Hương ước Choson ra đời theo ý tưởng tân tiến của
các bậc túc Nho Choson. Trên cơ sở tiếp thu bốn điểm
mấu chốt của hương ước họ Lã thông qua bản Chu Tử tăng
tổn Lã Thị hương ước, nhiều tầng bậc của tư tưởng Nho
giáo được “khuôn nắn” lại định ra lối xử sự phù hợp cho
dân chúng.
Với các bản hương ước chữ Hán Choson thời kỳ này,
các nhà Nho Choson cố gắng hướng sự quan tâm của bậc
gia trưởng và cộng đồng đến người phụ nữ, dù chỉ là một
vài quy định đơn lẻ. Qua những ưu ái bên trên cho thấy,
quan niệm “nam tôn nữ ty” theo quan điểm Nho giáo Trung
Hoa rất khắc nghiệt nhưng lại được các nhà nho Choson
thể hiện sự tiến bộ về mặt nhận thức trong hương ước
Choson thế kỷ XVII – XVIII. Đặc biệt là ưu ái về vị trí chỗ
ngồi dự giảng hương ước. Chỉ riêng điều này nếu đem so
sánh với Trung Quốc và Việt Nam, Nho giáo Choson thể
hiện tính nhân văn cao cả, không bị lệ thuộc vào nhân sinh
quan thời đại. Đây được đánh giá là điểm tiến bộ của hương
ước Choson, góp phần dung hòa và ổn định trật tự xã hội.
5 trang |
Chia sẻ: huongthu9 | Lượt xem: 370 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quan niệm “nam tôn nữ ty” trong văn bản hương ước chữ hán Choson thế kỷ XVII–XVIII, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(131).2018 51
QUAN NIỆM “NAM TÔN NỮ TY” TRONG VĂN BẢN HƯƠNG ƯỚC CHỮ HÁN
CHOSON THẾ KỶ XVII – XVIII
THE CONCEPTION OF VALUING MEN ABOVE WOMEN IN THE VILLAGE REGULATION
DOCUMENTS IN HAN SCRIPT OF CHOSON DYNASTY IN THE 17th AND 18th CENTURIES
Đỗ Thị Hà Thơ
Trường Đại học Đồng Tháp; dothihatho@gmail.com
Tóm tắt - Trong bối cảnh nhiễu loạn của xã hội thế kỷ XVII –
XVIII, Vương triều Choson đã vận dụng thành công quy điều
hương ước để duy trì, ổn định trật tự xã hội. Trên cơ sở tiếp thu
ý tưởng từ hai bản hương ước của Trung Quốc là 藍田呂氏鄉約
Lam Điền Lã Thị hương ước và 朱子增損呂氏鄉約 Chu Tử tăng
tổn Lã Thị hương ước, hương ước Choson phản ánh phát kiến
của sĩ phu Choson về các vấn đề thời đại. Nhất là quan niệm
nam tôn nữ ty, trọng nam khinh nữ của Nho giáo Trung Quốc đã
được Nho sĩ Choson khuôn nắn lại, hướng tới một xã hội bình
quyền ở vương quốc sùng Nho. Dù chỉ với các quy điều đơn lẻ
dành cho nữ giới, nhưng hương ước Choson vẫn cho thấy sự
tiến bộ về mặt nhận thức của các bậc túc Nho về tôn – ty, trọng
– khinh so với Nho giáo Trung Quốc.
Abstract - In the context of disturbances of the society in the 17th
and 18th centuries, the Choson dynasty successfully applied the
provisions of the village regulation to maintain and stabilize the social
order. On the basis of being open to ideas from two village
regulations of China, which was 藍田呂氏鄉約 Lam Dien La Thi
village regulation and 朱子增損呂氏鄉約 Chu Tu tang ton La Thi
village regulation, the Choson village regulation reflects Choson's
new ideas of modern issues. Most notably, the concept of valuing
men above women and patriarchy of Chinese Confucianism was
recreated by Choson Confucianist, toward an equal society in the
kingdom of Confucian fashion. Even with the single rules for women,
the Choson village regulation shows the progressive awareness of
Choson Confucianists about superiority and inferiority, respect and
contempt compared to Chinese Confucianists.
Từ khóa - nam tôn nữ ty; Nho giáo Choson; tiến bộ của Nho giáo
Choson; hương ước Choson; hương ước chữ Hán Choson thế kỷ
XVII – XVIII.
Key words - value men above women; Choson Confucianism;
progress of the Choson Confucianism; Choson village regulation;
Choson village regulation in Han script in the century XVII – XVIII.
