Chúng tôi cho rằng, nguyên nhân dẫn
đến tình trạng trên là: Thứ nhất, HRBA vẫn
còn là một vấn đề tương đối mới ở Việt
Nam, thể hiện ở hiểu biết về HRBA của
cả bên có quyền lợi (người dân, tổ chức và
doanh nghiệp) và bên có nghĩa vụ, trách
nhiệm (chủ yếu là Nhà nước) còn nhiều hạn
chế, cả về kiến thức lẫn kỹ năng phân tích và
vận dụng; thứ hai, tâm lý e ngại vấn đề nhân
quyền vẫn còn khá nặng nề trong một số cơ
quan nhà nước và nhà quản lý; thứ ba, các
cơ quan nhà nước trong quá chú trọng yêu
cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật về thể chế
kinh tế thị trường mà có phần coi nhẹ mục
tiêu việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về bảo đảm quyền con người, quyền tự do,
dân chủ của công dân.
Trong thời gian tới, để thúc đẩy HRBA
trong hoạch định và thực thi chính sách,
pháp luật ở Việt Nam, chúng ta cần tiếp tục
nghiên cứu và phổ biến rộng rãi về phương
pháp này cũng như các kiến thức về quyền
con người cho người dân và đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước. Mục tiêu
hướng tới là để các tiêu chuẩn về quyền con
người không những là nền tảng cho việc xây
thực và thực thi các chính sách, pháp luật,
mà còn trở thành những giá trị mang tính
đạo đức và pháp lý trong các hoạt động của
Nhà nước cũng như của xã hội.
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 349 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người và khả năng áp dụng vào hoạt động xây dựng chính sách, pháp luật ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN DỰA TRÊN QUYỀN CON NGƯỜI VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
VÀO HOẠT ĐỘNG XÂY DỰNG CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Tóm tắt:
Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền con người (HRBA) là một
nguyên tắc do các tổ chức quốc tế đề ra để áp dụng trong việc
xây dựng và thực hiện các chương trình phát triển ở các quốc
gia. Hiện nay, phương pháp này cũng đang được thừa nhận và
áp dụng rộng rãi trong việc hoạch định chính sách công ở nhiều
nước trên thế giới. Quy trình xây dựng chính sách, pháp luật ở
Việt Nam từ trước tới nay đã bao hàm một số yếu tố của HRBA
nhưng chưa rõ ràng và chưa được thực hiện đầy đủ trong thực tế.
Việc lồng ghép HRBA vào quy trình xây dựng chính sách, pháp
luật ở Việt Nam hiện nay là cần thiết nhằm đáp ứng các yêu cầu
đặt ra của hội nhập quốc tế cũng như để thực hiện Hiến pháp
năm 2013.
Vũ Công Giao*
* PGS. TS. Khoa Luật ĐHQG Hà Nội.
Abstract
Human rights-based approach (HRBA) is a principle set by the
international organizations to apply in the development and
implementation of the development programs. Currently, this
method is also being widely recognized and applied in public
policy making in several countries in the world. The process of
making policies and laws in Vietnam has so far included some
elements of HRBA but it is unclear and not fully adopted in
practices. The integration of HRBA into the current law and
policy making process in Vietnam is necessary to meet the
requirements of international integration as well as to implement
the Constitution of 2013.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Phương pháp tiếp cận dựa trên
quyền con người, HRBA, quyền con
người, chính sách
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 13/09/2019
Biên tập : 21/09/2019
Duyệt bài : 23/09/2019
Article Infomation:
Keywords: Human rights-based
approach, human rights, policy.
Article History:
Received : 13 Sep. 2019
Edited : 21 Sep. 2019
Approved : 23 Sep. 2019
1. Khái quát về phương pháp tiếp cận
dựa trên quyền con người
“Phương pháp tiếp cận dựa trên quyền
con người” (hay “tiếp cận dựa trên quyền/
dựa trên quyền con người” - right-based
approach/ human rights-based approach -
HRBA) là thuật ngữ được sử dụng phổ biến
bởi các cơ quan của Liên hợp quốc, có mối
liên hệ chặt chẽ với khái niệm “phát triển
con người” (human development). Đầu tiên,
HRBA là quan điểm có tính nguyên tắc được
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
3Số 18(394) T9/2019
các cơ quan của Liên hợp quốc sử dụng trong
xây dựng và thực hiện các chương trình/dự án
phát triển1. Tuy nhiên, hiện tại nó đang được
mở rộng sang việc hoạch định và thực hiện
chính sách công nói chung ở các quốc gia.
HRBA hướng tới sự cân bằng của
cả hai yếu tố nội dung và cách thức thực
thi quyền con người2. Điều đó có nghĩa là
HRBA không chỉ quan tâm tới việc đạt được
những mục tiêu đề ra, mà còn chú trọng tới
những quy trình, thủ tục thực hiện để đạt
được những mục tiêu đó. Nói cách khác,
HRBA quan tâm đến cả kết quả lẫn quá trình
thực hiện chính sách có liên quan đến quyền
con người, với mục đích làm cho chủ thể
quyền vừa được tham gia, vừa được hưởng
lợi từ chính sách, qua đó hỗ trợ sự tham gia
tích cực của người dân vào quá trình phát
triển.3 Đây là cách tiếp cận hợp lý, đúng đắn
cả về mặt pháp lý và đạo đức, đã tạo ra sức
hấp dẫn của HRBA với các quốc gia.
