Kết luận
Với việc vẫn bị đưa vào danh sách
các nước có nền kinh tế phi thị trường,
nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã bị thiệt
thòi trong các cuộc điều tra chống bán phá
giá. Hoa Kỳ vẫn từ chối coi Việt Nam là
nền kinh tế thị trường. Do đó, phía Việt
Nam cần tăng cường vai trò hỗ trợ tích
cực cho các nhà xuất khẩu Việt Nam để
ngăn chặn và ứng phó hiệu quả với các
biện pháp chống bán phá giá của các đối
tác thương mại đặc biệt là Hoa Kỳ.
Đồng thời, các tổ chức công nghiệp
và hiệp hội tham gia vào các vụ kiện bán
phá giá nên tham gia tích cực hơn vào quá
trình diễn ra vụ kiện. Sự sẵn sàng và chủ
động của các hiệp hội thương mại đóng
vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa
và giảm thiểu tác động tiêu cực của các
vụ kiện chống bán phá giá. Ngoài ra, các
hiệp hội ngành nên thành lập văn phòng
đại diện của họ ở nước ngoài để tập trung
vào các thị trường trọng điểm và chủ động
giải quyết các vụ kiện càng sớm càng tốt.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt
Nam cần tập trung nâng cao năng lực cạnh
tranh, chủ động áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, xây
dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm,
đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực,. để giải quyết kịp thời các tranh chấp
có thể phát sinh trong thương mại quốc tế
10 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 292 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy chế “nền kinh tế phi thị trường” trong pháp luật chống bán phá giá của Hoa Kỳ và tác động đối với Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
32 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
QUY CHẾ “NỀN KINH TẾ PHI THỊ TRƯỜNG” TRONG
PHÁP LUẬT CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ CỦA HOA KỲ VÀ
TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM
“NON-MARKET ECONOMY” REGULATION IN ANTI-DUMPING LAW OF
THE US AND IMPACTS ON VIETNAM
Lê Lan Anh*
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 5/6/2020
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 3 /12/2020
Ngày bài báo được duyệt đăng: 28/12/2020
Tóm tắt: Tình trạng “nền kinh tế phi thị trường” mà hiện nay Hoa Kỳ đang áp dụng
đối với Việt Nam đã trở thành một rào cản thương mại vô hình, gây ra những tác động bất
lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam trong các vụ kiện chống bán phá giá. Mục
tiêu của bài viết này là phân tích quy chế nền kinh tế phi thị trường trong pháp luật chống
bán phá giá của Hoa Kỳ; đánh giá tác động của quy chế này đối với hàng xuất khẩu của Việt
Nam; và triển vọng Việt Nam được Hoa Kỳ công nhận là nền kinh tế thị trường.
Từ khóa: Kinh tế phi thị trường; Hoa Kỳ, chống bán phá giá; Việt Nam; quy định; chính sách.
Abstract: The situation of the “non-market economy” that the US is currently applying
to Vietnam has become an invisible trade barrier, causing adverse eff ects for Vietnamese
exporters in anti-dumping lawsuits. The objective of this paper is to analyze non-market
economy status in the US anti-dumping legislation; assessing the impact of this regulation
on Vietnam’s exports and the prospect that Vietnam is recognized by the US as a market
economy.
Keywords: Non-market economy; United States, anti-dumping; Vietnam; regulations; policy.
