Sáu là, về phía doanh nghiệp logistics: Chủ
động và tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh,
đầu tư công nghệ thông tin, phương tiện, đào tạo
và phát triển nguồn nhân lực chuyên nghiệp phù
hợp theo các chuẩn mực quốc gia, khu vực và
quốc tế để đáp ứng cho ngành logistics. Đối với
các DN sử dụng dịch vụ logistics nên tái cơ cấu
và xác lập bộ phận chuyên quản trị về logistics;
xác định rõ phương hướng phát triển của công ty
và xây dựng chiến lược nhất quán với Chính phủ
để tăng cường sức cạnh tranh. Nhất là các DN
cần phải đánh giá thực trạng, xác định thị trường
của mình và phát huy điểm mạnh để nâng cao
tính cạnh tranh. Đồng thời, hợp tác với các DN
XNK để tạo chuỗi cung ứng, nâng cao hiệu suất
hoạt động và chất lượng dịch vụ.
Phát triển dịch vụ logistics theo hướng 3PL
(dịch vụ trọn gói, tích hợp); thêm nhiều giá trị
gia tăng phục vụ khách hàng. Tăng cường khả
năng sử dụng công nghệ thông tin trong hoạt
động logistics. Thực hiện các phương pháp công
nghệ logistics tiên tiến như quản trị chuỗi cung
ứng (supply Chain management-SCM) hay giao
hàng đúng thời điểm (JIT), trong thiết kế luồng
vận tải nhiều chặng và sắp xếp các công đoạn
trong dây chuyền cung ứng dịch vụ logistics.
Bảy là, các doanh nghiệp dịch vụ logistics
Việt Nam cần phải có quan điểm logistics ngay
từ chính các doanh nghiệp, các doanh nghiệp
logistics Việt Nam cần phải làm ăn theo đúng
quy tắc của thị trường, phải liên kết hoạt động,
hợp tác, thiết lập mối quan hệ kinh tế cùng có
lợi, mỗi doanh nghiệp cần tập trung thế mạnh
của mình và sẽ thuê ngoài những dịch vụ không
phải thế mạnh của mình. Sự liên kết, phối hợp
hỗ trợ nhau là điều rất cần thiết cho các doanh
nghiệp Việt Nam.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 288 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển ngành dịch vụ Logistics Việt Nam trong bối cảnh hội nhập sâu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
21Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
1. Đặt vấn đề
Phát triển dịch vụ logistics sẽ đem lại nguồn
lợi khổng lồ cho nền kinh tế. Logistics là một
hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu
quả của quá trình này có tầm quan trọng quyết
định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp
và thương mại mỗi quốc gia. Sự phát triển dịch
vụ logistics có ý nghĩa đảm bảo cho việc vận
hành sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác được
đảm bảo về thời gian và chất lượng. Logistics
phát triển tốt sẽ mang lại khả năng giảm được
chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ.
2. Cơ hội và thách thức cơ bản cho phát
triển ngành logistics Việt Nam
2.1. Những cơ hội
Sau hơn 10 năm Việt Nam gia nhập WTO, thị
trường dịch vụ logistics Việt Nam có sự chuyển
biến tích cực với số lượng các doanh nghiệp hoạt
động trong ngành phát triển nhanh và có tốc độ
tăng trưởng cao. Nếu nhìn vào tốc độ phát triển
thương mại nước ta, cũng là mục tiêu phát triển
của ngành dịch vụ logistics, sẽ thấy kim ngạch
xuất nhập khẩu đã tăng lên 1,86 lần, thị trường
bán lẻ trong nước tăng bình quân 20 - 25%/năm
và kết quả, ngành dịch vụ logistics cũng tăng
tương ứng 20 - 25%/năm. Tuy nhiên, theo thống
kê cho thấy các công ty logistics Việt Nam mới
chỉ hoạt động trong phạm vi nội địa hay một vài
nước trong khu vực, và chủ yếu làm đại lý hoặc
đảm nhận từng công đoạn cho các doanh nghiệp
logistics quốc tế. Đây là một trong những cản
trở cho các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp
các dịch vụ trọn gói cho khách hàng. Mặc dù có
thể tính đến vai trò của các đại lý mà các công ty
Việt Nam thiết lập ở các quốc gia khác, nhưng
quan hệ này thường khá lỏng lẻo và không đồng
nhất.
