảng, cơ hội cho
Việt Nam từng bước trở thành quốc gia mạnh về
biển, làm giàu từ biển.
Kinh tế biển có vai trò hết sức quan trọng đối
với việc phát triển kinh tế - xã hội của Hải Phòng
nói riêng và cả nước nói chung. Trong bối cảnh
hội nhập quốc tế mạnh mẽ như hiện nay thì kinh
tế biển Hải Phòng càng giữ vai trò quan trọng và
đem lại nhiều đóng góp to lớn trong phát triển
kinh tế - xã hội theo hướng công nghiệp hoá-
hiện đại hoá, đảm bảo quốc phòng - an ninh, chủ
quyền biển, đảo.
I. đặt vấn đề
Hải Phòng là thành phố Cảng, là cửa chính ra
biển của vùng châu thổ sông Hồng và các tỉnh
phía Bắc, có tiềm năng đa dạng, phong phú để
phát triển kinh tế biển, có vị trí chiến lược, đóng
vai trò đặc biệt quan trọng để phát triển vùng
kinh tế trọng điểm Bắc bộ và miền Bắc, trong hợp
tác hai hành lang - một vành đai kinh tế giữa
Việt Nam và Trung Quốc và hội nhập với khu vực,
quốc tế. Vùng biển và dải ven biển thành phố có
vị trí đặc biệt về quốc phòng - an ninh. Trong
những năm qua, kinh tế biển Hải Phòng đã đóng
góp khoảng 30% vào GDP toàn thành phố, GDP
kinh tế biển Hải Phòng cũng chiếm khoảng hơn
30% GDP kinh tế biển - ven biển cả nước và có
tốc độ tăng trưởng kinh tế cao hơn tốc độ chung
vùng ven biển cả nước. Cảng Hải Phòng được xếp
vào nhóm các cảng quan trọng nhất trong 536
cảng biển của khu vực Đông Nam Á, đã từng bước
khẳng định vị thế là một thương cảng lớn có công
nghệ xếp dỡ hiện đại tiên tiến trong khu vực.
II. Thành tựu trong phát triển kinh tế biển hải phòng
1. Các hoạt động kinh tế biển
Kinh tế hàng hải:
Hệ thống cảng biển: Hiện nay, hệ thống cảng
Hải Phòng là một cụm cảng biển tổng hợp cấp
quốc gia, lớn thứ 2 ở Việt Nam và lớn nhất miền
Bắc, là cửa ngõ quốc tế của Việt Nam với 5 cửa
1 Cục Quản lý điều tra cơ bản Biển và Hải đảo.
2 Trường ĐH Tài nguyên và Môi trường HN.
Trần Tuấn Sơn1, Đỗ Diệu Linh2
18
sông lớn đổ ra biển, hệ thống cảng có chiều dài
42km với hơn 40 cảng và 69 cầu cảng, các chức
năng khác nhau, như vận tải hàng dời, vật tư,
sắt thép, container, chất hóa lỏng... Năm 2018,
dự kiến việc đưa cụm cảng Lạch Huyện cửa ngõ
quốc tế mới loại IA vào khai thác sẽ mang một
tầm vóc mới cho cảng biển Hải Phòng.
Vận tải biển: Trong vòng 5 năm trở lại đây mức
tăng trưởng tổng sản lượng thông qua cảng ước
tăng trưởng bình quân 12,72%/năm, sức vươn
của cảng Hải Phòng đã đóng góp nguồn lợi to lớn
cho đất nước.
Các đơn vị làm vận tải biển đã chú trọng đầu
tư phát triển đội tàu theo hướng trẻ hóa, chuyên
môn hóa, phù hợp với yêu cầu của thị trường
vận tải biển trong khu vực và quốc tế. Khu vực
Hải Phòng có khoảng 600 tàu biển đăng ký hoạt
động, chiếm 35,5% tổng số tàu đăng ký trong
toàn quốc, với tổng số tấn trọng tải 2,76triệu
DWT, chiếm 37% tổng trọng tải của đội tàu cả
nước. Số lượng tàu đăng ký hoạt động và số tấn
trọng tải tàu tăng cả về quy mô và chất lượng vận
chuyển, nhiều tàu có trọng tải trên 56.000 DWT
đã được đưa vào khai thác. Đội tàu biển tư nhân
phát triển nhanh. Nhiều tuyến vấn tải đi các nước
châu Âu, châu Mỹ, Úc đã được mở ra, đặc biệt
là tuyến vận tải hàng container, vận tải hàng khô
đã góp phần đưa hàng hóa Việt Nam xuất khẩu đi
thẳng các nước như Mỹ, Châu Âu, châu Phi...