Từ góc độ kỹ thuật, HRBA thể hiện
qua những đặc trưng cốt lõi đó là:
(i) Coi việc hỗ trợ thực hiện, thụ hưởng
các quyền con người là mục tiêu chính trong
các chính sách và chương trình phát triển;
(ii) Lấy các nguyên tắc và tiêu chuẩn
quốc tế về quyền con người làm định hướng
trong việc thiết lập và thực hiện các chính
sách, chương trình phát triển;
1 Xem: Khoa Luật - ĐHQG Hà Nội (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. ĐHQGHN, Hà Nội,
tr. 85.
2 Văn phòng Điều phối thường trú Liên hợp quốc tại Việt Nam, Phương pháp tiếp cận dựa trên cơ sở quyền con người,
Tài liệu dành cho Cán bộ Liên hợp quốc tại Việt Nam, tại
a-human-rights-based-approach-toolkit.html?Itemid=266.
3 Xem: Nguyễn Duy Sơn, Trần Thị Hòe (2013), Tiếp cận dựa trên quyền con người trong hoạch định và thực thi chính
sách ở Việt Nam, tại:
con-nguoi-trong-hoach-dinh-va-thuc-thi-chinh-sach-o-viet-nam.html, [truy cập: 14/11/2015].
4 Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, tài liệu đã dẫn, tr. 85.
5 Phương pháp tiếp cận dựa trên cơ sở quyền con người, tài liệu đã dẫn.
(iii) Làm rõ những chủ thể quyền,
chủ thể có trách nhiệm và các quyền, trách
nhiệm, nghĩa vụ của họ, từ đó hỗ trợ tăng
cường năng lực trong việc thực hiện các
quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm4.
Theo hướng dẫn của Chương trình
Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), đối
với mỗi chương trình, dự án hay chính sách,
HRBA cần được áp dụng trong cả 4 giai
đoạn: thứ nhất, xác định vấn đề, phân tích
tình hình (điều gì đang xảy ra với ai); thứ
hai, xây dựng kế hoạch, thiết kế dự án (tìm
giải pháp cho các vấn đề đã được xác định
và liệt kê ở giai đoạn thứ nhất); thứ ba, thực
hiện dự án (thực hiện những gì đã lên kế
hoạch); và thứ tư, quản lý, giám sát và đánh
giá dự án (đánh giá cuộc sống của người dân
có được cải thiện từ kết quả của dự án hay
không)5. Yếu tố xuyên suốt trong những đặc
trưng này là việc tạo cơ hội nhiều hơn cho
người dân có thể tham gia vào quá trình xây
dựng và thực thi các chính sách công mà có
ảnh hưởng đến các quyền con người của họ,
đồng thời bảo đảm rằng những chủ thể có
trách nhiệm phải thừa nhận, tôn trọng và bảo
đảm các quyền của người dân trong thực tế.
HRBA ràng buộc các chủ thể liên
quan bằng những trách nhiệm pháp lý rõ
ràng kể cả khi không có tinh thần thiện chí
thì các chủ thể đó (gọi là những chủ thể có
nghĩa vụ - duty-bearers) vẫn phải thực hiện.
Về khía cạnh này, có thể thấy rõ qua các văn
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
4 Số 18(394) T9/2019
bản của Liên hợp quốc (LHQ) về quyền con
người, trong đó có Tuyên ngôn toàn cầu về
nhân quyền (UDHR) năm 1948. Các nguyên
tắc được phản ánh trong bản Tuyên ngôn
như: công bằng, bình đẳng, tính phổ biến,
tính không thể phân chia, mối quan hệ giữa
quyền và nghĩa vụ, v.v... chính là cơ sở để
thiết lập nên những nguyên tắc của HRBA,
bao gồm: “hợp pháp; minh bạch và trách
nhiệm giải trình; trao quyền; tham gia; bình
đẳng, không phân biệt đối xử và chú ý đến
các nhóm dễ bị tổn thương”6.
Việc áp dụng HRBA trong một chính
sách cụ thể cần được thực hiện qua các bước
cơ bản như sau7:
(1) Phân tích bản chất của vấn đề đang
gặp phải, những chủ thể chịu tác động của
vấn đề và hệ thống các nguyên nhân dẫn tới
vấn đề đó.
(2) Xác định các công ước quốc tế và
quyền con người và văn bản pháp luật trong
nước có thể điều chỉnh hoặc liên quan đến
vấn đề cần giải quyết.
(3) Xác định mối quan hệ quyền -
trách nhiệm giữa các chủ thể chính và dựa
trên phân tích mô hình để chỉ ra những đòi
hỏi cơ bản của chủ thể quyền cần được đáp
ứng cũng như những nhiệm vụ chính của
chủ thể có nghĩa vụ.
(4) Phân tích và đánh giá điều kiện,
năng lực của chủ thể quyền và chủ thể có
nghĩa vụ thực hiện quyền; xác định được
những thiếu hụt năng lực của các bên để xây
dựng phương án phù hợp nhất.
6 Candy Murphy, dẫn từ Đậu Công Hiệp (2015), Khái niệm và nội hàm của tiếp cận dựa trên quyền con người, thuộc sách
chuyên khảo “Tiếp cận dựa trên quyền con người: Lý luận và thực tiễn”, Vũ Công Giao và Ngô Minh Hương đồng chủ
biên, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 20.