1. Đặt vấn đề
Hương ước Choson1 cụ thể hóa các quy điều Nho giáo
của Trung Quốc để giáo dục con người hướng tới việc thiết
lập và ổn định trật tự xã hội. Đặc biệt giai đoạn thế kỷ XVII
– XVIII, hương ước càng phát huy tác dụng trong việc chặn
đứng và xoa dịu vết thương đạo lý trong lòng xã hội
Choson sau thảm họa và tàn dư của cuộc chiến tranh vệ
quốc với tộc người Nữ Chân2 vào hai năm 1627 và 1636.
Trong quá trình tiếp chuyển Nho giáo, Nho sĩ Choson đâu
đó vẫn thể hiện điểm dừng đúng mức đối với những suy
nghĩ mang tính định kiến của sĩ phu Trung Quốc về vấn đề
nam trọng nữ khinh, vốn đã ăn sâu vào tiềm thức của người
dân nước này. Theo đó, dù được đề cập đến qua vài quy
định gián tiếp hay đơn lẻ, ý tưởng của Nho sĩ Choson thực
sự giúp cho người phụ nữ phần nào vơi bớt mặc cảm bản
thân, để góp sức vào công cuộc chung của đất nước.
2. Kết quả nghiên cứu và khảo sát
2.1. Khái quát về hương ước chữ Hán Choson thế kỷ
XVII – XVIII
Hương ước Choson chịu ảnh hưởng sâu sắc từ hai bản
hương ước của Trung Quốc là 藍田呂氏鄉約 Lam Điền Lã
thị hương ước (Hương ước họ Lã ở đất Lam Điền) thời Bắc
Tống và 朱子增損呂氏鄉約 Chu Tử tăng tổn Lã thị hương
ước (Chu Tử thêm giảm hương ước họ Lã ở đất Lam Điền)
thời Nam Tống. Việc xúc tiến triển khai hương ước ở
1 Choson 조선 (theo phiên âm tiếng Triều Tiên) hay Triều Tiên 朝鮮 là triều đại do Lý Thành Quế sáng lập, tồn tại 5 thế kỷ (1392 – 1910), là tên gọi
chung cho cả Triều Tiên và Hàn Quốc trước cuộc chiến tranh Nam-Bắc xảy ra ở thế kỷ XX (năm 1953). Trong bài viết này, tác giả thống nhất tên gọi
là Choson.
2 Người Nữ Chân sống ở phía Bắc Trung Quốc, lập nên nhà Kim tồn tại từ năm 1115. Về sau, tộc người này càng lớn mạnh đã đánh đổ triều nhà Minh
Trung Quốc, lập nên nhà Thanh. Kết thúc cuộc chiến tranh vệ quốc của Choson là sự lệ thuộc hoàn toàn của vương triều đối với Mãn Thanh theo kiểu
chư hầu – thiên tử.
Choson được giới nhân sĩ quan tâm sát sao. Tháng 6 năm
Trung Tông 12 (1516), 金仁範 Kim Nhân Phạm, người
Hàm Dương, tỉnh Khánh Thượng dâng sớ xin áp dụng
hương ước để giáo dục dân. Năm Trung Tông 13 (1517),
quan Tri trung Xu phủ sự là 金安國 Kim An Quốc dâng sớ
xin vua tuyển tập in ấn và ban bố hương ước cho dân. Theo
đó, Kim An Quốc cùng sảnh tuyển dụng hương ước trên
toàn quốc và bản 朱子增損呂氏鄉約諺解 Chu Tử tăng
tổn Lã Thị hương ước ngạn giải (Giải thích rõ bản Chu Tử
thêm giảm hương ước họ Lã ở đất Lam Điền) ra đời. Bản
Chu Tử tăng tổn Lã Thị hương ước ngạn giải được biên
soạn với nỗ lực dịch giải bản Chu Tử tăng tổn Lã Thị hương
ước sang chữ Hàn bên cạnh nguyên tác chữ Hán của Chu
Tử. Năm Trung Tông 14 (1518), quan Đại tư hiến là 趙光
祖 Triệu Quang Tổ, quan Đại tư thành là 金緹等 Kim Đề
Đẳng tiếp tục triển khai vận dụng bản Chu Tử tăng tổn Lã
Thị hương ước ngạn giải đến toàn dân. Như vậy, người
Choson hoàn toàn không tiếp xúc trực tiếp với bản Lam
Điền Lã Thị hương ước. Cái mà họ gọi là Lã Thị hương ước
thực ra là bản hương ước của Chu Tử thời Nam Tống du
nhập vào Choson thời vua Seongjong (成宗 Thành Tông,
1469 – 1494). Từ bản hương ước của Chu Tử, các nhà Nho
Choson triển khai bốn điểm mấu chốt trong Lam Điền Lã
Thị hương ước soạn thảo ra những bản hương ước phù hợp
với tình hình thực tế của nước mình. Năm Minh Tông thứ
11 (1555), Tiền phó Đề học là 李滉 Lý Hoàng tiến hành
52 Đỗ Thị Hà Thơ
soạn và thi hành điều ước (gồm 28 điều), chia ba mức phạt
(nặng, vừa, nhẹ). Năm thứ 15 (1559) ban bố lễ xuống các
châu, ấp, lệnh biên soạn hương ước. 李珥 Lý Nhĩ soạn
hương ước áp dụng ở hương Pha Châu (năm 1560), hương
Tây Nguyên (năm 1571). Lý Hoàng soạn hương ước áp
dụng vào hương Lễ An (năm 1556). Đây được xem là dòng
hương ước riêng của Choson.