Công nghiệp đóng tàu: Tính đến năm 2016,
toàn thành phố có 172 đơn vị tham gia đóng mới
và sửa chữa tàu biển (bao gồm các đơn vị hoạt
động đa ngành) tập trung tại các khu công nghiệp
ven biển, trong đó có 8 doanh nghiệp Trung
ương, 164 doanh nghiệp ngoài nhà nước với tổng
số lao động tham gia là 9.300 người, trong đó
lao động trong các doanh nghiệp Trung ương là
4,000 người.
Trình độ công nghệ của ngành công nghiệp
đóng tàu đạt mức trung bình tiên tiến của thế
giới. Các loại tàu đóng tại Hải Phòng khá đa dạng,
hiện đại với nhiều chủng loại: Tàu hàng khô (từ
6.500 DWT đến 53.000 DWT), các tàu chuyên
dụng (tàu lai dắt, tàu kéo, tàu đầy, tàu hoa tiếu,
tàu nghiên cứu, tàu hút bùn), tàu chở dầu, tàu
Container, tàu chở ô tô đến 150.000 DWT. Các
sản phẩm nói trên đủ sức cạnh tranh trên thị
trường quốc tế và đạt tiêu chuẩn và chất lượng
đăng kiểm quốc tế. Các sản phẩm đóng tàu được
xuất khẩu đến nhiều nước, gồm cả khách hàng
Nhật Bản, Anh và Hà Lan.
Tỷ lệ “nội địa hóa” sản phẩm tàu đóng mới đạt
tỷ lệ tương đối cao (ở mức 50-70%). Ngoài đóng
và sửa chữa tàu biển, công nghiệp phụ trợ cho
ngành đóng và sửa chữa tàu cũng phát triển khá
mạnh, như: Sơn tàu biển, sản phẩm vật liệu hàn,
sản phẩm nội thất tàu thủy, sản phẩm cơ khí tàu
thủy...
Kinh tế thủy sản:
Kinh tế thủy sản phát triển mạnh trên cả hai
lĩnh vực nuôi trồng và khai thác. Nuôi trồng thủy
sản phát triển theo hướng thâm canh và bán
thâm canh với các đối tượng nuôi có hiệu quả
kinh tế cao; năng lực khai thác thủy sản xa bờ
đã được tăng cường. Số cơ sở sản xuất, chế biến
thủy sản trên địa bàn thành phố chiếm 75% số
lượng trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, hệ
thống kho lạnh chiếm 50% sức chứa các kho lạnh
trong các cơ sở chế biến thủy sản ở miền Bắc,
đưa Hải Phòng trở thành địa phương có năng lực
chế biến thủy sản lớn nhất miền Bắc. Cơ sở dịch
vụ hậu cần thủy sản được tập trung củng cố, mở
rộng; các khu neo đậu tránh trú bão có tổ chức
quản lý được xây dựng với trang thiết bị ngày
càng hiện đại.
Năm 2016, GRDP lĩnh vực thủy sản trên địa
bàn thành phố đạt 2.687,8 tỷ đồng, chiến 2,034%
GRDP toàn thành phố và chiếm 30,8% tổng GRDP
nhóm ngành nông, lâm, thủy sản; tăng 1,34 lần
so với năm 2006. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản
đạt 50,83 triệu USD.
Sản phẩm thủy sản thành phố Hải Phòng đã có
mặt ở một số quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế
giới bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Hồng Kông,
Trung Quốc, EU, ASEAN,... tốc độ tăng trưởng giá
19
trị sản xuất thủy sản bình quân giai đoạn 2011-
2015 đạt 7,07%/năm, gấp hơn 2 lần tốc độ tăng
trưởng chung toàn ngành, trong đó: Giá trị khai
thác thủy sản tăng 6,55%.năm, giá trị nuôi trồng
và dịch vụ tăng 7,48%/năm, góp phần quan trọng
vào chiến lược phát triển kinh tế biển và bảo vệ
an ninh quốc phòng biển đảo của thành phố.