7 Phương pháp tiếp cận dựa trên cơ sở quyền con người, tài liệu đã dẫn.
8 European Commission (2014), A rights-based approach, encompassing all human rights for EU Development
Cooperation, p.16. file:///Users/FShop/Desktop/online_170621_eidhr_rba_toolbox_en_a5_lc_0.pdf
(5) Lựa chọn các biện pháp tác động
một cách hiệu quả nhất để giải quyết vấn đề.
2. Kinh nghiệm áp dụng phương pháp tiếp
cận dựa trên quyền con người trong các
dự án phát triển của Liên minh châu Âu
Liên minh châu Âu (EU) là một trong
những nhà tài trợ quốc tế lớn nhất, từ lâu
đã thực hiện nhiều dự án hỗ trợ phát triển
ở nhiều quốc gia trên hầu hết các châu lục.
Kể từ vài thập niên trở lại đây, HRBA được
xem là cách tiếp cận nền tảng trong việc xây
dựng và thực hiện các dự án phát triển do
EU tài trợ và điều này đã góp phần làm thay
đổi tư duy và quy trình hoạch định các chính
sách công, cũng như hoạt động xây dựng
pháp luật của nhiều nước tiếp nhận dự án.
Đạt được kết quả đó là bởi theo EU, các dự
án phát triển phải nhằm đạt được hai mục
tiêu là8:
Thứ nhất, không làm tổn hại đến
quyền con người (nguyên tắc “Do No
Harm”). Nguyên tắc này có nghĩa là, các dự
án phát triển không được tạo ra những tác
động tiêu cực bất hợp lý đến nhân quyền. Nó
đòi hỏi chính quyền phải nghiên cứu, đánh
giá những rủi ro, từ đó có những giải pháp
khắc phục những tác động bất lợi của dự án
đến một nhóm xã hội nhất định (ví dụ như
việc họ buộc phải di dời nơi ở để có địa bàn
cho việc thực hiện dự án).
Thứ hai, tối đa hoá các tác động tích
cực với quyền con người (nguyên tắc “Do
Maximum Good”). Nguyên tắc này có nghĩa
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
5Số 18(394) T9/2019
là cần tìm mọi cách hướng kết quả của dự
án vào việc thúc đẩy các quyền con người,
chẳng hạn như tăng cường năng lực và đào
tạo về quyền con người cho các chủ thể có
liên quan, trao quyền cho các nhóm dễ bị
tổn thương, thúc đẩy sự tham gia của người
dân, hỗ trợ các thiết chế nhà nước trong việc
nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm giải
trình và phòng, chống tham nhũng
Bên cạnh đó, theo EU, các dự án phát
triển cần khuyến khích sự đối thoại chính
sách (policy dialogue) nhằm đánh giá sự
hợp lý cũng như đề xuất sửa đổi các chính
sách công liên quan đến các nghĩa vụ của
quốc gia trong lĩnh vực nhân quyền9. Đặc
biệt, cần áp dụng 5 nguyên tắc hành động
(working principles) bao gồm10:
Thứ nhất, quyền con người là của tất
cả mọi người (Applying all Rights). Đây là
nguyên tắc bao trùm, dựa trên tính phổ quát
của nhân quyền. Nguyên tắc này đòi hỏi
phải bảo đảm quyền của tất cả các chủ thể
có liên quan mà không có sự phân biệt đối
xử vì bất kỳ lý do nào.
Thứ hai, bảo đảm sự tham gia và khả
năng tiếp cận của người dân với tiến trình
ra quyết định (participation and access to
the decision making process). Nguyên tắc
này giúp mọi người dân có thể tiếp cận với
những thông tin liên quan đến các dự án và
chương trình phát triển, cũng như có thể tự
do bày tỏ ý kiến, quan điểm của mình về
các dự án và chương trình phát triển đó. Sự
tham gia (participation) cần được hiểu là
một hoạt động ở cấp độ cao hơn so với sự
tham vấn (consultation). Tham gia là nền
9 A rights-based approach, encompassing all human rights for EU Development Cooperation, tlđd, p. 17.
10 Tlđd, p.17-22.
tảng cho tính tích cực của công dân (active
citizenship). Nó đòi hỏi một số yếu tố, trong
đó bao gồm việc xây dựng năng lực cho các
tổ chức xã hội để chuyển tải những nhu cầu
và nguyện vọng của người dân đến các cơ
quan nhà nước.
Thứ ba, không phân biệt đối xử và
tiếp cận bình đẳng (non-discrimination and
equal access). Nguyên tắc này đòi hỏi bảo
đảm rằng tất cả mọi người, không phân biệt
đối xử về bất kỳ yếu tố nào, đều được tiếp
cận bình đẳng với các dịch vụ công cơ bản.
Tuy nhiên, việc ưu tiên cho các nhóm yếu
thế sẽ không bị xem là phân biệt đối xử với
các nhóm khác.
Thứ tư, trách nhiệm giải trình và pháp
quyền (accountability and access to the rule
of law). Nguyên tắc này đòi hỏi pháp luật
quốc gia phải ghi nhận các nghĩa vụ của nhà
nước về quyền con người (tôn trọng, bảo vệ,
bảo đảm) trong các chính sách và chương
trình phát triển ở cả cấp trung ương và địa
phương. Ngoài ra, nguyên tắc này cũng đòi
hỏi xác định những hạn chế về năng lực thực
hiện các nghĩa vụ của nhà nước và có các
biện pháp để giải quyết những hạn chế đó,
trong đó bao gồm việc bảo đảm cung cấp
thông tin và dịch vụ trợ giúp pháp lý cho
mọi đối tượng trong xã hội.