* Viện Nghiên cứu Châu Mỹ
1. Nguồn gốc của khái niệm “nền
kinh tế phi thị trường”
Khái niệm “nền kinh tế phi thị
trường” xuất phát từ một chú thích tại
Điều VI quy định về chống bán phá giá
của GATT vào năm 1947. Tuy nhiên, khái
niệm này không được xác định rõ ràng,
thay vào đó, các thành viên WTO sẽ căn
cứ vào đó để định nghĩa theo cách riêng
của họ. Hoa Kỳ, EU và một số quốc gia
thành viên có các quy tắc riêng về cách xác
định một nền kinh tế nước ngoài được coi
là thị trường hay phi thị trường để xác định
có hay không hành vi bán phá giá hàng hóa
tại thị trường Hoa Kỳ. Do Việt Nam trước
đây theo đuổi mô hình kinh tế tập trung
Tạp chí Khoa học - Trường Đại học Mở Hà Nội 74 (12/2020) 32-41
33Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
bao cấp, nên khi đàm phán gia nhập WTO,
theo yêu cầu của một số thành viên, đặc
biệt là Hoa Kỳ, Việt Nam phải chấp nhận
cam kết sẽ chuyển đổi thành nền kinh tế
phi thị trường trong vòng 12 năm (cho đến
hết ngày 31 tháng 12 năm 2018).
Có nhiều lý do để Hoa Kỳ đưa một số
quốc gia, trong đó có Việt Nam, vào danh
sách các quốc gia có nền kinh tế phi thị
trường. Do sự phát triển mạnh mẽ của nền
kinh tế Mỹ, chính sách chống bán phá giá
không phải là một thành phần quan trọng
trong chính sách thương mại của Mỹ trong
những năm 1920 và 1930, cũng như trong
giai đoạn ngay sau Thế chiến II (Douglas A
. Irwin 2005). Với việc áp dụng mức thuế
suất trung bình cao trong những năm 1920
và đầu những năm 1930 và một số hiệp định
thương mại mà Hoa Kỳ đạt được theo Đạo
luật Thương mại đối ứng năm 1934, đã giúp
các nhà sản xuất trong nước có thể viện dẫn
nhiều luật thương mại để được bảo vệ khỏi
cạnh tranh nước ngoài mà không cần sử
dụng đến các quy định của pháp luật chống
bán phá giá. Mục 337 của Đạo luật thuế
quan năm 1930 đã ủy quyền cho Ủy ban
thuế quan điều tra các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh liên quan đến nhập khẩu
khi hành vi đó gây ra hoặc có nguy cơ gây
tổn thương đáng kể cho ngành công nghiệp
trong nước của Hoa Kỳ. Mục 336 của Đạo
luật thuế quan năm 1930 - được gọi là điều
khoản thuế quan linh hoạt - cung cấp một
thủ tục theo đó thuế nhập khẩu có thể được
thay đổi theo yêu cầu của tổng thống sau
một cuộc điều tra và báo cáo của Ủy ban
về sự khác biệt giữa chi phí sản xuất ở Hoa
Kỳ so với nhà cung cấp nước ngoài. Ngoài
ra, Mục 22 của Đạo luật Điều chỉnh Nông
nghiệp cho phép tổng thống hạn chế nhập
khẩu một mặt hàng được đánh giá là có thể
gây hậu quả nghiêm trọng vào các chương
trình nông nghiệp của Hoa Kỳ (đáng chú ý
là chương trình hỗ trợ giá). Do đó, mặc dù
đã có một số trường hợp bán phá giá xảy
ra, nhưng nó không gây ra tác động lớn đến
nền kinh tế Mỹ. Hơn nữa, trong giai đoạn
này về mặt quản lý hành chính, việc xác
định hàng hóa nhập khẩu được bán với giá
thấp hơn giá trị bình thường và liệu nó có
gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước
hay không thuộc trách nhiệm của Bộ Tài
chính Hoa Kỳ. Tuy nhiên thực tế lúc bấy
giờ, việc xác định thiệt hại do bán phá giá
hoàn toàn nằm ngoài phạm vi thẩm quyền
của Bộ Tài chính. Thật vậy, mặc dù đã có
khiếu nại về các vụ kiện chống bán phá giá
nhưng đã không được Bộ Tài chính xử lý,
hoặc xử lý không đầy đủ.