Hương ước Choson giai đoạn thế kỷ XVII – XVIII có
tổng cộng 09 văn bản đều thuộc địa phận Nam Triều Tiên
ngày nay, được sưu tầm và in lại trong sách 朝鮮時代社會
研究史料叢書 Triều Tiên thời đại xã hội sử nghiên cứu
sử liệu tùng thư (Tổng tập tư liệu sử nghiên cứu lịch sử xã
hội thời đại Triều Tiên) quyển 1 vào năm 1986 tại Seoul,
Hàn Quốc, do Phạm Thị Thùy Vinh ở Viện Nghiên cứu Hán
Nôm, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam mang về nước sau
khi kết thúc đợt nghiên cứu ở Hàn Quốc năm 2003.
Bảng 1. Số lượng văn bản hương ước chữ Hán Choson thế kỷ
XVII - XVIII
TT Tên văn bản Niên đại
1
安東鄉約
An Đông hương ước
1602
2
蜜陽鄉約
Mật Dương hương ước
1648
3
磻溪鄉約
Bàn Khê hương ước
Cuối thế
kỷ XVII
4
鄉約通變
Hương ước thông biến
1706
5
尚州鄉約
Thượng Châu hương ước
1730
6
報恩鄉約條目
Báo Ân hương ước điều mục
1747
7
順興府鄉約節目
Thuận Hưng phủ hương ước tiết
mục
1765
8
金浦面鄉約節文
Kim Phố diện hương ước
tiết văn
1771
9
鄉禮合編
Hương lễ hợp biên
1797
Các bản hương ước thời kỳ này có số trang trích dẫn
chủ yếu theo trật tự số trang trong Triều Tiên thời đại xã
hội sử nghiên cứu sử liệu tùng thư quyển 1 và được trình
bày theo quy cách sau:
- 3 bản thế kỷ XVII: 安東鄉約 An Đông hương ước
gồm 6 trang (từ trang 47 – 52); 蜜陽鄉約 Mật Dương
hương ước gồm 13 trang (từ trang 53 – 65); 磻溪鄉約 Bàn
Khê hương ước gồm 12 trang (từ trang 66 –77) và 3 bản
thế kỷ XVIII: 報恩鄉約條目 Báo Ân hương ước điều mục
gồm 16 trang (từ trang 489 – 504); 順興府鄉約節目
Thuận Hưng phủ hương ước tiết mục gồm 10 trang (từ
trang 505 – 514); 鄉禮合編 Hương lễ hợp biên gồm 3
quyển3, tổng cộng 68 trang (từ trang 522 – 589). Sáu văn
bản này được khắc in theo mô thức chung: Trên cùng một
trang giấy chia làm hai phần, mỗi phần phân thành các hàng
3 Cụ thể: Quyển 1 ghi chép Hương ẩm tửu lễ, quyển 2 ghi chép Hương xạ lễ và Hương ước, quyển 3 ghi chép Sĩ quán lễ và Sĩ hôn lễ.
4 Hai lễ này được trích tham khảo từ những luận giải của Tư Mã thư nghi, Quốc triều ngũ lễ nghi và Chu tử gia lễ của Trung Quốc nói đến cách thi lễ,
hướng đi đứng của khách, chủ và đối tượng chính của buổi lễ.
dọc để ghi nội dung văn bản và phần rốn sách. Trong nội
dung văn bản, có in những chữ nhỏ xen lẫn chữ lớn, có khi
một dòng chữ nhỏ được viết trong cùng một dòng chữ lớn,
cũng có khi có từ hai đến ba dòng chữ nhỏ được viết trong
cùng một dòng chữ lớn. Chữ nhỏ là phần minh giải và bổ
sung cho phần chữ lớn.
- Ba văn bản hương ước còn lại của thế kỷ XVIII gồm:
尚州鄉約 Thượng Châu hương ước gồm 5 trang (từ trang
484 – 488), mỗi trang chia làm bốn phần ghi nội dung văn
bản, không có rốn sách; 金浦面鄉約節文 Kim Phố diện
hương ước tiết văn gồm 7 trang (từ trang 515 – 521), mỗi
trang cũng chia làm hai phần, mỗi phần 8 cột, không in
phần rốn sách và được viết bằng lối chữ thảo; bản 鄉約通
變 Hương ước thông biến tổng cộng 406 trang (từ trang 78
– 483) được viết bằng lối chữ thảo như bản Kim Phố diện
hương ước tiết văn, trình bày trên cùng 1 trang từ trên
xuống không chia phần và cũng không ghi phần rốn sách.