Thứ năm, minh bạch và tiếp cận thông
tin (transparency and access to information).
Nguyên tắc này đòi hỏi nhà nước và các chủ thể
có nghĩa vụ (duty-bearers) khác phải có trách
nhiệm hoạt động một cách minh bạch, và để
bảo đảm điều đó, người dân phải được bảo đảm
các quyền tiếp cận thông tin và tự do biểu đạt.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
6 Số 18(394) T9/2019
3. Quyền con người trong hoạt động xây
dựng chính sách, pháp luật ở Việt Nam
hiện nay
Kể từ khi Đổi mới (1986), vấn đề
quyền con người ngày càng được quan tâm
trong hoạt động xây dựng chính sách, pháp
luật của Việt Nam. Đặc biệt, Hiến pháp
năm 2013 đã thể hiện rõ trách nhiệm của
Nhà nước đối với việc bảo đảm các quyền
con người, quyền công dân cũng như có sự
tương thích cao với nội dung các điều ước
quốc tế về quyền con người mà Việt Nam
đã ký kết. Hiến pháp năm 2013 xác định
đầy đủ các nghĩa vụ của Nhà nước trong
việc “công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo
đảm quyền con người, quyền công dân”; ghi
nhận nguyên tắc “quyền con người, quyền
công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định
của luật trong trường hợp cần thiết...”. Như
vậy, xét từ góc độ HRBA, có thể thấy rằng,
Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện khá rõ
cách tiếp cận dựa vào các quyền con người
để xác định kết quả và lấy các nguyên tắc
về quyền con người làm điều kiện, khuôn
khổ cho hoạt động quản lý nhà nước. Các
quy định của Hiến pháp năm 2013 về quyền
con người trong, đặc biệt là ở chương 1 và
chương 2, đã làm nổi bật các vấn đề sau: các
chủ thể quyền có khả năng đòi hỏi để các
quyền của họ được đáp ứng; Nhà nước và
các chủ thể chịu trách nhiệm bảo đảm quyền
có nghĩa vụ phải tôn trọng, bảo vệ và thực
hiện một cách công khai, minh bạch các
quyền, đồng thời bảo đảm sự tham gia của
các chủ thể quyền theo nguyên tắc không
phân biệt đối xử; các hành vi vi phạm các
quyền con người đều gắn với những trách
nhiệm pháp lý hoặc chế tài theo quy định
của Hiến pháp và pháp luật.
Những phân tích ở trên cho thấy, Hiến
pháp năm 2013 đã đặt ra những yêu cầu mới
đối với hoạt động xây dựng chính sách, pháp
luật ở Việt Nam - phải thể hiện tinh thần nhân
quyền ngay trong quá trình xây dựng chính
sách, pháp luật, chứ không chỉ là mục tiêu
hay kết quả của quá trình đó. Yêu cầu này đã
được cụ thể hóa trong Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật (VBQPPL) năm 2015.
Luật Ban hành VBQPPL năm 2015
quy định riêng 1 điều (Điều 7) về trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền
trong xây dựng, ban hành VBQPPL, theo 3
nhóm đối tượng gồm: các cơ quan, tổ chức,
người có thẩm quyền trình, soạn thảo dự án,
dự thảo VBQPPL; các cơ quan thẩm định,
thẩm tra; cơ quan tổ chức tham gia góp ý
kiến; các cơ quan ban hành VBQPPL. Ngoài
ra, Luật cũng đã đổi mới cơ bản quy trình
xây dựng, ban hành VBQPPL theo hướng
tách bạch quy trình xây dựng chính sách với
quy trình soạn VBQPPL, trong đó tập trung
quy định về quy trình xây dựng chính sách
theo hướng chính sách được thông qua, phê
duyệt trước khi bắt đầu soạn thảo văn bản;
sửa đổi một số quy định trong quy trình soạn
thảo, thẩm định, thẩm tra, xem xét, thông qua
VBQPPL và đổi mới quy trình xây dựng, ban
hành văn bản pháp luật của một số chủ thể
khác. Bên cạnh đó, Luật còn bổ sung nhiều
quy định nhằm tăng cường tính công khai,
minh bạch trong hoạt động xây dựng và ban
hành VBQPPL, như quy định về việc tham
gia góp ý kiến xây dựng VBQPPL (Điều 6);
việc bắt buộc cơ quan chủ trì soạn thảo phải
giải trình tiếp thu ý kiến; việc đăng Công
báo VBQPPL (Điều 150); việc đăng tải và
đưa tin VBQPPL (Điều 157)
Quy trình xây dựng và ban hành các
VBQPPL được Luật quy định chi tiết với
các bước: Lập chương trình xây dựng luật,
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
7Số 18(394) T9/2019
pháp lệnh; soạn thảo luật, pháp lệnh; thẩm
tra dự án luật, pháp lệnh; Ủy ban thường
vụ (UBTV) Quốc hội xem xét cho ý kiến;
thảo luận tiếp thu, chỉnh sửa và thông qua
dự án luật, dự án pháp lệnh; công bố luật,
pháp lệnh. Trong đó, ở giai đoạn lập chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh các chủ thể
thực hiện sáng kiến lập pháp phải nêu được:
sự cần thiết, đối tượng phạm vi điều chỉnh,
quan điểm chính sách của văn bản, nội dung
chính, dự kiến nguồn tài chính, báo cáo đánh
giá tác động sơ bộ của văn bản. Bên cạnh
đó, trách nhiệm đánh giá tác động của chính
sách vẫn thuộc về cơ quan, tổ chức, đại biểu
Quốc hội trình đề nghị, tuy nhiên nội dung
đánh giá tác động của từng chính sách trong
đề nghị lập pháp phải thể hiện rõ: vấn đề
cần giải quyết; mục tiêu của chính sách;
giải pháp để thực hiện chính sách; tác động
tích cực, tiêu cực của chính sách; chi phí,
lợi ích của các giải pháp; so sánh chi phí,
lợi ích của các giải pháp; lựa chọn giải pháp
của cơ quan, tổ chức và lý do của việc lựa
chọn; đánh giá tác động thủ tục hành chính,
tác động về giới (nếu có).
