Thứ tư, mở rộng về số lượng và nâng cao về
chất lượng của các công ty MBN
Số lượng các công ty MBN ở Việt Nam hiện
nay còn ít vì nhiều lí do, và một trong số đó là do
quy định về vốn điều lệ của các tổ chức, cá nhân
khi tham gia thị trường MBN theo nghị định
69/2016/NĐ-CP. Quy định này cần phải được
nới lỏng hơn tạo điều kiện cho những đơn vị có
khả năng tài chính thấp hơn vẫn có khả năng
tham gia thị trường để mua bán những khoản nợ
quy mô không lớn. Góp phần mở rộng số lượng
các công ty MBN trên thị trường và giải quyết
được phần nào quy mô nợ xấu ngày càng gia
tăng trong nền kinh tế.
Thứ năm, đa dạng hóa các chủ thể tham gia
thị trường MBN.
Thị trường MBN Việt Nam mới chỉ có các
chủ thể cơ bản tham gia vào thị trường. Do vậy,
để thúc đẩy thị trường phát triển theo hướng
chuyên nghiệp thì cần có sự tham gia của nhiều
chủ thể khác và đặc biệt là các đơn vị trung gian
như: các công ty hay chuyên gia tư vấn; công ty
môi giới, các công ty định giá tài sản .Và đặc
biệt là sự tham gia của các đơn vị thực hiện hoạt
động xếp hạng tín nhiệm. Đây là các doanh
nghiệp cung cấp thông tin cho ph p người mua
và người bán nợ có thể định giá các khoản nợ
một cách tương đối chính xác và có độ tin tưởng
cao. Mặt khác, chúng ta cũng cần đẩy mạnh thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị
trường MBN Việt Nam để góp vốn kinh doanh,
chia sẻ thông tin, cùng nhau hợp tác để tiến dần
vào TTMBN quốc tế.
5 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 15/01/2022 | Lượt xem: 329 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phát triển thị trường mua bán nợ tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019)
75
PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG MUA BÁN NỢ TẠI VIỆT NAM
Lê Thị Thu Phương
Tóm tắt
Thị trường mua bán nợ tại Việt Nam hiện nay còn rất nhiều trở ngại và bất cập. Số lượng chủ thể tham
gia, danh mục hàng hóa, cấu trúc thị trường và kết quả các giao dịch trên thị trường còn khiêm tốn.
Trong khi đó, quy mô và tính chất các khoản nợ xấu ngày càng gia tăng. Các khoản nợ này không chỉ ở
trong nước mà còn mang màu sắc quốc tế. Mục tiêu của bài viết này nhằm phân tích thực trạng hoạt
động của thị trường mua bán nợ Việt Nam hiện nay. Từ đó, đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động của thị trường mua bán nợ Việt Nam.
Từ khóa: Mua bán nợ, ngân hàng thương mại, doanh nghiệp.
THE DEVELOPMENT OF DEBT TRADING MAKET IN VIETNAM
Abstract
Debt trading activities in Vietnam currently have many obstacles and inadequacies. The number of
participants, the product portfolio, the market structure and transactions are still relatively restricted.
Meanwhile, the scale and nature of the non-performing loans are increasing, not only domestically but
also internationally. The objective of this article is to analyze the actual status of the Vietnam debt
trading market; then, propose a number of solutions to improve the operational efficiency of the debt
trading market in Vietnam.
Key word: Debts trading, merchant bank, business.
JEL classification: G; G17
1. Đặt vấn đề
Ở Việt Nam hiện nay, quy mô nợ xấu ngày
càng tăng cao, ảnh hưởng rất lớn đến an ninh tài
chính quốc gia. Theo số liệu mà Ngân hàng Nhà
nước đã công bố, thì tỷ lệ nợ xấu nội bảng chiếm
2,09% vào tháng 6/2018. Tuy nhiên, tỷ lệ này lại
chưa tính đến các khoản nợ được cơ cấu lại, các
khoản nợ xấu tiềm ẩn. Để xử lý một cách có hiệu
quả các khoản nợ xấu trên thì việc ra đời thị
trường mua bán nợ là vấn đề tất yếu. Quyết định
số 150/2001/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ
được coi là cơ sở, là nền tảng cho sự hình thành
thị trường mua bán nợ (TTMBN) tại Việt Nam.