Tuy nhiên, khi trao đổi thương mại
bắt đầu gia tăng giữa các nước phương
Tây và Đông Âu theo mô hình kinh tế
của Liên Xô thời Stalin trong những năm
1950 và 1960 đã ảnh hưởng đến ngành
công nghiệp Mỹ và làm dấy lên mối lo
ngại rằng các hoạt động này có thể phá vỡ
đi tính cạnh tranh công bằng trong thương
mại quốc tế. Do đó, Hoa Kỳ đã xây dựng
một khung khổ pháp lý để giải quyết các
cáo buộc về hành vi bán phá giá vì họ
thấy rằng các phương pháp xử lý truyền
thống không còn phù hợp để đo lường sự
phân biệt giá cả. Kể từ đó, quy định về
“nền kinh tế phi thị trường” đã được đưa
vào Đạo luật cạnh tranh và thương mại
Omnibus năm 1988 (OTCA).
2. Quy chế đối xử với một nền
kinh tế phi thị trường theo pháp luật
chống bán phá giá của Hoa Kỳ
Pháp luật chống bán phá giá của
Hoa Kỳ coi hành vi bán phá giá xảy ra
34 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
khi một nhà sản xuất nước ngoài định giá
cho sản phẩm của mình là “thấp hơn giá
trị thị trường hợp lý của nó”. Để xác định
một hành vi bị coi là bán phá giá từ các
nền kinh tế phi thị trường, Bộ Thương mại
Hoa Kỳ (DOC) sử dụng một phương pháp
tiêu chuẩn để xác định giá trị hợp lý của
sản phẩm. Đầu tiên, DOC xác định xem
hàng hóa của nhà sản xuất nước ngoài đã
được bán ở Hoa Kỳ hay chưa bằng cách
so sánh giá của sản phẩm Hoa Kỳ với giá
trị bình thường là giá của hàng hóa tại thị
trường nội địa. Nếu sản phẩm không được
bán hoặc chào bán ở thị trường nội địa
của công ty nước ngoài, DOC sẽ xác định
giá mà sản phẩm được bán hoặc chào bán
ở các quốc gia khác ngoài Hoa Kỳ. Nếu
DOC thấy rằng việc bán phá giá đã xảy ra,
họ sẽ thiết lập mức bán phá giá bằng cách
tính số tiền trung bình mà giá trị thị trường
của sản phẩm vượt quá giá sản phẩm được
bán tại Hoa Kỳ theo mục 1673b (b) (1)
(A) tại 19 Bộ Tổng luật Hoa Kỳ.
Phương pháp tiêu chuẩn áp dụng
cho các nền kinh tế phi thị trường (NMEs)
được mô tả ở trên có vấn đề vì các nền kinh
tế phi thị trường không phân bổ nguồn lực
theo khái niệm thị trường truyền thống về
cung và cầu, do đó đưa ra quyết định về
giá trị hợp lý gần như không thể (Todd B.
Tatelman 2007). Vào những năm 1960, Bộ
Tài chính Hoa Kỳ lúc đó là cơ quan chịu
trách nhiệm về luật an ninh thương mại
nội địa, đã phát triển và bắt đầu sử dụng
phương pháp gọi là “quốc gia thay thế” để
áp dụng luật AD cho các nước NME. Theo
phương pháp này, có thể so sánh giá cả và
chi phí từ các nước thứ ba với các điều
kiện tương tự đã được sử dụng thay vì các
nước NMES để xác định giá trị thị trường
hợp lý. Cách tiếp cận này được Quốc hội
thông qua trong Luật thương mại năm
1974. Về nguyên tắc, nước thứ ba được
chọn phải là một nền kinh tế có điều kiện
kinh tế tương tự như nước xuất khẩu, có
nghĩa là có cùng mức độ phát triển kinh tế
như nền kinh tế phi thị trường của Nước
xuất khẩu. Tuy nhiên, phương pháp quốc
gia thay thế này đôi khi rất khó áp dụng vì
không phải lúc nào cũng có thể tìm được
quốc gia phù hợp để thay thế. Do đó, cần
phải đưa ra một giải pháp khác có thể hiệu
quả hơn.