Du lịch biển:
Giai đoạn 2006-2016, lượng khách du lịch đến
Hải Phòng tăng bình quân 9,9%/năm, trong đó
lượng khách quốc tế tăng 3,3%/năm; năm 2017
Hải Phòng đón 6,7 triệu khách du lịch. Doanh
thu du lịch biển chiếm hơn 48% doanh thu của
toàn ngành du lịch. Nhiều dự án đầu tư phát triển
đã được triển khai như: Khu du lịch quốc tế Hòn
Dấu, Khu nghỉ dưỡng FLC Cát Bà với sự tham gia
đầu tư của các tập đoàn FLC, SunGroup Như
vậy, trong những năm qua du lịch biển của Hải
Phòng đã đạt được những thành công đáng khích
lệ, đã tích cực khai thác và phát huy lợi thế, tiềm
năng du lịch của thành phố. Tuy nhiên, du lịch
biển tại Hải Phòng còn nhiều hạn chế như: Doanh
thu du lịch biển chưa tương xứng với lợi thế, chưa
có cảng chuyên biệt cho tàu du lịch, tàu có trọng
tải lớn. Cơ sở hạ tầng vật chất của cầu cảng chưa
được đầu tư đúng mức, dịch vụ tại cảng còn hạn
chế không đáp ứng được nhu cầu của số lượng lớn
du khách, các khu dịch vụ ăn, nghỉ, vui chơi giải
trí chưa quy hoạch thống nhất, thiếu quy hoạch
các điểm neo đậu tàu, thuyền trên biển,...
2. Cơ sở hạ tầng
Kết cấu hạ tầng kinh tế biển:
Dự án cao tốc Hạ Long - Hải Phòng và cầu
Bạch Đằng kết nối Quảng Ninh - Hải Phòng - Hà
Nội sau hơn 3 năm triển khai xây dựng đã được
thông xe vào ngày 02/9/2018. Cầu Bạch Đằng có
vai trò quan trọng trong việc kết nối 3 sân bay
chính của khu vực Đồng bằng Bắc bộ gồm: Sân
bay Quốc tế Nội Bài, Sân bay Cát Bi và Sân bay
Vân Đồn sắp được đưa vào xây dựng.
Về xây dựng sân bay: Trên cơ sở quy hoạch chi
tiết Cảng hàng không Quốc tế Cát Bi được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt, Hải Phòng đã phê
duyệt dự án mở rộng khu bay; nhà ga Cảng hàng
không Quốc tế Cát Bi, hoàn thành và đưa vào sử
dụng từ tháng 01/2017. Đối với Cảng hàng không
quốc tế Hải Phòng tại Tiên Lãng, thành phố đang
tích cực chỉ đạo triển khai các thủ tục thực hiện
Dự án quai đê lấn biển Tiên Lãng để chuẩn bị
diều kiện cơ sở hạ tầng cho dự án cảng hàng
không quốc tế Hải Phòng.
Về đường bộ ven biển: Đã hoàn thành và đưa
vào sử dụng cầu Đình Vũ - Cát Hải từ tháng
9/2017, đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng từ
tháng 12/2015. Bên cạnh đó, đã cơ bản hoàn
thành Dự án cải tạo nâng cấp đường 356 (đoạn
2A) xuyên đảo Đình Vũ phục vụ cho hàng hóa ra
vào cảng được thuận tiện. Đã khởi công xây dựng
Tuyến đường bộ ven biển đoạn qua địa bàn thành
phố và 9 km trên địa phận tỉnh Thái Bình. Tiếp
tục nâng cấp tuyến đường xuyên đảo Hải Phòng
- Cát Bà.
Thành phố cũng tập trung đầu tư hệ thống kết
cấu hạ tầng kinh tế biển khác như: Hạ tầng Khu
kinh tế Đình Vũ - Cát Hải tạo ra những bước đột
phá về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), tạo động lực thúc đẩy đầu tư từ khu vực
trong nước; việc đầu tư cho phát triển hạ tầng
du lịch biển tiếp tục có những chuyến biến rõ
rệt, đóng góp quan trọng vào thay đổi diện mạo
ngành du lịch của thành phố. Đã quan tâm đầu
tư cho nhiều công trình hạ tầng thủy sản, đặc
biệt là các dự án về xây dựng khu hậu cần dịch
vụ nghề cá tại Trân Châu, Cát Bà và các khu neo
đậu, tránh trú bão tại Bạch Long Vỹ, Đồ Sơn, Kiến
Thụy, Thủy Nguyên...