Ban đầu là sự hình thành các Công ty quản lý nợ
và khai thác tài sản của các ngân hàng thương
mại (AMC). Nhiệm vụ chính của các AMC
thường là triển khai các hoạt động thu hồi nợ mà
các ngân hàng (NH) của mình ủy thác. Đến tháng
6/2003, Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng
của doanh nghiệp (nay là Công ty TNHH Mua
bán nợ Việt Nam - DATC) được thành lập theo
quyết định số 109/2003/QĐ-TTg. DATC được
thành lập với mục tiêu xử lý các khoản nợ tồn
đọng và tài sản không cần dùng, chờ thanh lý,
vật tư ứ đọng góp phần lành mạnh hóa tình hình
tài chính, thúc đẩy quá trình sắp xếp và chuyển
đổi các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Như
vậy, DATC được thành lập mới chỉ nhằm mục
đích là giải quyết các khoản nợ xấu cho các
DNNN trong quá trình cổ phần hóa. Tháng
10/2013, sự ra đời của Công ty quản lý Tài sản
của các TCTD Việt Nam (VAMC) ra đời tạo ra
một tín hiệu tốt cho sự phát triển của thị trường
mua bán nợ Việt Nam. Tuy nhiên, sau một thời
gian hoạt động, các công ty MBN trên vẫn chưa
tạo được sự khởi sắc, bước đột phá và hiệu quả
hoạt động cao cho TTMBN Việt Nam. Bởi còn
quá nhiều những vướng mắc, bất cập về thể chế,
hành lang pháp lý khi các công ty đi vào hoạt
động thực tiễn. Bài viết sẽ chỉ ra những trở ngại
và khó khăn của TTMBN Việt Nam hiện nay và
đưa ra một số giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa
sự phát triển của TTMBN nói riêng và thị trường
tài chính nói chung.
2. Tổng quan về thị trường mua bán nợ
Định nghĩa nợ xấu của Việt Nam tại Quyết
định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/4/2005 (về
việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng
để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân
hàng)như sau: “Nợ xấu là những khoản nợ được
phân loại vào nhóm 3 (dưới chuẩn), nhóm 4
(nghi ngờ) và nhóm 5 (khả năng mất vốn)”.
Thị trường mua bán nợ là một bộ phận của thị
trường tài chính, là nơi các khoản nợ được phát
hành và trao đổi. Hàng hóa giao dịch trên TTMBN
là các khoản nợ có thể dưới dạng tài sản nợ hoặc
chứng khoán nợ. Thị trường MBN có một số đặc
trưng chung của thị trường vốn nhưng cũng có
những đặc điểm riêng. Nếu phân loại TTMBN theo
tính chất các khoản nợ thì có thể chia ra là:
TTMBN tiêu chuẩn và TTMBN xấu. Nếu chia theo
quá trình luân chuyển vốn thì có thể chia ra thành:
TTMBN sơ cấp và TTMBN thứ cấp.
Mua bán nợ là hoạt động kinh tế để trao đổi
và chuyển giao phần tài sản đặc biệt là các “khoản
nợ phải thu” từ đối tượng này sang đối tượng
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019)
76
khác, từ bên bán nợ sang bên mua nợ. Thị trường
mua bán nợ được coi là chính thức và hoạt động
tương đối công khai là thị trường trái phiếu doanh
nghiệp và trái phiếu chính phủ. Ngoài ra, còn có
một TTMBN đặc thù là TTMBN xấu (Non
Performing Loan – NPL) là nơi giao dịch các
khoản nợ xấu giữa bên mua và bên bán.
3. Nguồn số liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn dữ liệu phân tích là những dữ liệu
được thu thập được qua các báo cáo thường niên
từ năm 2015 đến 2018 của NHNN, của DATC,
của VAMC và ủy ban giám sát tài chính quốc gia.
Phương pháp phân tích số liệu: Từ các số
liệu thu thập được tiến hành phân tích, tổng hợp,
chọn lọc bằng các phương pháp thống kê mô tả,
phân tích so sánh, phương pháp phân tích tổng
hợp nhằm đánh giá thực trạng thị trường mua
bán nợ tại Việt Nam thời gian qua, từ đó đề ra
một số giải pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa sự phát
triển của thị trường mua bán nợ Việt Nam trong
thời gian tới.