Theo cam kết, Việt Nam thực hiện tự do hóa
dịch vụ logistics trong WTO và Hội nhập Asean
về logistics theo lộ trình 4 bước bao gồm:
(1) Tự do hóa thương mại, dỡ bỏ rào cản thuế
quan;
(2) Tạo cơ hội cho doanh nghiệp trong lĩnh
vực logistics;
(3) Nâng cao năng lực quản lý logistics;
(4) Phát triển nguồn nhân lực.
2.2. Những thách thức
Sau khi Việt Nam gia nhập WTO đã đưa
ra cam kết mở cửa hội nhập các phân ngành
logistics. Số lượng DN logistics tăng mạnh, từ
700 doanh nghiệp (DN) năm 2005 tăng lên hơn
1.200 DN vào năm 2012, với tốc độ phát triển
PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ LOGISTICS VIỆT NAM
TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP SÂU
Ths. Trần Hương Giang*
Ngày nhận bài: 4/9/2019
Ngày chuyển phản biện: 6/9/2019
Ngày nhận phản biện: 19/9/2019
Ngày chấp nhận đăng: 23/9/2019
Giai đoạn hiện nay, phát triển Logistics là một yếu tố quan trọng nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế. Bài viết
nghiên cứu những cơ hội để phát triển logistics tại Việt Nam trong bối cảnh hội nhập sâu rộng hiện nay.
• Từ khóa: logistics, phát triển logistics.
In the current period, Logistics development
is an important factor to promote economic
development. The paper examines opportunities
for logistics development in Vietnam in the current
context of extensive integration.
• Keywords: logistics, logistics development.
* Học viện Công nghệ Bưu chính, Viễn thông
TAØI CHÍNH VÓ MOÂSoá 10 (195) - 2019
22 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
dịch vụ từ 16 - 20%/năm. Hiện nay, nước ta có
khoảng 3.000 DN hoạt động trong ngành dịch
vụ logistics, trong đó khoảng 1.300 DN hoạt
động tích cực ở thị trường trong nước và nước
ngoài; khoảng 30 DN cung cấp dịch vụ logistics
xuyên quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam.
Các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp chủ
yếu các dịch vụ logistics nội địa, như dịch vụ
vận tải nội địa, vận tải đa phương thức, dịch vụ
cảng biển, cảng hàng không, dịch vụ kho bãi,
khai báo hải quan, giám định hàng hóa, kiểm
nghiệm hàng hóa, bốc dỡ hàng hóa và đảm
nhận một phần dịch vụ logistics quốc tế qua
làm đại lý cho các doanh nghiệp nước ngoài là
các chủ hàng, chủ tàu, các nhà cung cấp dịch vụ
logistics quốc tế thuê lại.
Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều hạn chế trong
ngành logistics từ nhiều năm qua vẫn chưa giải
quyết được như: Công tác quy hoạch giữa các
ngành liên quan vẫn còn chưa có sự kết nối chặt
chẽ với nhau; cơ sở hạ tầng giao thông, thương
mại, công nghệ thông tin còn yếu kém, chưa kết
nối được với các nước trong khu vực; nguồn
nhân lực cho hoạt động logistics còn chưa đáp
ứng được yêu cầu. Đặc biệt, năng lực cạnh tranh
của các DN kinh doanh dịch vụ logistics ở Việt
Nam còn chưa cao so với DN các nước trong
khu vực và thế giới...