Qua khảo cứu nội dung văn bản, có thể nhận thấy các
văn bản hương ước Choson giai đoạn này đều chú trọng
đến việc giáo dục cách hành xử cá nhân dành cho bậc gia
trưởng. Các nhà Nho Choson tập trung khai thác quy tắc
ứng xử trong phạm vi gia đình với mối quan hệ với cha mẹ,
anh em, thân tộc, vợ chồng, nam nữ. Từ đó mỗi cá nhân tự
định hình cách ứng xử ở môi trường rộng hơn: hương đảng,
xã hội. Trong phạm vi bài viết này, tác giả xin giới thiệu
quy định cũng như quan niệm của người Choson đối với
nữ giới trong mối quan hệ vợ chồng, nam nữ qua tư liệu
hương ước chữ Hán thế kỷ XVII – XVIII.
2.2. Quy định dành cho nữ giới trong văn bản hương ước
chữ Hán Choson thế kỷ XVII – XVIII
Chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng Nho giáo Trung Quốc,
9 văn bản hương ước Choson giai đoạn này với tổng cộng
543 trang đều đề cập nhiều đến cách tu thân, tề gia của nam
giới mà ít thấy nói đến người phụ nữ. Người phụ nữ chỉ
được nhắc đến bằng một vài quy định gián tiếp nằm rải rác
trong các bản hương ước Choson bấy giờ qua việc giáo dục
cách ứng xử của bậc gia trưởng. Nếu tổ hợp lại những quy
định này không quá 1 trang văn bản, ngay cả phần ghi chép
về lễ trong bản Hương lễ hợp biên mục 士冠禮 Sĩ quán lễ
(Lễ đội mũ của kẻ sĩ) và 士婚禮 Sĩ hôn lễ (Lễ kết hôn của
kẻ sĩ)4 ờ quyển 3 thì quy định lễ cài trâm và lễ xuất giá cho
nữ giới cũng chỉ được 1 trang văn bản. Những quy định này
được xem là những chiếu cố và ưu ái hiếm hoi của một đất
nước sùng Nho dành cho nữ giới, có thể kể đến sau đây:
2.2.1. Bảo vệ quyền lợi trong phạm vi gia đình
Hương ước Choson giai đoạn này đều thống nhất kê
cứu quy tắc ứng xử trong mối quan hệ vợ chồng được
khuôn lại ở chữ lễ: 待妻妾以禮 đãi thê thiếp dĩ lễ. Yêu cầu
này rút ra từ chuẩn 德業 đức nghiệp, một trong bốn điểm
mấu chốt của Lam Điền Lã thị hương ước. Khái niệm đức
nghiệp giống nhau ở các bản hương ước, đại thể trích lược
quy định ở thế kỷ XVII như sau:
事父母盡其誠孝,教子弟必以義方,尊敬長上,和睦
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(131).2018 53
鄰里,友愛兄弟,敦厚親舊,待妻妾以禮,接朋友有信,立
心以忠厚不欺,行己必恭謹篤敬,見善必行,聞過必改。5
(Thờ cha mẹ phải hết mực hiếu thuận, dạy dỗ con em phải
hợp nghĩa, tôn kính các bậc trưởng thượng, hoà mục với
hàng xóm láng giềng, yêu thương anh em, hoà thuận với
thân thích, đối đãi với thê thiếp theo lễ, cư xử với bạn bè
phải giữ chữ tín, giữ lòng trung hậu không lừa dối, ăn ở
cung khiêm, cẩn thận, dốc lòng, kính trọng, gặp việc thiện
tất làm, nghe lỗi lầm phải sửa) [10, trang 47].
Từ khuôn quy chiếu này, tác giả văn bản kê cứu quy
định xử phạt người chồng mức phạt cao nhất6 nếu để:
- 家道悖亂者夫妻敺罵,男女無別,其正妻嫡妾倒置,以妾為
妻,以孽為嫡,孽反凌嫡,嫡不撫孽。7 (Gia đạo đảo lộn [Chồng
vợ mắng chửi nhau, không phân biệt nam nữ, vợ cả, vợ lẽ
bị đảo trật tự, lấy thiếp làm thê, lấy con vợ lẽ làm con đích;
con vợ lẽ trái lại lăng mạ con đích, con đích không dạy dỗ
con vợ lẽ]) bản An Đông hương ước, Mật Dương hương
ước và Thượng Châu hương ước. [10, trang 47, 53 và 484].
- 家道乖亂夫妻敺罵,男女無別,嫡庶無分之類。8(Gia đạo
bị đảo lộn [Chồng vợ mắng chửi nhau, không phân biệt
nam nữ, không phân rõ đích thứ]) bản Bàn Khê hương ước9
[10, trang 66].