4. K t quả nghiên cứu
4.1. Kết quả hoạt động của thị trường mua bán
nợ tại Việt Nam giai đoạn 2015 - 2018
Trên TTMBN Việt Nam hiện nay, các chủ
thể tham gia thị trường rất hạn chế. Bên mua nợ
hiện nay mới chỉ có DATC, VAMC và khoảng
hơn 20 AMC. Bên bán nợ cũng thuộc đối nhóm
đối tượng hẹp gồm các TCTD bán nợ cho
DATC, VAMC hoặc các AMC. Hiện nay, nguồn
cung cho TTMBN rất dồi dào, Theo báo cáo mới
nhất của Ủy ban giám sát tài chính quốc gia thì
tính đến tháng 6/2018, tổng dư nợ là 6 triệu tỷ
đồng, bằng 125% GDP, trong đó tỷ lệ nợ xấu nội
bảng là 2,09% chưa tính đến các khoản nợ xấu
được cơ cấu lại và nợ xấu tiềm ẩn, tương đương
với giá trị tuyệt đối là 566.000 tỷ đồng. Nguồn
cung cho thị trường tương đối lớn nhưng cầu thì
lại hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Với
khoảng hơn 20 AMC, nhưng các AMC vẫn chỉ
đang thực hiện các nghiệp vụ trong phạm vi các
khoản nợ và tài sản của NH mẹ, chưa tham gia
mua bán nợ cùng các công ty mua bán nợ khác
trên thị trường. Do vậy, tính đến tháng 6/2018, tỷ
lệ nợ xấu trên toàn hệ thống NHTM vẫn gần 3%.
Sự ra đời của VAMC được kỳ vọng rất lớn trước
một con số tương đối về nợ xấu của các TCTD.
Tuy nhiên, từ khi đi vào hoạt động đến nay, tổng
số nợ xấu mà VAMC mua bằng trái phiếu đặc
biệt mỗi năm mới chỉ chiếm từ 33% - 74% tổng
nguồn cung đầu năm, còn những khoản nợ xấu
được mua theo giá thị trường còn rất nhỏ. DATC
với hơn 15 năm hoạt động nhưng hiệu quả cũng
không khả quan hơn VAMC là mấy, doanh số
mua nợ bình quân mỗi năm mới chỉ khoảng
2.000 tỷ đồng. Những con số này còn rất khiêm
tố so với nguồn cung nợ xấu từ các DNNN, các
NHTM và nền kinh tế.
4.2. Thực trạng thị trường mua bán nợ Việt
Nam hiện nay
Thị trường mua bán nợ được coi là một bộ
phận của thị trường tài chính, ta có thể xem xét
thực trạng của TTMBNVN hiện nay trên các góc
độ sau:
* Các chủ thể trên TTMBN
Chủ thể tham gia trên TTMBN Việt Nam
hiện nay được chia thành 2 nhóm:
Nhóm các chủ thể tham gia bán nợ gồm: Các
NH, các TCTD, các DN có khoản nợ cần bán.
Nhóm các chủ thể tham gia mua nợ gồm:
Các công ty mua bán nợ chuyên nghiệp như
DATC, VAMC, công ty quản lý tài sản AMC,
các quỹ đầu tư tài chính.
Với 2 nhóm chủ thể như trên th TMBNVN
mới chỉ gồm các thành phần cơ bản, còn thiếu
một số thành phần khác như: Các đơn vị tổ chức
sàn giao dịch nợ, các tổ chức định giá chuyên
nghiệp, các đơn vị môi giới nợ, các đơn vị tham
gia tư vấn, trung gian tạo lập thị trường, các
doanh nghiệp thực hiện định mức tín
nhiệm..Số lượng thành phần tham gia thị
trường còn ít và chưa đầy đủ cho thấy sự non trẻ,
sơ khai của TTMNB Việt Nam.