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB)
năm 2018, chi phí logistcs tại Việt Nam ước tính
khoảng hơn 20% GDP hàng năm, cao hơn đáng
kể so với Thái Lan 18%, Trung Quốc hơn 19%,
Nhật Bản 11%, Mỹ gần 8% và Singapore 8%.
Chi phí logistics quá cao đã gián tiếp làm giảm
sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị
trường quốc tế.
Do vậy, chi phí logistics thấp sẽ góp phần
quan trọng vào việc thuận lợi hóa thương mại,
tạo giá trị gia tăng và nâng
cao năng lực cạnh tranh của
hàng hóa xuất nhập khẩu và
đánh giá trình độ phát triển
thương mại của một quốc
gia.
Nguyên nhân chính được
nhận định là: (1) Hệ thống
hạ tầng giao thông Việt
Nam đang thiếu và yếu so
với yêu cầu phát triển đất
nước, đặc biệt là đường bộ
chưa phát triển tương xứng
với tốc độ công nghiệp hóa,
đô thị hóa của nước ta, dẫn
đến tình trạng quá tải và
ùn ứ; (2) Đại đa số các doanh nghiệp
logistics Việt Nam hoạt động với quy
mô nhỏ, năng lực hạn chế, các mối liên
kết chưa hiệu quả, do đó khoảng 80% thị
phần logistics Việt Nam đang nằm trong
tay số lượng nhỏ doanh nghiệp logistics
nước ngoài; (3) Mặc dù các cơ quan quản
lý nhà nước đang thực hiện nhiều cải
cách nhằm tinh gọn thủ tục hành chính,
tạo thuận lợi cho thương mại, tuy nhiên
thực tế vẫn còn nhiều khó khăn về thủ
tục thông quan dẫn đến làm chậm tốc độ
luân chuyển hàng hóa, tăng chi phí của
2 | P a g e
phẩm, dịch vụ; phát huy lợi thế địa lý - chính trị trong phát triển cơ sở hạ tầng logistics như phát
triển cảng nước sâu, sân bay quốc tế, hệ thống đường sắt xuyên Á, các trung tâm logistics; Hội
nhập logistics tạo cơ hội cho Việt Nam phát triển quan hệ đối tác, thị trường xuất khẩu được mở
rộng, góp phần cơ cấu lại nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng...
2.2. Những thách thức
Sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới đã đưa ra cam kết mở cửa hội
nhập các phân ngành logistics. Số lượng DN logistics tăng mạnh, từ 700 doanh nghiệp (DN) năm
2005 tăng lên hơn 1.200 DN vào năm 2012 với tốc độ phát triển dịch vụ từ 16 - 20%/ ăm. Hiện
nay, nước ta có khoảng 3.000 DN hoạt động trong ngành dịch vụ logistics, trong đó khoảng 1.300
DN hoạt động tích cực vào thị trường trong nước và nước ngoài; khoảng 30 DN cung cấp dịch vụ
logistics xuyên quốc gia đang hoạt động tại Việt Nam.
Ở nước ta trong thời gian qua đã có những đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế,
mở rộng và phát triển thị trường quốc tế, nâng cao mức hưởng thụ của người tiêu dùng và chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của đất nước. Đồng thời, các cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính cũng
được các bộ, ngành quan tâm cải thiện tạo môi trường thông thoáng thuận lợi cho DN hoạt động
trong lĩnh vực logistics.
Bảng xếp hạng LPI của Việt Nam qua các năm
Nguồn: Ngân hàng Thế giới
Các doanh nghiệp Việt Nam cung cấp chủ yếu các dịch vụ logistics nội địa, như dịch vụ
vận tải nội địa, vận tải đa phương thức, dịch vụ cảng biển, cảng hàng không, dịch vụ kho bãi, khai
báo Hải quan, giám định, hun trùng hàng hóa, kiểm nghiệm hàng hóa, bốc dỡ hàng hóa và đảm
3 | P a g e
nhận một phần dịch vụ logistics quốc tế qua làm đại lý cho các doanh nghiệp nước ngoài là các
chủ hàng, chủ tàu, các nhà cung cấp dịch vụ logistics quốc tế thuê lại.