Xét riêng về việc bảo đảm sự tham
gia của nhân dân - vấn đề liên quan trực
tiếp nhất đến HRBA, Luật bổ sung nhiều
quy định hợp lý, cụ thể về việc lấy ý kiến
để tạo điều kiện cho Nhân dân tham gia vào
quá trình xây dựng VBQPPL một cách thực
chất, hiệu quả hơn. Nội dung này được thể
hiện dưới một số điểm chính như sau11:
Một là, đối với luật, pháp lệnh, nghị
định của Chính phủ quy định tại các khoản
2 và 3 Điều 19, nghị quyết của HĐND cấp
tỉnh quy định tại các khoản 2, 3 và 4 Điều
27, việc lấy ý kiến được coi là thủ tục bắt
buộc trong cả giai đoạn đề nghị xây dựng
11 Bộ Tư pháp, Giới thiệu những điểm mới của Luật ban hành VBQPPL năm 2015.
chính sách và giai đoạn soạn thảo. Thời hạn
đăng tải để lấy ý kiến ít nhất 30 ngày với đề
nghị xây dựng chính sách và ít nhất 60 ngày
với dự án, dự thảo văn bản. Đối với nghị
định quy định chi tiết, quyết định của Thủ
tướng Chính phủ, thông tư của Bộ trưởng,
Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ,... thì việc lấy
ý kiến được thực hiện khi đã có dự thảo văn
bản (thời hạn đăng tải ít nhất 60 ngày).
Hai là, cơ quan, tổ chức lấy ý kiến phải
xác định rõ địa chỉ đăng tải, tiếp nhận ý kiến
góp ý. Theo quy định tại khoản 1 Điều 36,
báo cáo tổng kết, báo cáo đánh giá tác động
của chính sách trong đề nghị xây dựng luật,
pháp lệnh phải đăng tải trên Cổng thông tin
điện tử của Quốc hội đối với đề nghị xây
dựng luật, pháp lệnh do UBTV Quốc hội,
Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội,
đại biểu Quốc hội trình; trên Cổng thông tin
điện tử của Chính phủ đối với đề nghị xây
dựng luật, pháp lệnh do Chính phủ trình và
trên Cổng thông tin điện tử của các cơ quan,
tổ chức lập đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh.
Ba là, ngoài việc lấy ý kiến đối tượng
chịu sự tác động trực tiếp của văn bản, cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan, Luật còn
quy định trách nhiệm bắt buộc lấy ý kiến của
Bộ Tài chính, Bộ Nội vụ, Bộ Ngoại giao, Bộ
Tư pháp đối với đề nghị xây dựng luật, pháp
lệnh và đề nghị xây dựng nghị định. Các bộ
nêu trên có trách nhiệm góp ý kiến bằng văn
bản đánh giá về nguồn tài chính, nguồn nhân
lực, sự tương thích với điều ước quốc tế có
liên quan mà Việt Nam là thành viên, về tính
hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của đề
nghị xây dựng luật, pháp lệnh với hệ thống
pháp luật và gửi đến cơ quan, tổ chức, cá
nhân lập đề nghị (khoản 2 Điều 36).
Bốn là, nội dung lấy kiến phải phù hợp
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
8 Số 18(394) T9/2019
với từng đối tượng lấy ý kiến và tập trung
vào những chính sách lớn, quan trọng, trực
tiếp ảnh hưởng đến doanh nghiệp, người
dân. Trong thời gian dự thảo luật, pháp lệnh,
nghị quyết đang được lấy ý kiến, nếu cơ quan
chủ trì soạn thảo chỉnh lý lại dự thảo văn bản
mà khác với dự thảo đã đăng tải trước đó thì
phải đăng lại dự thảo văn bản đã được chỉnh
lý (khoản 1 Điều 57).
Năm là, quy định các hình thức lấy ý
kiến đa dạng, phong phú như: đăng tải để lấy
ý kiến, lấy ý kiến trực tiếp, gửi dự thảo đề
nghị góp ý kiến, tổ chức hội thảo, tọa đàm
hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại
chúng. Đặc biệt, đối với đề nghị xây dựng
nghị quyết của HĐND cấp tỉnh, trong trường
hợp cần thiết, cơ quan đề nghị xây dựng nghị
quyết tổ chức đối thoại trực tiếp về chính
sách với các đối tượng chịu sự tác động trực
tiếp của nghị quyết (khoản 2 Điều 113).