* Hàng hóa trên TTMBN
Hàng hóa được giao dịch trên TTMBNVN
hiện nay tương đối đa dạng và phong phú. Đứng
đầu trong danh sách này là các khoản nợ xấu của
các TCTD với quy mô hàng trăm tỷ đồng và con
số này liên tục tăng lên qua các năm. Tiếp đến là
các khoản nợ của các khách hàng tại các NHTM
trong chương tr nh tái cơ cấu các doanh nghiệp
có vốn nhà nước. Thêm nữa phải kể đến các
khoản nợ thương mại của các doanh nghiệp tồn
tại dưới dạng các giấy tờ nhận nợ, thương
phiếu.Hàng hóa trên trị trường MBN rất phong
phú nhưng các khoản nợ chưa được đánh giá
chính xác vì sự thiếu thông tin được cung cấp
cho người mua và người bán, mức độ tin cậy của
các thông tin chưa được đảm bảo.
* Cấu trúc và phương thức giao dịch trên
TTMBN
Thị trường MBN Việt Nam gồm: Thị trường
sơ cấp và thị trường thứ cấp. Tuy nhiên, hàng
hóa và các chủ thể trên TTMBNVN mới chỉ hoạt
động tấp nập trên thị trường sơ cấp. Phương thức
giao dịch trên thị trường sơ cấp là sự tiếp xúc và
thỏa thuận trực tiếp giữa các công ty MBN với
các TCTD, các đơn vị chủ nợ, mà không qua bất
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019)
77
kỳ một công ty trung gian nào. Việc mua bán nợ
trên thị trường sơ cấp sẽ làm thay đổi chủ nợ của
khoản nợ. Các khoản nợ sau khi được mua bán
trên thị trường sơ cấp thì một số lượng rất ít
trong đó được mua đi bán lại nhằm kiếm lời hay
di chuyển vốn đầu tư trên thị trường thứ cấp. Số
lượng các nhà đầu tư mua lại nợ xấu vẫn chủ yếu
là đầu tư ngắn hạn, thiếu các nhà đầu tư chiến
lược. Do vậy, hoạt động mua bán nợ trên thị
trường thứ cấp tại Việt Nam còn rất hạn chế cả
về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Về phương thức giao dịch th theo quy định
tại thông tư số 39/2004/TT-BTC ngày 11/5/2004
hướng dẫn trình tự, thủ tục và xử lý tài chính đối
với hoạt động mua, bán, bàn giao, tiếp nhận và
xử lý nợ và tài sản tồn động của doanh nghiệp thì
hoạt động MBN được thực hiện dưới 2 hình
thức: MBN theo thỏa thuận và MBN theo chỉ
định của Chính phủ. Phương thức MBN theo chỉ
định của Chính phủ chỉ áp dụng cho DATC, giá
cả mua sẽ do các cơ quan quản lý nhà nước liên
quan xem xét, xây dựng, thẩm định và trình
Chính phủ quyết định. Các doanh nghiệp MBN
khác chỉ áp dụng phương thức duy nhất là MBN
theo thỏa thuận. Mà việc MBN theo giá cả thị
trường bằng phương thức thỏa thuận, đấu thầu,
đấu giá hiện nay vẫn chưa có quy định nào cho
vấn đề này.
* Hiệu quả hoạt động của TTMBN những
năm qua
Hiện nay, các AMC được các NHTM coi là
một công ty con, là một loại “thực thể” đặc biệt
trong hệ thống của mình. Các công ty MBN trực
thuộc ngân hàng là các AMC hiện nay chỉ thực
hiện mấy nghiệp vụ như: thanh lý tài sản gán nợ,
quản lý tài sản cầm cố, thu hồi nợ cho NH
mẹ.Còn việc xử lý nợ xấu và tái cơ cấu gần
như không thực hiện. Theo thống kê của NHNN
th tính đến tháng 6/2018, tỷ lệ nợ xấu trên toàn
hệ thống NHTM vẫn gần 3%. Con số này cho
thấy sự lệ thuộc vào NH mẹ cùng với phạm vi
hoạt động nhỏ hẹp khiến cho các AMC không
giúp được gì nhiều cho các NH, trong khi ở nước
ngoài AMC được coi là cánh tay phải của các tổ
chức tín dụng.