Bên cạnh đó, vẫn còn nhiều hạn chế trong ngành logistics từ nhiều năm nay vẫn chưa giải
quyết được như: Công tác quy hoạch giữa các ngành liên quan vẫn còn chưa có sự kết nối chặt chẽ
với nhau; cơ sở hạ tầng giao thông, thương mại, công nghệ thông tin còn yếu kém, chưa kết nối
được với các nước trong khu vực; nguồn nhân lực cho hoạt động logistics còn chưa đáp ứng được
yêu cầu. Đặc biệt, năng lực cạnh tranh của các DN kinh doanh dịch vụ logistics ở Việt Nam còn
chưa cao so với DN các nước trong khu vực và thế giới....
Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới (WB) năm 2018, chi phí logistcs tại Việt Nam ước
tính khoảng hơn 20% GDP hàng năm, cao hơn đáng kể so với Thái Lan 19%, Trung Quốc hơn
16%, Nhật Bản 11%, Mỹ gần 8% và Singapore 8%. Chi phí logistics quá cao đã gián tiếp làm
giảm sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên thị trường quốc tế.
Do vậy, chi phí logistics thấp sẽ góp phần quan trọng vào việc thuận lợi hóa thương mại,
tạo giá trị gia tăng và nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa xuất nhập khẩu và đánh giá
trình độ phát triển của thương mại của một quốc gia.
Nguyên nhân chính được nhận định là: (1) hệ thống hạ tầng giao thông Việt Nam đang
thiếu và yếu so với yêu cầu phát triển đất nước, đặc biệt là đường bộ chưa phát triển tương xứng
với tốc độ công nghiệp hóa, đô thị hóa của nước ta, dẫn đến tình trạng quá tải và ùn ứ; (2) đại đa
số các doanh nghiệp logistics Việt Nam hoạt động với quy mô nhỏ, năng lực hạn chế, các mối liên
kết chưa hiệu quả do đó khoảng 80% thị phần logistics Việt Nam đang nằm trong tay số lượng nhỏ
TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Soá 10 (195) - 2019
23Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
doanh nghiệp; (4) Vận tải biển nội địa chưa phát
huy hết tiềm năng để giảm tải cho vận tải đường
bộ; (5) Sự liên kết giữa các cảng và dịch vụ hậu
cảng (như kho, bãi, trung tâm logistics) còn hạn
chế do thiếu các ứng dụng công nghệ cao trong
quản lý khai thác logistics, dẫn đến chi phí phải
trả của ngành cao; (6) Nguồn nhân lực cũng là
yếu tố hạn chế để phát triển logistics Việt Nam.
Bởi nguồn nhân lực hiện tại cũng chỉ đáp ứng
theo quy mô của doanh nghiệp và việc đào tạo
nguồn nhân lực cho ngành này chưa đáp ứng
được nhu cầu do thiếu các cơ sở đào tạo chuyên
sâu chất lượng cao.
Thực tế doanh nghiệp Việt Nam hiện nay
hầu hết chưa cung cấp được dịch vụ logistics
hoàn chỉnh theo đúng nghĩa của nó. Hoạt động
logistics chưa tạo thành một chuỗi liên tục trong
chuỗi cung ứng. Thách thức về ứng dụng công
nghệ thông tin và thương mại điện tử: Trong
hoạt động giao nhận vận tải, việc sử dụng các
ứng dụng công nghệ thông tin trong giao dịch
và quản trị là một yếu tố quan trọng, đánh giá độ
tin cậy và năng lực của doanh nghiệp logistics.