Sáu là, tăng cường trách nhiệm giải
trình ý kiến góp ý bằng việc bổ sung quy
định cơ quan, tổ chức, đại biểu Quốc hội có
trách nhiệm tổng hợp, nghiên cứu, giải trình,
tiếp thu các ý kiến góp ý; đăng tải công khai
báo cáo giải trình, tiếp thu trên các cổng
thông tin điện tử nêu trên (khoản 1 Điều 36,
khoản 3 Điều 57, khoản 3 Điều 86). Bên
cạnh đó, Luật bổ sung trách nhiệm phản hồi
ý kiến, kiến nghị của cá nhân, cơ quan, tổ
chức thành nguyên tắc trong xây dựng, ban
hành VBQPPL (Điều 5).
Những quy định nêu trên của Luật
Ban hành VBQPPL năm 2015 đã giúp củng
cố, tăng cường khả năng tham gia và khả
12 Phương pháp tiếp cận dựa trên cơ sở quyền con người, tài liệu đã dẫn.
13 Bước 3 (Trình Chính phủ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh - Điều 40); Bước 4 (Chính phủ xem xét, thông qua đề nghị
xây dựng luật, pháp lệnh - Điều 41, Điều 42 và Điều 43); Bước 5 (Gửi hồ sơ đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh trình
UBTV Quốc hội - Điều 46); Bước 6 (Thẩm tra đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh - Điều 47); Bước 7: UBTV Quốc hội
xem xét đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh để lập dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh (Điều 48); Bước 8: Quốc
hội xem xét, thông qua dự kiến chương trình xây dựng luật, pháp lệnh (Điều 49).
năng tiếp cận của người dân với tiến trình
xây dựng và ban hành chính sách, pháp luật,
cũng như làm cho tiến trình này trở nên công
khai, minh bạch và có trách nhiệm giải trình
cao hơn trước đây.
Mặc dù vậy, xét tổng quát, từ trước
đến nay ở nước ta, quy trình xây dựng chính
sách, pháp luật chủ yếu vẫn dựa trên cơ sở
xác định nhu cầu quản lý xã hội của Nhà
nước, chứ chưa hoàn toàn từ cách tiếp cận
dựa trên quyền con người. Trong các bước
của quy trình xây dựng VBQPPL hiện nay,
mặc dù đã có một số yếu tố của HRBA
nhưng vẫn còn mờ nhạt.
Cụ thể, đối chiếu 8 bước của quy trình
hiện hành về xây dựng chính sách trong luật,
pháp lệnh với các mục tiêu của HRBA (xem
hướng dẫn của UNDP đã nêu ở trên12), có
thể thấy, chỉ có Bước 1 (Lập đề nghị xây
dựng luật, pháp lệnh – các Điều 32-38) và
Bước 2 (Thẩm định đề nghị xây dựng luật,
pháp lệnh - Điều 39) là thể hiện được một số
yêu cầu của HRBA. Các bước tiếp theo (từ
Bước 3 đến Bước 8)13 hầu như không trực
tiếp gắn với bất kỳ khía cạnh nào của tiếp
cận dựa trên quyền.
Ở Bước 1 và Bước 2, các cơ quan có
thẩm quyền tiến hành những hoạt động:
tổng kết việc thi hành pháp luật, khảo sát,
đánh giá thực trạng quan hệ xã hội liên
quan đến đề nghị xây dựng luật, pháp lệnh;
nghiên cứu khoa học, thông tin, tư liệu, điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có
liên quan; xây dựng nội dung của chính sách
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
9Số 18(394) T9/2019
trong dự án luật, pháp lệnh, các giải pháp để
thực hiện chính sách, đánh giá tác động của
chính sách, các giải pháp và lý do của việc
lựa chọn chính sách; dự kiến nguồn lực, điều
kiện bảo đảm cho việc thi hành luật, pháp
lệnh; thẩm định đề nghị xây dựng luật, pháp
lệnh. Trong quá trình đó, các yêu cầu của
HRBA có thể được xem xét (hay lồng ghép
vào) với mức độ khác nhau, bao gồm:
Ở mức độ trực tiếp, toàn diện nhất:
(1) Phân tích bản chất của vấn đề
nhân quyền đang đặt ra, các đối tượng đang
chịu sự tác động và các nguyên nhân dẫn tới
vấn đề đó.
(2) Xác định các công ước quốc tế và
quyền con người và các quy định của pháp
luật quốc gia có liên quan.
Ở mức độ gián tiếp, hạn chế hơn:
(3) Xác định mối quan hệ quyền –
nghĩa vụ/trách nhiệm giữa các chủ thể liên
quan, những đòi hỏi cơ bản của chủ thể
quyền cần được đáp ứng và những nhiệm vụ
chính của chủ thể có nghĩa vụ.
(4) Phân tích và đánh giá điều kiện,
năng lực của chủ thể quyền và chủ thể có
nghĩa vụ thực hiện quyền. Xác định được
những thiếu hụt năng lực của các bên để xây
dựng phương án phù hợp nhất.
(5) Lựa chọn các biện pháp tác động
một cách hiệu quả để giải quyết vấn đề.
Tuy nhiên, cần thấy rằng những phân
tích nêu trên chỉ mang tính lý thuyết. Trong
thực tế, do HRBA chưa được quy định cụ
thể như là một cách tiếp cận nền tảng, nên
hiệu quả lồng ghép các yếu tố nêu trên của
14 Báo cáo nghiên cứu “Thực trạng hoạt động phân tích chính sách trong quá trình xây dựng luật ở Việt Nam hiện nay”,
tài liệu đã dẫn, tr. 35.