Với Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam
DATC, kết quả hoạt động kinh doanh những năm
gần đây được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 1: Doanh số mua nợ và Doanh thu từ hoạt động MBN của DATC
(Đơn vị: tỷ đồng)
Nguồn: Báo cáo thường niên của DATC
Là một doanh nghiệp trực thuộc Bộ Tài
chính, với vai trò chủ yếu là hỗ trợ các DNNN
trong việc xử lý và giải quyết các khoản nợ, tài
sản trong quá trình cổ phần hóa, sắp xếp, tái cơ
cấu DN. Qua hơn 15 năm thành lập, với kết quả
hoạt động như trên là tương đối khả quan. Tổng
kết 6 tháng đầu năm 2019, doanh thu từ hoạt
động MBN và tài sản của DATC đạt 1.006,5 tỷ
đồng, bằng 51% so với kế hoạch và tăng 28% so
với cùng kỳ 2018. Đó là một kết quả tốt sau rất
nhiều nỗ lực và biện pháp của công ty. Tuy
nhiên, những kết quả đó còn quá nhỏ bé trong
bối cảnh mà tỷ lệ nợ xấu tại các DNNN nói riêng
và nền kinh tế nói chung ngày càng gia tăng.
Hình 1. Doanh số mua nợ, tài sản và lợi nhuận DATC
Nguồn: Báo cáo thường niên của DATC
1845
2244
2400
3000
320 390 396 350
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
Doanh số mua nợ
Lợi nhuận
Chỉ tiêu Năm 2015 Năm 2016 Năm 2017 Năm 2018
Doanh số mua nợ và tài sản 1.845 2.244 2.400 3.000
Doanh thu từ hoạt động MBN 2.365 2.083,6 2.475 2.500
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019)
78
Bảng 2: Tình hình Nợ xấu của các TCTD và kết quả mua nợ xấu của VAMC
(Đơn vị: Tỷ đồng)
Năm 2015 2016 2017 2018
1.Nợ xấu của các TCTD 139.300 161.200 145.600 163.000
2.Quy mô mua nợ xấu của VAMC 109.800 23.283 30.157 32.630
Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên của NHNN, VAMC và UBGSTCQG
Với VAMC, kết quả mua bán nợ của công
ty từ 2015 - 2018 như sau:
Giữ vai trò trung tâm trong việc mua bán và
xử lý nợ xấu của các TCTD, doanh số mua nợ
của VAMC luôn dao động trong khoảng từ 23-
110 nghìn tỷ đồng từ 2015 - 2018. VAMC thực
hiện mua nợ xấu của các TCTD bằng trái phiếu
đặc biệt hoặc theo giá thị trường. Lũy kế từ khi
thành lập đến hết 2018,VAMC đã thực hiện mua
nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt với tổng dư nợ
gốc nội bảng là 338.849 tỷ đồng, giá mua nợ là
307.567 tỷ đồng. Về công tác thu hồi và xử lý
nợ, tổng số tiền thu nợ trong năm 2018 của
VAMC đạt 37.512 tỷ đồng, lũy kế từ khi thành
lập đạt 119.000 tỷ đồng.
Với sự nỗ lực hết m nh để hoàn thành nhiệm
vụ mà NHNN giao cho, hoạt động của VAMC đã
góp phần làm giảm tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ
từ 4,93% năm 2013 xuống còn 2,6% 2017. Kết
quả giao dịch đó là thành công bước đầu của
VAMC, song kết quả này còn khá nhỏ bé so với
nguồn cung nợ xấu. Quy mô nợ xấu của các
TCTD còn ở mức khá cao.
Hiệu quả hoạt động của các chủ thể chính
trên TTMBN chưa cao là do:
+ Quy mô vốn điều lệ của các công ty MBN
chủ chốt trên thị trường còn bé: Hiện nay trên thị
trường mới chỉ có DATC trực thuộc Bộ Tài
chính với số vốn là 2.481 tỷ đồng là tương đối
lớn. Còn VAMC, vốn điều lệ ban đầu chỉ có 500
tỷ đồng, nhưng từ tháng 4/2015 vốn điều lệ của
VAMC đã được nâng lên 2.000 tỷ đồng. Còn lại
các AMC thì vốn điều lệ đều dưới 500 tỷ. Vốn
nhỏ đi kèm với nó là tốc độ xử lý nợ của các
công ty này còn chậm chạp, có những khoản nợ
phải mất 3-5 năm mới xử lý xong, dẫn tới tốc độ
quay vòng vốn của các công ty này rất chậm.