Các doanh nghiệp Việt Nam thường quản lý thủ
công, mức độ ứng dụng công nghệ thông tin còn
thấp. Các nhà cung cấp dịch vụ logistics hàng
đầu thế giới đang hoạt động ở Việt Nam như
APLL, Maesk Logistics sử dụng những ứng dụng
chuyên dụng để quản lý và cung cấp cho khách
hàng khả năng nhìn thấy và kiểm soát đơn hàng
(visibility) ở bất kỳ thời điểm nào. Mức độ ứng
dụng thương mại điện tử (bao gồm cả trao đổi
EDI và vận đơn điện tử, chứng từ điện tử) của
các doanh nghiệp Việt Nam yếu và thua kém so
với các doanh nghiệp logistics nước ngoài, chưa
có khả năng liên kết với các mạng lưới dịch vụ
logistics khác. Do vậy, doanh nghiệp logistics
Việt Nam chỉ có thể làm các dịch vụ đơn lẻ cho
các doanh nghiệp logistics nước ngoài.
Chúng ta còn phải đối mặt với thách thức về
nguồn nhân lực. Tại Việt Nam, hiện chưa có cơ
sở đào tạo chuyên nghiệp về logistics. Nguồn
nhân lực của doanh nghiệp logistics Việt Nam
chủ yếu là tự đào tạo theo kinh nghiệm thực tế,
mức độ chuyên nghiệp còn kém. Khi thị trường
bùng nổ, các doanh nghiệp logistics sẽ phải đối
diện thêm với xu hướng thiếu hụt nhân lực giỏi
do sức hút của các doanh nghiệp nước ngoài
hoặc tự tách ra thành lập công ty riêng. Thách
thức về cơ chế chính sách quản lý và hạ tầng
logistics: Việc quản lý các hoạt động logistics
không nhất quán, còn chồng chéo. Mỗi Bộ quản
lý một khâu đoạn như thuế và hải quan do Bộ
Tài chính quản lý, vận tải và hạ tầng do Bộ Giao
thông Vận tải, xúc tiến thương mại do Bộ Công
Thương phụ trách
3. Định hướng và giải pháp cơ bản phát
triển dịch vụ logistics Việt Nam
3.1. Định hướng phát triển dịch vụ logistics
đến năm 2025 và các năm tiếp theo
Cần có chiến lược phát triển cũng như các
chính sách hỗ trợ cho ngành logistics. Hoàn
thiện khung pháp lý logistics minh bạch, phù
hợp xu thế phát triển hiện nay, tạo thuận lợi
thương mại và thúc đẩy phát triển ngành dịch vụ
logistics Việt Nam. Bên cạnh đó, cần cải cách
thủ tục hải quan, thực hiện một cửa quốc gia,
điện tử hóa khai hải quan, ứng dụng thương mại
điện tử, cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo
điều kiện cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu và
doanh nghiệp dịch vụ logistics cắt giảm chi phí,
nâng cao lợi thế cạnh tranh. Với việc thực hiện
các chiến lược ưu tiên sau đây:
+ Chiến lược giảm chi phí logistics ở Việt
Nam (can thiệp vào các điểm hạn chế của chuỗi
cung ứng như năng suất của các cảng, kho bãi
và điểm trung chuyển; quy hoạch vận tải đa
phương thức thúc đẩy phát triển nhanh hơn các
phương thức vận tải hàng hóa có chi phí thấp;
xác định các cơ hội cải tạo các sản phẩm xuất
khẩu cụ thể).
+ Chiến lược đào tạo nguồn nhân lực ngành
logistics một mặt nhằm đáp ứng nhanh nhu
cầu nhân lực qua đào tạo cho ngành, mặt khác
đẩy nhanh chương trình đào tạo các chuyên gia
logistics có kỹ năng ứng dụng và triển khai các
thực hành quản trị logistics và chuỗi cung ứng
theo kịp các nước công nghiệp phát triển.