Các khu kinh tế, khu công nghiệp và khu đô
thị ven biển:
Trên địa bàn hiện có 16 dự án Khu công nghiệp
với tổng diện tích 5.695ha được cấp Giấy chứng
nhận đầu tư, tăng thêm 5 dự án khu công nghiệp
(với diện tích 1.760ha) so với năm 2011, trong
đó có 10 dự án KCN đi vào hoạt động. Trong đó,
có Khu kinh tế Đình Vũ - Cát Hải, Khu đô thị mới
Bắc sông Cấm, Khu đô thị công nghiệp và dịch vụ
VSIP Hải Phòng, Khu CN Nam Đình Vũ, các dự án
phát triển dịch vụ du lịch và vui chơi giải trí như:
Khu vui chơi, giải trí nhà ở và công viên sinh thái
đảo Vũ Yên, Khu du lịch và nghỉ dưỡng cao cấp
Hòn Dấu (5.300 tỷ đồng)...
Hiện nay, các khu công nghiệp, kinh tế đã
được đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng đồng bộ,
gắn liền với công trình xử lý chất thải theo hướng
phát triển bền vững, tập trung lượng vốn lớn,
thu hút đầu tư, công nghệ; đẩy nhanh kim ngạch
xuất khẩu, phát triển kinh tế biển, mở rộng liên
kết vùng, các tỉnh Nam và Tây nam Trung Quốc
Đến năm 2017, thu hút FDI đạt 11,4 tỷ USD với
20
242 dự án; Nhật Bản đứng đầu về số lượng, Hàn
Quốc đứng đầu về vốn và quy mô dự án.
Việc hình thành các khu công nghiệp, đô thị
ven biển cùng nhiều dự án với quy mô đầu tư
lớn, có ý nghĩa không chỉ là trọng điểm trong việc
phát triển không gian đô thị của Hải Phòng, mà
còn mang tầm chiến lược cấp vùng và quốc gia;
sẽ thu hút lao động, làm dịch chuyển mạnh mẽ cơ
cấu kinh tế sang nhóm ngành công nghiệp - dịch
vụ (đặc biệt là cảng biển, công nghiệp cao, du lịch
biển), tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã
hội cho thành phố.
3. Môi trường biển và ven biển
Hiện nay, Hải Phòng đã phê duyệt 59 Kế hoạch
ứng phó sự cố tràn dầu của các cơ sở sản xuất,
kinh doanh xăng dầu cảng biển, cho phép 04 đơn
vị tổ chức hoạt động ứng phó sự cố tràn dầu trên
địa bàn thành phố.
Công tác quản lý bảo vệ môi trường, tài nguyên
thiên nhiên, phát triển bền vững các hệ sinh thái
biển tại khu vực quần đảo Cát Bà, Bạch Long Vỹ
luôn được quan tâm, chú trọng: lồng công tác
bảo vệ môi trường vào kế hoạch hành động về
đa dạng sinh học thành phố đến 2020, tầm nhìn
2030; phê duyệt các quy hoạch bảo tồn và phát
triển du lịch, kiện toàn bộ máy vườn Quốc gia Cát
Bà, thành lập khu bảo tồn biển Bạch Long Vỹ, lập
hồ sơ đề cử Khu bảo tồn biển Quốc gia Bạch Long
Vỹ là vườn di sản ASEAN
a. Kinh tế đảo
Huyện đảo Cát Hải: Theo Quyết định số 3044/
QĐ-UBND ngày 29/12/2005, Quy hoạch tổng thể
phát triển kinh tế-xã hội tới năm 2020 đã được
điều chỉnh, bổ sung phù hợp với định hướng phát
triển kinh tế tại Chiến lược biển. Du lịch biển đã
có sự tăng trưởng mạnh mẽ về cơ sở vật chất
và lượng khách. Năm 2017, toàn huyện có 180
khách sạn và nhà nghỉ với tổng số 2.800 phòng
nghỉ và 5.129 giường nghỉ, đón lượt khách du
lịch thứ 2 triệu. Đặc biệt, đã khởi công xây dựng
nhà máy ô tô Vinfast của tập đoàn Vingroup với
tổng mức đầu tư 3,5 tỷ USD.