Hiệu quả hoạt động không cao.
+ Hành lang pháp lý cho hoạt động MBN
chưa đầy đủ và chưa tạo điều kiện cho TTMBN
phát triển: Mọi hoạt động trên TTMBN Việt
Nam hiện nay đang chịu sự điều tiết của hai văn
bản quy phạm pháp luật chính là: Nghị định số
69/2016/NĐ-CP(về điều kiện kinh doanh dịch vụ
mua bán nợ) và Nghị quyết số 42/2017/QH14(về
thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng).
Tuy nhiên, đối tượng áp dụng của 2 văn bản
pháp luật trên còn nhiều hạn hẹp. Nghị quyết số
42, mới chỉ giới hạn phạm vi điều chỉnh về xử lý
nợ xấu của các TCTD mà nhà nước sở hữu 100%
vốn điều lệ. Trong khi đó, nghị định 69 quy định
đối tượng áp dụng chỉ bao gồm các doanh nghiệp
kinh doanh dịch vụ MBN và các tổ chức, cá nhân
có nhu cầu kinh doanh dịch vụ MBN. Rõ ràng,
với phạm vi điều chỉnh của các văn bản trên thì
có nhiều chủ thể đang hoạt động trên TTMBN sẽ
không là đối tượng điều chỉnh của các nghị định
này ví như các chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Điều này sẽ hạn chế sự phát triển của TTMBN
Việt Nam.
5. Một số giải pháp phát triển thị trường
mua bán nợ Việt Nam
Thứ nhất, nhanh chóng thiết lập sàn giao
dịch mua bán nợ tập trung và tại đó các khoản nợ
phải được chứng khoán hóa.
Hiện nay, quy mô và tính chất các khoản nợ
xấu ngày càng gia tăng, không chỉ là nợ trong
nước mà còn mang tính liên quốc gia vì ngày
càng có nhiều doanh nghiệp có dự án lớn vay nợ
nước ngoài. Gánh nặng và tác động của nợ xấu
lên nền kinh tế quốc gia là rất lớn. Do vậy, việc
thúc đẩy phát triển thị trường MBN chuyên
nghiệp là một đòi hỏi cấp bách. Đây sẽ là nơi
giới thiệu, cung cấp thông tin chính thức, đầy đủ
nhất các khoản nợ đến các nhà đầu tư. Sớm
nghiên cứu thành lập thị trường MBN tập trung,
phát triển thị trường thứ cấp, tăng tính thanh
khoản cho thị trường này.
Thứ hai, mở rộng phương thức mua bán nợ
Ngoài những phương thức giao dịch MBN đã
có, ta nên mở rộng thêm thông qua hình thức
chứng khoán hóa các khoản nợ. Để làm được điều
này th trước tiên cần xây dựng khuôn khổ pháp lý
cho hoạt động chứng khoán hóa các khoản nợ.
Phát triển hệ thống các tổ chức xếp hạng tín
nhiệm đối với chủ nợ và tổ chức định giá độc lập
đối với các khoản nợ, qua đó giúp bên mua và bên
bán xác định được giá trị của khoản nợ, từ đó xem
xét quyết định việc mua bán.
Thứ ba, cần hoàn thiện khung pháp lý đồng
bộ tạo điều kiện cho sự phát triển của TTMBN.
Muốn phát triển TTMBN cần có sự xuất
hiện của người tạo lập thị trường là cơ quan
Chính phủ và một hành lang pháp lý đủ mạnh
mới có thể kích hoạt được thị trường này. Có thể
là: Áp dụng ưu đãi thuế cho hoạt đông MBN,
Chuyên mục: Tài chính - Ngân hàng - TẠP CHÍ KINH TẾ & QUẢN TRỊ KINH DOANH SỐ 10 (2019)
79
thành lập Hiệp hội các Công ty MBN, hoàn thiện
hệ thống giám sát thị trường..