+ Chiến lược tái cấu trúc logistics, trong đó
có kế hoạch thúc đẩy sự tăng trưởng những nhà
cung ứng dịch vụ logistics bên thứ ba (3PLs)
trong nước, xem đây là tiền đề phát triển thị
trường dịch vụ logistics tại Việt Nam. Dịch
vụ logistics hướng đến dịch vụ trọn gói 3PL
(integrated third party logistics service) là chiến
TAØI CHÍNH VÓ MOÂSoá 10 (195) - 2019
24 Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
lược cạnh tranh để phát triển thị trường dịch vụ
logistics của nước ta ngang tầm khu vực và thế
giới cần được định hướng và hỗ trợ từ phía Nhà
nước, các ngành có liên quan.
+ Thúc đẩy và gắn kết công nghệ thông tin
trong logistics, đặc biệt khâu thủ tục hải quan và
tại biên giới (tăng cường tổ chức, thúc đẩy tiêu
chuẩn hóa trong khai thác như chứng từ, tiêu
chuẩn công nghệ, phát triển các cổng thông
tin logistics, EDI, e-logistics). Phát triển
logistics điện tử (e-logistics) cùng với thương
mại điện tử và quản trị chuyền cung ứng an toàn
và thân thiện là xu hướng thời đại.
3.2. Giải pháp phát triển ngành dịch vụ
logistics Việt Nam đến năm 2025 và các năm
tiếp theo
Một là, rà soát các quy hoạch, kế hoạch, bảo
đảm tính đồng bộ kết nối của hạ tầng giao thông
và dịch vụ vận tải với mục tiêu phát triển ngành
dịch vụ logistics, gắn kết quy hoạch về trung
tâm logistics, cảng cạn, kho ngoại quan trong
một tổng thể thống nhất. Tăng cường hơn nữa
việc phối hợp xây dựng, hoàn thiện cơ sở hạ
tầng giao thông, các trung tâm logistics và hạ
tầng công nghệ thông tin theo hướng bền vững
trong mối liên kết các vùng kinh tế trọng điểm
và các hành lang kinh tế của nước ta một cách
đồng bộ, kết nối được với các nước trong khu
vực và trên thế giới.
+ Tăng cường tạo thuận lợi thương mại có
thể là một yếu tố quyết định. Các xu hướng toàn
cầu cho thấy lợi ích có được từ tăng cường tạo
thuận lợi thương mại có thể lớn hơn nhiều lợi
ích từ giảm thuế quan, đặc biệt khi mà mức thuế
quan hiện đã khá thấp ở phần lớn các lĩnh vực.
Cần có sự đồng bộ, phối hợp tốt hơn, tập trung
vào các giải pháp chính sách nhằm rà soát, hợp
lý hóa biện pháp, quy trình, áp dụng tự động
hóa, nhất là cơ chế một cửa quốc gia, bãi bỏ các
quy định về kiểm tra nhiều lần, thực hiện quản
lý dựa trên đánh giá rủi ro trong các cơ quan
kiểm tra chuyên ngành, cũng như tăng cường
tính minh bạch.
+ Để thành công, một đòi hỏi quan trọng
là phải có sự phối hợp, cộng tác liên ngành
với doanh nghiệp. Để thực hiện thành công
chương trình hành động đa ngành rõ ràng cần
sự cam kết của tất cả các cơ quan và một cơ chế
phối hợp liên ngành có sự chỉ đạo sát sao của
Chính phủ.