Huyện đảo Bạch Long Vỹ: Cơ cấu kinh tế được
xác định là: Dịch vụ - công nghiệp - nông nghiệp,
theo mô hình trung tâm dịch vụ hậu cần thủy sản
trên biển.Giá trị sản xuất nông nghiệp, thủy sản
ước đạt 9,14 tỷ đồng, giá trị sản xuất công nghiệp
và xây dựng đạt 33,45 tỷ đồng, nhóm ngành dịch
vụ ước đạt 109,81 tỷ đồng. Thu nhập bình quân
đầu người đạt 4,24 triệu đồng/người/tháng.
Đối với các khu vực khác: Quy hoạch kinh tế-
xã hội các quận, huyện ven biển đã được phê
duyệt và đang được triển khai thực hiện. Hải
Phòng đã thực hiện việc tạm giao quản lý hành
chính trên biển; chỉ đạo việc lập quy hoạch chi
tiết sử dụng các vùng biển ven bờ phục vụ giao
khu vực biển sử dụng vào các mục đích phát triển
kinh tế biển.
4. Hạn chế trong phát triển kinh tế biển Hải
Phòng
Công tác lập, xây dựng và phê duyệt các quy
hoạch có liên quan đến phát triển kinh tế biển
nhìn chung còn chậm, chất lượng chưa đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ.
Hệ thống cơ sở, kết cấu hạ tầng chưa đáp ứng
được yêu cầu phát triển kinh tế biển do đòi hỏi
nguồn vốn đầu tư lớn, thu hồi chậm, nhiều công
trình gắn với quốc phòng, an ninh và đối ngoại
nên còn hạn chế trong thu hút từ các thành phần
kinh tế. Một số tập đoàn kinh tế lớn trong nước
(Vinalines, Vinashin) thất bại trong kế hoạch phát
triển khiến kinh tế hàng hải bị ảnh hưởng nghiêm
trọng.
Đầu tư cho khoa học - công nghệ, nguồn nhân
lực phục vụ phát triển các ngành kinh tế biển còn
rất khiêm tốn cả về số và chất lượng. Thiếu đề
xuất các cơ chế khuyến khích đầu tư, huy động,
tập trung nguồn lực.
Công tác phối hợp trong quản lý tổng hợp về
khai thác, sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường
biển, hải đảo hạn chế về dữ liệu, thông tin, thiếu
hệ thống, chưa thường xuyên và thống nhất.
Liên kết vùng, ngành trong phát triển du lịch
biển còn lỏng lẻo, kém hiệu quả.Hợp tác quốc tế
về biển có nhiều chuyển biến song chưa được coi
trọng và quan tâm đúng mức.
5. Đề xuất giải pháp nhằm tiếp tục phát triển kinh
tế biển Hải Phòng trong bối cảnh hội nhập quốc tế
a. Tăng cường tuyên truyền nhận thức về vị
trí, vai trò của biển, phát triển kinh tế biển và bảo
vệ môi trường biển.
b. Nâng cao hiệu quả công tác đối ngoại vàhội
nhập quốc tế về biển.
c. Chú trọng công tác quy hoạch phát triển
kinh tế-xã hội, xây dựng đô thị xanh, không gian
hướng biển phục vụphát triển ngành, lĩnh vực
kinh tế biển.
d. Hoàn thiện môi trường đầu tư, huy động mọi
21
nguồn vốn đầu tư cho phát triển kinh tế biển.
e. Chú trọng đầu tư, phát triển khoa học - công
nghệ, đào tạo nguồn nhân lực gắn với phát triển
kinh tế biển.
g. Tập trung đầu tư, hoàn thiện hệ thống kết
cấu hạ tầng kinh tế biển.
h. Xây dựng, hoàn thiện hệ thống văn bản
pháp luật và cơ chế, chính sách đối với phát triển
kinh tế biển.
i. Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế biển
với quốc phòng - an ninh, bảo vệ chủ quyền biển
đảo.