Thứ tư, mở rộng về số lượng và nâng cao về
chất lượng của các công ty MBN
Số lượng các công ty MBN ở Việt Nam hiện
nay còn ít vì nhiều lí do, và một trong số đó là do
quy định về vốn điều lệ của các tổ chức, cá nhân
khi tham gia thị trường MBN theo nghị định
69/2016/NĐ-CP. Quy định này cần phải được
nới lỏng hơn tạo điều kiện cho những đơn vị có
khả năng tài chính thấp hơn vẫn có khả năng
tham gia thị trường để mua bán những khoản nợ
quy mô không lớn. Góp phần mở rộng số lượng
các công ty MBN trên thị trường và giải quyết
được phần nào quy mô nợ xấu ngày càng gia
tăng trong nền kinh tế.
Thứ năm, đa dạng hóa các chủ thể tham gia
thị trường MBN.
Thị trường MBN Việt Nam mới chỉ có các
chủ thể cơ bản tham gia vào thị trường. Do vậy,
để thúc đẩy thị trường phát triển theo hướng
chuyên nghiệp thì cần có sự tham gia của nhiều
chủ thể khác và đặc biệt là các đơn vị trung gian
như: các công ty hay chuyên gia tư vấn; công ty
môi giới, các công ty định giá tài sản.Và đặc
biệt là sự tham gia của các đơn vị thực hiện hoạt
động xếp hạng tín nhiệm. Đây là các doanh
nghiệp cung cấp thông tin cho ph p người mua
và người bán nợ có thể định giá các khoản nợ
một cách tương đối chính xác và có độ tin tưởng
cao. Mặt khác, chúng ta cũng cần đẩy mạnh thu
hút các nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị
trường MBN Việt Nam để góp vốn kinh doanh,
chia sẻ thông tin, cùng nhau hợp tác để tiến dần
vào TTMBN quốc tế.
6. K t luận
Sự hình thành và phát triển của TTMBN mà
cụ thể là nợ xấu của các doanh nghiệp,các
TCTD là yêu cầu khách quan hiện nay tại Việt
Nam. Tuy nhiên, nhìn từ thực trạng cụ thể mà bài
viết đã chỉ ra cho thấy ở Việt Nam chưa có
TTMBN theo đúng nội hàm của nó. Từ hàng hóa
đến các chủ thể tham gia thị trường, cấu trúc và
phương thức giao dịch trên thị trường còn nhiều
hạn chế. Cơ chế vận hành, hệ thống luật pháp,
các chính sách tạo hành lang, môi trường cho thị
trường phát triển chưa đồng bộ, chưa đầy đủ. Tất
cả những vấn đề này chỉ được giải quyết khi
chúng ta h nh thành được TTMBN đầy đủ với
các bộ phận: hàng hóa của công ty sẵn sàng bán
(cung) – nhu cầu của các công ty mua (cầu) và
cơ chế vận hành và luật pháp cũng như chính
sách quản lý hiệu quả thị trường này của nhà
nước và sự tham gia có trách nhiệm của các bên
trên thị trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Diệp Bình. (2018). Năm 2017, các TCTD hạn chế bán nợ xấu sang VAMC. Báo điện tử truy cập tại:
[2]. Công ty TNHH Mua bán nợ Việt Nam_DATC. Báo cáo thường niên hàng năm. (Giai đoạn năm
2015 - 2018).
[3]. Công ty quản lý Tài sản của các TCTD Việt Nam_VAMC. Báo cáo thường niên hàng năm. (Giai
đoạn năm 2015 - 2018).
[4]. Cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính. Chuyên đề 24: Thị trường mua bán nợ: Thực trạng và triển
vọng ở Việt Nam.
[5]. Vũ Sĩ Cường. (2014). Mua bán nợ xấu, tái cơ cấu doanh nghiệp: Nhìn từ thực trạng thị trường đến
vai trò của DATC. Tạp chí Tài chính
[6]. Hoàng Trần Hậu và cộng sự. (2014). Phát triển thị trường mua bán nợ Việt Nam phục vụ tái cơ cấu
doanh nghiệp. Đề tài NCKH cấp Bộ
Thông tin tác giả:
1. Lê Thị Thu Phương
- Đơn vị công tác: Trường ĐH Kinh tế & QTKD
- Địa chỉ email: phuongnam0512@gmail.com
Ngày nhận bài: 7/8/2019
Ngày nhận bản sửa: 04/9/2019
Ngày duyệt đăng: 25/9/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phat_trien_thi_truong_mua_ban_no_tai_viet_nam.pdf