- 家道悖亂者如少或陵長,孽反陵嫡之類。10(Gia đạo bị
đảo lộn [như người nhỏ lại lăng nhục bậc trưởng thượng,
con thứ lăng mạ con đích]) bản Thuận Hưng phủ hương
ước tiết mục11 [10, trang 507].
Như vậy, quy định trên góp phần bảo vệ quyền lợi có
thực cho người phụ nữ gia đình. Bên cạnh đó, hương ước
chữ Hán Choson giai đoạn này tiến tới giáo dục người phụ
nữ qua kê cứu quy định xử phạt người vợ nếu phạm vào
lỗi sau:
- 有夫女潛奸者12 (Kẻ là nữ có chồng nhưng gian
dâm) [10, trang 49, 53 và 485] bản An Đông hương ước,
Mật Dương hương ước và Thượng Châu hương ước đều
thống nhất xử mức phạt nặng nhất.
- 妻於衆中罵夫者13 (Kẻ làm vợ ở chốn đông người
la mắng chồng) [10, trang 49] bản Báo Ân hương ước điều
mục soạn năm 1747 xử mức phạt vừa14.
- 以妻打夫者,以妻詬辱其夫者15 (Vợ đánh chồng, vợ
lăng nhục chồng) [10, trang 517] bản Kim Phố diện hương
ước tiết văn soạn năm 1771 quy định xử mức phạt nặng
nhất16.
5 Phiên âm: Sự phụ mẫu tận kỳ thành hiếu, giáo tử đệ tất dĩ nghĩa phương, tôn kính trưởng thượng, hoà mục lân lí, hữu ái huynh đệ, đôn hậu thân cựu,
đãi thê thiếp dĩ lễ, tiếp bằng hữu hữu tín, lập tâm dĩ trung hậu bất khi, hành kỷ tất cung cẩn đốc kính, kiến thiện tất hành, văn quá tất cải.
6 Mức cao nhất là báo lên quan buộc tội, mức vừa là cắt bỏ hộ tịch, mức thấp nhất là trục xuất khỏi hội. [10, trang 49, 53 và 484].
7 Phiên âm: Gia đạo bội loạn giả [phu thê ẩu mạ, nam nữ vô biệt, kỳ chính thê đích thiếp đảo trí, dĩ thiếp vi thê, dĩ nghiệt vi đích, nghiệt phản lăng đích,
đích bất phủ nghiệt].
8 Phiên âm: Gia đạo quai loạn [phu thê ẩu mạ, nam nữ vô biệt, đích thứ vô phân chi loại].
9 Bản Bàn Khê hương ước định phạt như sau: Nhẹ thì truất bỏ chỗ ngồi, nặng thì truất tên khỏi sổ hộ tịch [10, trang 66].
10 Phiên âm: Gia đạo bội loạn giả [như thiếu hoặc lăng trưởng, nghiệt phản lăng đích chi loại].
11 Bản Thuận Hưng phủ hương ước tiết mục đề xuất báo lên quan liệu tội [10, trang 508].
12 Phiên âm: Hữu phu nữ tiếm gian giả.
13 Phiên âm: Thê ư chúng mạ phu giả.
14 Mức phạt vừa: Kẻ sĩ thì chỉ những người ngồi ở bức tường phía Tây trách phạt, hạ nhân thì phạt đánh 20 roi [10, trang 496].
15 Phiên âm: Dĩ thê đả phu giả, dĩ thê cấu nhục kỳ phu giả.
16 Bản Kim Phố diện hương ước tiết văn đồng thuận mức phạt nặng là báo quan định tội.
17 Phiên âm: Xử nữ bần lũ quá thời bất hôn giả, cô nhi đơn nhược thất học vô quy giả tịnh báo quan ty hoặc tự ước trung thông nghị thiện xử.
18 Phiên âm: Kiến lư lí phụ nữ cẩn tỵ thân, hoặc tiếp ngôn ngữ vô bội mạn.
Các mức phạt được duy trì qua các bản hương ước thời
kỳ này và tiếp nối đến tận các bản hương ước thế kỷ XX.
Điều thú vị là hình thức phạt báo quan luận tội được kê ở
mức cao nhất, tức lỗi vi phạm gây ảnh hưởng nghiêm trọng
đến xã hội đã thoát ra ngoài lệ định của làng xã, buộc phải
xử lý theo pháp luật nhà nước. Ngoài ra, quy định mức phạt
nặng nhất ở bản Báo Ân hương ước điều mục có sự phân
biệt giữa kẻ sĩ và hạ nhân. Theo đó, kẻ sĩ chỉ bị trách phạt
còn hạ nhân bị phạt roi. Ưu ái này ít nhiều phác họa rõ nét
xã hội 實學 thực học – học thuật thực hành – của Choson
bấy giờ, với chủ trương đề cao kẻ sĩ – người có học.