15 Dự án Phát triển lập pháp quốc gia (2015), Báo cáo rà soát thực tiễn về hoạt động lập pháp tại Việt Nam, tr. 17.
HRBA trong quá trình xây dựng chính sách,
pháp luật ở nước ta đều ở mức hạn chế. Một
ví dụ điển hình là việc thực hiện đánh giá tác
động của chính sách (RIA). Mặc dù đây là
quy định bắt buộc, nhưng trên thực tế, báo
cáo RIA thường được xây dựng như là công
cụ để minh họa cho phương án đã được thể
hiện trong dự thảo văn bản chính sách, pháp
luật hơn là công cụ để giúp cơ quan chủ trì
soạn thảo tìm ra chính sách phù hợp với các
đối tượng bị tác động. Trong không ít trường
hợp, Báo cáo RIA được xây dựng khá muộn,
sau khi nội dung dự thảo gửi lấy ý kiến các
bộ, ngành hoặc lấy ý kiến công chúng đã
được hình thành, hoặc nội dung của nó đôi
khi được “đẽo gọt” cho phù hợp với các bản
Dự thảo14. Nói cách khác, RIA hiện mới chỉ
là một thủ tục bắt buộc với cơ quan chủ trì
soạn thảo theo quy định của Luật ban hành
VBQPPL năm 2015 chứ chưa thực sự trở
thành một công cụ hữu hiệu để giúp cơ quan
chủ trì soạn thảo tìm ra phương án chính
sách tối ưu. Không chỉ vậy, hoạt động lập
pháp trong thời gian qua ở nước ta trong
một số trường hợp được thực hiện dưới hình
thức “vừa thiết kế vừa thi công”15. Cách làm
này thường bỏ qua tất cả các nguyên tắc của
HRBA, và thường dẫn đến tình trạng chính
sách, pháp luật được ban hành thiếu tính
thực tế và khả thi.
4. Kết luận và kiến nghị
Trong khoảng hai thập kỷ gần đây,
quy trình xây dựng chính sách, pháp luật ở
Việt Nam đã thể hiện hướng tiếp cận quyền
con người ngày càng rõ hơn. Các vấn đề về
quyền con người, tuy mức độ và cách thức
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 18(394) T9/2019
khác nhau, đã được thảo luận ở tất cả các giai
đoạn của quy trình. Nhờ vậy, nhìn chung,
các chính sách và VBQPPL do Nhà nước
ban hành ngày càng có sức sống cao hơn,
điều chỉnh kịp thời và hợp lý hơn các quan
hệ xã hội phát sinh liên quan đến quyền con
người. Đây là sự chuyển động phù hợp với
xu thế phổ biến trên thế giới.
Mặc dù vậy, xét tổng quát, quy trình
xây dựng chính sách, pháp luật ở Việt Nam
hiện vẫn thiên về cách tiếp cận dựa trên yêu
cầu quản lý của Nhà nước, cách tiếp cận
dựa trên quyền còn mờ nhạt. Trong khi đó,
hiện vẫn chưa có định hướng hay quy định
cụ thể, rõ ràng về áp dụng HRBA vào quá
trình xây dựng chính sách, pháp luật. Trong
quá trình xây dựng chính sách, pháp luật ở
Việt Nam hiện nay, các vấn đề nhân quyền
chủ yếu mới chỉ được tổ chức thảo luận bởi
Nhà nước (các cơ quan nhà nước), chứ ít khi
được chủ động đề xướng và tổ chức thảo
luận bởi người dân, các doanh nghiệp hay
các tổ chức xã hội.
Chúng tôi cho rằng, nguyên nhân dẫn
đến tình trạng trên là: Thứ nhất, HRBA vẫn
còn là một vấn đề tương đối mới ở Việt
Nam, thể hiện ở hiểu biết về HRBA của
cả bên có quyền lợi (người dân, tổ chức và
doanh nghiệp) và bên có nghĩa vụ, trách
nhiệm (chủ yếu là Nhà nước) còn nhiều hạn
chế, cả về kiến thức lẫn kỹ năng phân tích và
vận dụng; thứ hai, tâm lý e ngại vấn đề nhân
quyền vẫn còn khá nặng nề trong một số cơ
quan nhà nước và nhà quản lý; thứ ba, các
cơ quan nhà nước trong quá chú trọng yêu
cầu hoàn thiện hệ thống pháp luật về thể chế
kinh tế thị trường mà có phần coi nhẹ mục
tiêu việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật
về bảo đảm quyền con người, quyền tự do,
dân chủ của công dân.
Trong thời gian tới, để thúc đẩy HRBA
trong hoạch định và thực thi chính sách,
pháp luật ở Việt Nam, chúng ta cần tiếp tục
nghiên cứu và phổ biến rộng rãi về phương
pháp này cũng như các kiến thức về quyền
con người cho người dân và đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức nhà nước. Mục tiêu
hướng tới là để các tiêu chuẩn về quyền con
người không những là nền tảng cho việc xây
thực và thực thi các chính sách, pháp luật,
mà còn trở thành những giá trị mang tính
đạo đức và pháp lý trong các hoạt động của
Nhà nước cũng như của xã hội.