Iv. Kết luận
Hải Phòng đang từng bước xây dựng và phát
triển thành thành phố cảng văn minh, hiện đại,
đầu mối giao thông quan trọng, cửa ngõ chính
vươn biển của các tỉnh phía Bắc; từng bước trở
thành một Trung tâm công nghiệp, dịch vụ hàng
hải và vận tải biển lớn của Việt Nam..., là “bàn
đạp” tiến ra biển, là hậu phương hỗ trợ các hoạt
động trên biển thông qua các trung tâm kinh tế
biển, đảo; một cực tăng trưởng quan trọng của
vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ Trong xu thế
hội nhập, kinh tế hàng hải của Hải Phòng cần
tập trung phát triển nhanh, toàn diện hệ thống
đội tàu, dịch vụ cảng và logistics đồng bộ với hệ
thống cảng và công nghiệp đóng, sửa chữa tàu
theo hướng hiện đại trên cơ sở huy động sự tham
gia của nhiều thành phần kinh tế, tạo tiền đề
vươn ra đại dương. Đầu tư chiều sâu và mở rộng
quy mô các ngành kinh tế biển truyền thống,
thành phố chủ trương xây dựng nền kinh tế biển
xanh, tập trung mở rộng không gian thành phố
về phía biển. Chú trọng nâng cao hiệu lực quản
lý nhà nước về biển thông qua việc hoàn thiện tổ
chức bộ máy quản lý và nâng cao năng lực của
các cơ quan quản lý biển. Khuyến khích các nhà
đầu tư, các tập đoàn kinh tế có uy tín trong và
ngoài nước tham gia vào lĩnh vực xây dựng, khai
thác, sử dụng và phát triển kinh tế biển, đảo;...
Bên cạnh đó, chú trọng bảo tồn và phát triển bền
vững các hệ sinh thái biển; phòng, chống thiên
tai, ứng phó tác động tiêu cực của biến đổi khí
hậu và nước biển dâng.
TàI lIỆu Tham Khảo
1. Ban Tuyên giáo Trung ương (2010). Chiến
lược biển Việt Nam: Từ quan điển đến thực tiễn.
NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Báo cáo tổng hợp Đề án Tái cơ cấu ngành
nông nghiệp thành phố Hải Phòng theo hướng
nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững
đến năm 2020, định hướng đến năm 2030.
3. Cảng vụ Hàng hải Hải Phòng (2012). Báo
cáo tổng kết công tác quản lý hoạt động hàng hải
năm 2011 và phương hướng, nhiệm vụ năm 2012
tại khu vực cảng biển Hải Phòng.
4. PGS.TS Nguyễn Văn Cư (2010). Khoa học
và công nghệ phục vụ quản lý nhà nước tổng hợp
và thống nhất về biển và hải đảo ở nước ta. Tham
luận tại Hội nghị Khoa học và công nghệ phục vụ
quản lý nhà nước về biển và hải đảo, Đồ Sơn, Hải
Phòng.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Văn phòng Trung
ương Đảng, Hà Nội, 2016.
6. Chu Dức Dũng (2011). Chiến lược phát triển
kinh tế Biển Đông của một số nước Đông Á - Tác
động và những vấn đề đặt ra cho Việt Nam. Đề
tài Nhà nước.
7. Nghị quyết số 01/2009/NQ-HĐND ngày
06/05/2009 của Hội đồng nhân dân thành phố
Hải Phòng về phát triển kinh tế biển thành phố
Hải Phòng đến năm 2015, định hướng đến năm
2020.
8. Nghị quyết số 20/2015/NQ-HĐND ngày
18/12/2015 của Hội đồng nhân dân thành phố
Hải Phòng về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội,
quốc phòng an ninh thành phố 5 năm (2016-
2020).
9. Nghị quyết số 25/2015/NQ-HĐND ngày
18/12/2015 của Hội đồng nhân dân thành phố
Hải Phòng về việc thông qua Quy hoạch phát
triển kinh tế thủy sản thành phố Hải Phòng giai
đoạn 2016-2025, định hướng đến năm 2030.
10. Niêm giám thống kê Hải Phòng các năm
2012, 2013, 2014, 2015, 2016.
11. OECD (2016). The Ocean Economy in
2030.
12. Phát triển kinh tế và bảo vệ chủ quyền
biển, đảo Việt Nam - Ban Tuyên giáo Trung ương
232tr.
13. Quyết định số 1274/ QĐ-UBND ngày
02/8/2010 của UBND thành phố Hải Phòng về
việc phê duyệt Đề án Quy hoạch phát triển kinh
tế biển thành phố Hải Phòng định hướng đến
năm 2020.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_kinh_te_bien_hai_phong_trong_boi_canh_hoi_nhap_qu.pdf