Từ những quy định đơn lẻ trên có thể thấy, khi Nho giáo
hóa thân vào hương ước của người Choson dành rất ít sự
quan tâm đến vấn đề giáo dục nữ giới. Nữ giới dường như
bị chới với trong con mắt nhà Nho, khó mong có một tư
cách độc lập, bởi vì đạo làm người của họ bị đóng khung
trong chữ “thuận tòng”. Người phụ nữ vẫn chuyên tâm lo
rèn giũa bản thân mình theo đức nhưng đó lại là đức trong
tứ đức, gồm: công (khéo léo), dung (nhan sắc), ngôn (lời
nói), hạnh (tiết hạnh) hướng tới sự hoàn mỹ cả nội dung
lẫn hình thức. Họ xuất hiện rất mờ nhạt trong hương ước
Choson bấy giờ. Những chiếu cố hiếm hoi của nhà Nho xét
cho cùng cũng chỉ là công cụ điều khiển của chế độ nam
quyền, phục vụ cho tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu, phu tử tòng tử) để thêm một lần nữa nam giới tự
khẳng định và tự hoàn thiện mình ở công đoạn “tu thân”,
“tề gia” đạt đến một diện mạo chuẩn trước khi ứng xử với
cộng đồng. Theo đó, ý thức hệ Nho giáo trong mối quan hệ
vợ chồng đã giúp duy trì trạng thái cân bằng trong gia đình
đàn ông có nhiều vợ.
2.2.2. Chiếu cố đến những hoàn cảnh phụ nữ éo le
Khảo cứu hương ước Choson thời kỳ này, tác giả văn
bản thể hiện những cố gắng bảo vệ lợi ích cho người phụ
nữ, đại loại ở một vài quy định sau:
- Bản An Đông hương ước và Mật Dương hương ước
cùng quy định: 處女貧窶過時不婚者,孤兒單弱失學無歸
者並報官司或自約中通議善處。17 (Con gái nhà nghèo để
quá tuổi xuân chưa kết hôn được, cô nhi yếu thế thất học
không biết đi về đâu tất cả đều phải báo lên quan hoặc dựa
theo những điều quy định mà giải quyết cho tốt) [10, trang
49 và 57].
- Bản Mật Dương hương ước còn cho hay: 見閭里婦女
謹避身,或接言語無悖慢。18 (Gặp phụ nữ trong làng nên
54 Đỗ Thị Hà Thơ
chú ý mà tránh, hoặc giả có chuyện trò với nhau thì không
được suồng sã) [10, trang 57].
- Bản Báo Ân hương ước điều mục kê: 年壯處女貧甚
過時未嫁者告官給資裝,約中亦随宜扶助。19 (Con gái
đương xuân vì nhà nghèo đành để lỡ thì chưa xuất giá được
thì báo quan giúp cho tư trang, người trong ước cũng nên
giúp đỡ tùy theo sức của mình) [10, trang 493 – 494].
Ngoài ra tác giả văn bản đưa ra mức xử phạt từ mức vừa
cho tới mức cao nhất đối với những trường hợp: 守身孀婦
誘脅污奸者 (Kẻ dụ dỗ hoặc bức hiếp đàn bà góa thông
dâm) [10, trang 48, 508] ở bản An Đông hương ước, Thuận
Hưng phủ hương ước tiết mục; 與他人處女扶執相狎者20
(Kẻ giúp con gái người ta lại có ý suồng sã), 里中男女無禮
發昵狎滛戲之言者21 (Nam nữ trong lí vô lễ, đưa ra lời nói
thân mật cợt nhã, phóng đãng để trêu đùa nhau) [10, trang
497] bản Báo Ân hương ước điều mục; 里中男女無禮發昵
狎滛戲之言者, 與他人扶執相狎者22 (Nam nữ trong lí nói
những lời cợt nhã, đùa giỡn thái quá, giúp người khác lại có
ý suồng sã) [10, trang 518] bản Kim Phố diện hương ước tiết
văn;...
Tất cả những điều đó là sự an ủi, vỗ về đáp trả những
cống hiến thầm lặng của người phụ nữ. Những chiếu cố của
tập thể hương đảng phần nào xoa dịu nỗi tủi hỗ cho những
ai sinh ra đời trót mang thân con gái. Đặc biệt, các nhà Nho
thời kỳ này đồng nhất kê cứu xử phạt những kẻ thông gian
với du nữ, là những chiếu cố hiếm hoi đối với phụ nữ có
lối sống phóng túng, bị xem thường:
- 遊女相奸作亂傷人者23 (Kẻ thông dâm với du nữ làm
phương hại đến nhân luân) [10, trang 49, 54 và 486] định
mức phạt vừa ở bản An Đông hương ước, Mật Dương
hương ước và Thượng Châu hương ước.