Hai là, tăng cường kết nối, phát triển hợp
lý các phương thức vận tải, vận tải đa phương
thức và dịch vụ logistics; đẩy mạnh tái cơ cấu
thị trường vận tải nội địa theo hướng giảm thị
phần vận tải bằng đường bộ, tăng thị phần vận
tải bằng đường sắt và đường thủy nội địa, đặc
biệt là trên các hành lang vận tải chính; thị phần
vận tải hàng hóa liên tỉnh đường bộ đến năm
2020 khoảng 54,4%, đường sắt 4,3%, đường
thủy nội địa 32,4%; đầu tư mở rộng hạ tầng
logistics nhằm kết nối các cảng của Việt Nam
với các nước láng giềng; xây dựng công trình
giao thông, kho bãi, trung tâm logistics trên các
tuyến đường, hành lang kết nối các cảng của
Việt Nam với Lào, Campuchia, Thái Lan và
Nam Trung Quốc; tăng cường cơ sở vật chất,
trang thiết bị bốc xếp và hệ thống kho bãi đáp
ứng yêu cầu của vận tải đa phương thức và dịch
vụ logistics; nâng cao năng lực vận chuyển hàng
hải, tăng lưu lượng hàng hóa vận chuyển bằng
đường biển; điều chỉnh quy hoạch hệ thống cảng
biển theo hướng tập trung phát triển lợi thế kinh
tế vùng; nâng cao chất lượng dịch vụ của đội tàu
Việt Nam... tăng cường phát triển vận tải đường
sông và các tuyến vận tải ven biển.
Ba là, kiến nghị, đề xuất các giải pháp nhằm
đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao, phong cách làm việc chuyên nghiệp trong
hoạt động logistics, sẵn sàng thích ứng với tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế. Do thực tế hiện
nay việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng còn
thấp, chưa đáp ứng đủ yêu cầu và nhu cầu của
DN. Chủ yếu các DN phải đào tạo lại và tự đầu
tư bổ sung kiến thức cho nhân lực hiện có của
mình.
Bốn là, về mặt thể chế Nhà nước: Cần có
“bàn tay hữu hình” của Nhà nước, thành lập Ủy
ban quốc gia logistics trong giai đoạn hiện nay
để gắn kết, thống nhất quản lý, tổ chức thực hiện
những chương trình trọng điểm và phối hợp các
ngành hiệu quả hơn.
Tái cấu trúc logistics, khuyến khích áp
dụng rộng rãi quản trị chuỗi cung ứng, quản
trị logistics trong các doanh nghiệp thuộc mọi
TAØI CHÍNH VÓ MOÂ Soá 10 (195) - 2019
25Taïp chí nghieân cöùu Taøi chính keá toaùn
thành phần, khuyến khích việc thuê ngoài
(outsourcing) logistics, điều chỉnh và bổ sung
luật, chính sách nhằm tạo điều kiện phát triển
hoạt động dịch vụ logistics cũng như các doanh
nghiệp 3PL trong nước; gỡ bỏ các hạn chế, cản
trở để các công ty 3PL, 4PL nước ngoài hoạt
động thuận lợi hơn; có chính sách hỗ trợ đào
tạo các chuyên viên logistics; triển khai các hệ
thống EDI và hệ thống giao dịch không giấy tờ
tại các điểm hải quan, cửa khẩu, cải cách hành
chính và minh bạch trong các dịch vụ công
Năm là, về phía các hiệp hội ngành: Tạo mối
gắn kết giữa hiệp hội và thành viên, hỗ trợ tư
vấn thiết thực và giúp đỡ doanh nghiệp nâng cao
tính chuyên nghiệp, đạo đức trong cạnh tranh.
Khuyến khích sự cộng tác giữa các thành viên
trên cơ sở sử dụng lợi thế từng doanh nghiệp (cơ
sở vật chất, trang thiết bị, hệ thống thông tin)
để thực hiện dịch vụ trọn gói, mở rộng tầm hoạt
động trong nước và quốc tế. Có chương trình
đẩy mạnh quá trình liên kết, xúc tiến phát triển
thị trường mua bán, sáp nhập doanh nghiệp dịch
vụ logistics. Thành lập Ủy ban Quốc gia về
logistics, là cơ quan chịu trách nhiệm làm đầu
mối thực thi các chương trình, mục tiêu chung
của ngành, tham gia tư vấn quy hoạch và chiến
lược tổng thể phát triển logistics của Việt Nam
đến năm 2025 và tầm nhìn 2035. Đầu tư, nâng
cấp cơ sở vật chất hạ tầng đồng bộ, nhằm đáp
ứng nhu cầu phát triển ngày càng lớn của ngành
logistics. Theo đó, cần sớm hoàn thiện cảng,
cảng thông quan nội địa, đường bộ, kho bãi,
trang thiết bị và các định chế có liên quan.