Bên cạnh đó, chúng tôi cho rằng, cần
tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định của
pháp luật về ban hành VBQPPL để làm rõ
và nhấn mạnh hơn nữa các nguyên tắc của
HRBA trong toàn bộ quy trình, xem đó như
là các quy tắc bắt buộc với các chủ thể có liên
quan, đặc biệt là với các cơ quan nhà nước
ở tất cả các cấp. Điều này đặt ra yêu cầu
sửa đổi, bổ sung Luật Ban hành VBQPPL
năm 2015 để lồng ghép các nguyên tắc của
HRBA vào trong các bước của quy trình 8
bước hiện nay, đặc biệt là Bước 1 và Bước 2.
Ngoài ra, để giám sát việc áp dụng
HRBA trong xây dựng, thực thi chính sách,
pháp luật, cũng cần thiết xây dựng các bộ
chỉ số đánh giá và thiết lập một thiết chế
chuyên trách, cụ thể là cơ quan quốc gia về
bảo vệ và thúc đẩy nhân quyền. Các bộ chỉ
số đánh giá và cơ quan quốc gia về bảo vệ
và thúc đẩy nhân quyền có thể sử dụng cho
việc đánh giá và giám sát các vấn đề nhân
quyền nói chung, trong đó có việc áp dụng
HRBA trong xây dựng, thực thi chính sách,
pháp luật
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 18(394) T9/2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH:
1. Bộ Chính trị (2005), Nghị quyết số 48- NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.
2. Candy Murphy, Khái niệm và nội hàm của tiếp cận dựa trên quyền con người, dẫn theo Đậu Công Hiệp
(2015) trong sách chuyên khảo “Tiếp cận dựa trên quyền con người: Lý luận và thực tiễn”, Vũ Công Giao và
Ngô Minh Hương đồng chủ biên, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
3. Hà Hùng Cường (2009), “Hoàn thiện hệ thống pháp luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 18 (139 + 140).
4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (ngày 18 tháng 12 năm 1986).
5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ
sung, phát triển năm 2011).
6. EU, Rights-based approach to development cooperation, tại https://ec.europa.eu/europeaid/sectors/
rights-based-approach-development-cooperation_en, (truy cập 16/5/2018).
7. Vũ Công Giao và Ngô Minh Hương (đồng chủ biên) (2014), Tiếp cận dựa trên quyền con người: Lý luận
và thực tiễn, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Khoa Luật – ĐHQG Hà Nội (2011), Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb. ĐHQGHN,
Hà Nội.
9. Đinh Trung Tụng, ‘Bối cảnh, mục đích, quan điểm chỉ đạo và định hướng xây dựng dự án Luật Ban hành
VBQPPL’, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chuyên đề về Dự án Luật Ban hành VBQPPL.
10. Jakob Kirkemann Boesen và Tomas Martin (2007), Applying a rights-based approach: An inspirational
guide for civil society, The Danish Institute for Human Rights, tại https://www.humanrights.dk/publications/
applying-rights-based-approach, (truy cập 15/7/2018).
11. Đặng Hùng Võ (2018), “Thương nhớ đồng bằng”, chuyên mục Góc nhìn – Báo điện tử VnExpress,
https://vnexpress.net/tin-tuc/goc-nhin/thuong-nho-dong-bang-3778190.html, (truy cập 15/7/2018).
12. Nguyễn Duy Sơn, Trần Thị Hòe (2013), “Tiếp cận dựa trên quyền con người trong hoạch định và thực thi
chính sách ở Việt Nam”, Tạp chí Lý luận Chính trị, tại:
luan/item/595-tiep-can-dua-tren-quyen-con-nguoi-trong-hoach-dinh-va-thuc-thi-chinh-sach-o-viet-nam.html,
[truy cập: 14/5/2018].
13. Scottish Human Rights Commission, Human Rights and the Care of Older People Information Pack, tại:
(truy cập 16/4/2018).
14. SIDA, Human Rights Based Approach at Sida, tại https://www.sida.se/English/partners/resources-for-
all-partners/methodological-materials/human-rights-based-approach-at-sida/, [truy cập: 10/5/2018].
15. UNICEF: Human Rights-based Approach to Programming, tại https://www.unicef.org/policyanalysis/
rights/index_62012.html [truy cập: 10/5/2018].
16. UNFPA: The Human Rights-Based Approach, tại https://www.unfpa.org/human-rights-based-approach
[truy cập: 10/5/2018].
17. Office of the United Nations High Commissioner for Human Rights, Freequently Asked Questions
on a Human Rights-Based Approach to Development Cooperation, tại https://www.ohchr.org/documents/
publications/FaQen.pdf, [truy cập: 10/5/2018].
18. Văn phòng Điều phối thường trú Liên hợp quốc tại Việt Nam, Phương pháp tiếp cận dựa trên cơ sở
quyền con người, Tài liệu hướng dẫn của UNDP, tại:
Toolkit_-_Vietnamese.pdf, [truy cập: 14/5/2018].
19. Viện Khoa học pháp lý-Bộ Tư pháp, Dự án Phát triển lập pháp quốc gia (NLD), 2014, Báo cáo nghiên
cứu “Thực trạng hoạt động phân tích chính sách trong quá trình xây dựng luật ở Việt Nam hiện nay”.
20. Tạ Thị Bích Ngọc, “Tiếp cận dựa trên quyền con người trong chính sách giảm nghèo của Việt Nam”, Tạp
chí Nghiên cứu Chính sách, số 4 (33), 25/10/2017.
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 18(394) T9/2019
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phuong_phap_tiep_can_dua_tren_quyen_con_nguoi_va_kha_nang_ap.pdf