- 遊女相奸者24 (Gian dâm với du nữ) [10, trang 73]
không được cùng yến ẩm vào lễ hội họp của hương đảng
theo định kỳ trong bản Bàn Khê hương ước.
Xử phạt những kẻ thông gian với du nữ đã đành, hương
ước Choson còn đưa ra quy định lý thú khác, đó là xử phạt
cả người có quen biết với kẻ mắc lỗi thông gian với dâm
nữ mức phạt nặng nhất25. Cụ thể bàn Báo Ân hương ước
điều mục cho hay:
- 朋友族屬通奸滛女者26 (Kẻ có bạn bè, họ hàng thông
gian với dâm nữ) [10, trang 497].
Quy điều này nhằm hạn chế đến mức tối đa những gì
gây tổn hại đến thành phần bị xem là dưới đáy xã hội. Mặt
khác có thể thấy, đây cũng là định chế thiên kiến có phần
cứng nhắc để chuẩn hóa hành vi ứng xử của nam giới với
hương đảng và xã hội. Những quy định kể trên cung cấp
19 Phiên âm: Niên tráng xử nữ bần thậm quá thời vị giá giả cáo quan cấp tư trang, ước trung diệc tùy nghi phù trợ.
20 Phiên âm: Dữ tha nhân xử nữ phù chấp tương hiệp giả.
21 Phiên âm: Lí trung nam nữ vô lễ phát nật hiệp dâm hí chi ngôn giả.
22 Phiên âm: Lí trung nam nữ vô lễ phát nật hiệp dâm hí chi ngôn giả, dữ tha nhân phù chấp tương hiệp giả.
23 Phiên âm: Du nữ tương gian tác loạn thương nhân giả.
24 Phiên âm: Du nữ tương gian giả.
25 Dịch nghĩa: Mức phạt nặng nhất: Kẻ sĩ thì đứng ở đình nghị sự, hạ nhân thì phạt đánh 40 roi [10, trang 496].
26 Phiên âm: Bằng hữu, tộc thuộc thông gian dâm nữ giả.
27 Phiên âm: Xuân thu Giảng tín lễ đại tiểu thượng hạ hàm tập: Phẩm quan vi nhất sảnh, thứ nghiệt vi nhất sảnh, thứ nghiệt thiếu nhi bình nhật phẩm
quan động trung. Giảng tín đồng tham giả tắc ư phẩm quan hội tịch. Vị đồng tham hương lại vi nhất sảnh phi quan phủ tắc phủ, hạ nhân vi nhất sảnh
nhi hạ nhân tắc nam nữ giai hội nam tả, nữ hữu, các hành lễ sổ tọa định biệt.
28 Sảnh: Phòng.
một cái nhìn toàn thể bức chân dung nam tôn nữ ty, trọng
nam khinh nữ của xã hội phong kiến Choson đương thời.
2.2.3. Quy định tham dự lễ Giảng tín kỳ Xuân thu
Bao quát hương ước Choson thời kỳ này, lễ hội Choson
được tổ chức vào hai mùa xuân, thu gọi là lễ Giảng tín kỳ
Xuân thu. Lễ này ở thế kỷ XVII tổ chức vào những ngày
đầu tháng, có khi vào thượng tuần tháng Tư. Tập tục này
được tiếp nối sang thế kỷ XVIII, về sau tần số tổ chức nhiều
hơn, mỗi mùa đều có, ghi dấu sự vận hành sát sao của
hương ước đối với đời sống cư dân.
Khi Nho giáo thâm nhập ngày một sâu rộng vào đời
sống dân làng, đó cũng chính là lúc người phụ nữ bị lép vế
sau những hoạt động hương thôn. Tuy nhiên hương ước
Choson bấy giờ tạo thái độ hòa nhã, không quá khắt khe
như Trung Quốc. Theo đó, người phụ nữ vẫn được xếp vị
trí ngôi thứ những buổi hội họp hương đảng. Qua khảo sát,
quy định này chỉ xuất hiện trong hương ước thế kỷ XVII ở
bản Mật Dương hương ước:
春秋講信禮大小上下咸集:品官為一廳,庶孽為一廳,
庶孽少而平日品官洞中。講信同參者則於品官會席。未
同參鄉吏為一廳非官府則否,下人為一廳而下人則男女
皆會男左,女右,各行禮數坐定別。27 [10, trang 52].
(Vào lễ Giảng tín kỳ Xuân thu, lớn nhỏ trên dưới trong
làng tập hợp lại: Hàng Nho phẩm ở một sảnh28, con cháu
ở một sảnh, con cháu thiếu thì thường các phẩm quan ngồi
bên trong. Những ai cùng tham gia lễ hội thì ngồi chung
chiếu với các phẩm quan. Các quan lại chưa tham gia thì
ở một sảnh [không thuộc hàng quan lại thì không tính].