Sáu là, về phía doanh nghiệp logistics: Chủ
động và tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh,
đầu tư công nghệ thông tin, phương tiện, đào tạo
và phát triển nguồn nhân lực chuyên nghiệp phù
hợp theo các chuẩn mực quốc gia, khu vực và
quốc tế để đáp ứng cho ngành logistics. Đối với
các DN sử dụng dịch vụ logistics nên tái cơ cấu
và xác lập bộ phận chuyên quản trị về logistics;
xác định rõ phương hướng phát triển của công ty
và xây dựng chiến lược nhất quán với Chính phủ
để tăng cường sức cạnh tranh. Nhất là các DN
cần phải đánh giá thực trạng, xác định thị trường
của mình và phát huy điểm mạnh để nâng cao
tính cạnh tranh. Đồng thời, hợp tác với các DN
XNK để tạo chuỗi cung ứng, nâng cao hiệu suất
hoạt động và chất lượng dịch vụ.
Phát triển dịch vụ logistics theo hướng 3PL
(dịch vụ trọn gói, tích hợp); thêm nhiều giá trị
gia tăng phục vụ khách hàng. Tăng cường khả
năng sử dụng công nghệ thông tin trong hoạt
động logistics. Thực hiện các phương pháp công
nghệ logistics tiên tiến như quản trị chuỗi cung
ứng (supply Chain management-SCM) hay giao
hàng đúng thời điểm (JIT), trong thiết kế luồng
vận tải nhiều chặng và sắp xếp các công đoạn
trong dây chuyền cung ứng dịch vụ logistics.
Bảy là, các doanh nghiệp dịch vụ logistics
Việt Nam cần phải có quan điểm logistics ngay
từ chính các doanh nghiệp, các doanh nghiệp
logistics Việt Nam cần phải làm ăn theo đúng
quy tắc của thị trường, phải liên kết hoạt động,
hợp tác, thiết lập mối quan hệ kinh tế cùng có
lợi, mỗi doanh nghiệp cần tập trung thế mạnh
của mình và sẽ thuê ngoài những dịch vụ không
phải thế mạnh của mình. Sự liên kết, phối hợp
hỗ trợ nhau là điều rất cần thiết cho các doanh
nghiệp Việt Nam.
4. Kết luận
Như vậy, chúng ta có thể thấy vai trò to lớn
của ngành logistics đối với nền kinh tế toàn
cầu, thúc đẩy sự phát triển thương mại quốc
tế, giảm bớt chi phí và thủ tục vận chuyển, lưu
thông hàng hóa. Ở nước ta hiện nay, dịch vụ
logistics cũng đã có những đóng góp không nhỏ
với nền kinh tế. Tuy nhiên, kinh nghiệm cũng
như cơ sở vật chất làm logistics còn yếu, vì
vậy trong tương lai, việc đầu tư cả về vật chất
lẫn nhân lực trong ngành này là điều cần được
chú trọng.
Tài liệu tham khảo:
Giáo trình nghiệp vụ vận tải, Trường Đại học GTVT,
NXB GTVT 2013.
Thông tin tại Hội nghị logistics toàn quốc, tháng 4/2018.
Hoàng Anh Dũng, Chuyên gia cao cấp WB tại Việt Nam-
Thách thức và cơ hội của Logistics Việt Nam (12.2012).
Kriensak Rabiwongse, Director, Transport Planning
Division, Office of the Prime Minister, Thailand-Multimodal
Transport as a mean to enhance national competitiveness,
National Workshop on Multimodal Transport Operations,
Hanoi 14-18/3/2011.
TAØI CHÍNH VÓ MOÂSoá 10 (195) - 2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_nganh_dich_vu_logistics_viet_nam_trong_boi_canh_h.pdf