Những người thuộc hàng hạ nhân ở một sảnh, trong hàng
hạ nhân thì tất cả nam nữ đều được cùng tụ hội, nam tả nữ
hữu và khi hành lễ đều có sắp vài hàng ghế để phân biệt).
Song quy định kể trên cũng đủ minh chứng cho sự trưởng
thành về mặt nhận thức của người dân Choson. Tri thức
Choson thể hiện sự tiến bộ với việc phát huy vai trò của
người phụ nữ trong hoạt động hương thôn. Nhờ đó, những
dịp hội họp hương đảng những ngày đầu mùa góp thêm sắc
màu làm phong phú đời sống của cư dân nông nghiệp.
3. Kết luận
Hương ước Choson ra đời theo ý tưởng tân tiến của
các bậc túc Nho Choson. Trên cơ sở tiếp thu bốn điểm
mấu chốt của hương ước họ Lã thông qua bản Chu Tử tăng
tổn Lã Thị hương ước, nhiều tầng bậc của tư tưởng Nho
giáo được “khuôn nắn” lại định ra lối xử sự phù hợp cho
dân chúng.
Với các bản hương ước chữ Hán Choson thời kỳ này,
các nhà Nho Choson cố gắng hướng sự quan tâm của bậc
ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, SỐ 10(131).2018 55
gia trưởng và cộng đồng đến người phụ nữ, dù chỉ là một
vài quy định đơn lẻ. Qua những ưu ái bên trên cho thấy,
quan niệm “nam tôn nữ ty” theo quan điểm Nho giáo Trung
Hoa rất khắc nghiệt nhưng lại được các nhà nho Choson
thể hiện sự tiến bộ về mặt nhận thức trong hương ước
Choson thế kỷ XVII – XVIII. Đặc biệt là ưu ái về vị trí chỗ
ngồi dự giảng hương ước. Chỉ riêng điều này nếu đem so
sánh với Trung Quốc và Việt Nam, Nho giáo Choson thể
hiện tính nhân văn cao cả, không bị lệ thuộc vào nhân sinh
quan thời đại. Đây được đánh giá là điểm tiến bộ của hương
ước Choson, góp phần dung hòa và ổn định trật tự xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Ban biên soạn giáo trình Hàn Quốc học, Lịch sử Hàn Quốc, NXB
Đại học Quốc gia Seoul, 2005.
[2] Đỗ Thị Hà Thơ, “Vấn đề giáo dục con người trong văn bản hương
ước chữ Hán Choson thế kỷ XVII – XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu
Đông Bắc Á, Số 11, 2011, trang 56 – 67.
[3] Đỗ Thị Hà Thơ, “Tục trọng xỉ trong văn bản hương ước chữ Hán
Triều Tiên thế kỷ XVII – XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á,
Số 3, 2009, trang 69 – 74.
[4] Đỗ Thị Hà Thơ, “Một số vấn đề văn bản hương ước chữ Hán Choson
thế kỷ XVII – XVIII”, Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ,
Số 34, 2014, trang 13 – 19.
[5] Đỗ Thị Hà Thơ, “Hình thức xử phạt trong hương ước chữ Hán
Choson thế kỷ XVII – XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, Số
2, 2015, trang 62 – 71.
[6] Phạm Thị Thùy Vinh, “Văn bản hương ước chữ Hán Triều Tiên thời
kỳ trung cận đại”, Tạp chí Hán Nôm, Số 2, 2006, trang 10 – 22.
[7] Phạm Thị Thuỳ Vinh, “Nghiên cứu so sánh văn bản hương ước chữ
Hán Triều Tiên và Việt Nam thời kỳ trung cận đại”, Tạp chí Nghiên
cứu Đông Bắc Á, Số 2, 2006, trang 27 – 39.
[8] Phạm Thị Thuỳ Vinh, Những điểm tương đồng và dị biệt trong văn
bản hương ước chữ Hán của Triều Tiên và Việt Nam, Kỷ yếu Hội
thảo Quốc tế Kỷ niệm 15 năm thành lập quan hệ ngoại giao Việt
Nam - Hàn Quốc, Hội Sử học Hàn Quốc và Hội Khoa học lịch sử
Việt Nam, Hà Nội, 2007.
[9] Viện Nghiên cứu Hán Nôm,Việt Nam - Viện Harvard Yenching Hoa
Kỳ, Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên
ngành, NXB Thế giới, 2009.
[10] 金仁杰,韓相權, 朝鮮時代社會史研究史料叢書,保景文化杜發
行 , 1986.
(BBT nhận bài: 06/8/2018, hoàn tất thủ tục phản biện: 17/9/2018)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quan_niem_nam_ton_nu_ty_trong_van_ban_huong_uoc_chu_han_chos.pdf