Bộ Thương mại đã tìm ra cách giải
quyết mối lo ngại về cách tiếp cận của
quốc gia thay thế bằng cách áp dụng một
phương pháp mới vào năm 1975. Theo đó,
trong trường hợp không có một quốc gia
thay thế có sẵn, DOC sẽ dựa trên quốc gia
thay thế, được lấy từ một nền kinh tế phi
thị trường được coi là đang ở thời kỳ phát
triển kinh tế tương đương với quốc gia
có sản phẩm. điều tra về việc bán phá giá
(Robert H. Lantz 1995).
Các điều khoản của luật chống bán
phá giá của Hoa Kỳ tiếp tục sửa đổi vào
năm 1988 để đối phó với vấn đề kinh tế phi
thị trường. Trong Đạo luật cạnh tranh và
thương mại Omnibus năm 1988 (OTCA),
Quốc hội đã ban hành nhiều cải cách đối
với luật chống bán phá giá, bằng cách đưa
ra định nghĩa về nền kinh tế phi thị trường,
cũng như một bộ tiêu chuẩn mà DOC dựa
trên để xác định liệu một quốc gia có nền
kinh tế phi thị trường hay không. Theo
OTCA, nền kinh tế phi thị trường là một
quốc gia mà không hoạt động theo nguyên
tắc thị trường về cấu trúc chi phí hoặc giá
cả, do đó doanh số bán hàng hóa tại quốc
gia đó không phản ánh giá trị hợp lý của
hàng hóa.
35Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Trong quy trình điều tra chống BPG
của Hoa Kỳ, các đối tác thương mại là
NMES sẽ chỉ được đối xử thông thường
khi đã hội tụ đủ các yếu tố của nền kinh tế
thị trường và được cơ quan chức năng Hoa
Kỳ công nhận. Khi xác định tính chất “thị
trường” hay “phi thị trường” của một nền
kinh tế, DOC tiến hành xem xét dựa trên
6 yếu tố sau:
(1) Mức độ chuyển đổi của đồng
tiền quốc gia;
(2) Mức độ ảnh hưởng của thị
trường đối với giá nhân công (khả năng
đồng lương được xác định dựa trên sự mặc
cả tự do giữa người lao động và người sử
dụng lao động);
(3) Mức độ cho phép đầu tư nước
ngoài của nước bị kiện;
(4) Mức độ Chính phủ sở hữu và
khống chế tư liệu sản xuất;
(5) Mức độ Chính phủ quản lý về
giá và phân bổ các nguồn lực;
(6) Các yếu tố khác mà cơ quan
quản lý nhập khẩu của Hoa Kỳ cho là cần
thiết phải xem xét.
Đối với tiêu chí đầu tiên, về khả năng
chuyển đổi của đồng nội tệ, các yếu tố được
đánh giá bao gồm: khả năng chuyển đổi tài
khoản hiện tại và vốn, tỷ giá hối đoái, xu
hướng chính sách ngoại hối.
Đối với tiêu chí thứ hai, tiền
lương phải được xác định dựa trên giá
thị trường, nơi người lao động và người
sử dụng lao động được tự do thỏa thuận
về các điều khoản và điều kiện của hợp
đồng lao động. Khi điều tra tiêu chí này,
Bộ Thương mại Hoa Kỳ sẽ tính đến các
yếu tố về quyền của người lao động tham
gia công đoàn, sự độc lập của công đoàn,
khả năng phát triển chế độ tự chủ của
công đoàn ...
Về tiêu chí thứ ba, liên quan đến
mức độ tự do của hoạt động đầu tư nước
ngoài, một số yếu tố có thể được xem
xét như: sự cởi mở của môi trường đầu
tư, không phân biệt đối xử giữa các nhà
đầu tư trong và ngoài nước, quy định về
chuyển lợi nhuận.
Đối với tiêu chí thứ tư, mức độ sở hữu
hoặc kiểm soát của Chính phủ đối với các
phương tiện sản xuất, đây là một tiêu chí rất
quan trọng để Hoa Kỳ xác định nền kinh tế
thị trường. Các yếu tố liên quan đến tiêu chí
này bao gồm: mức độ cổ phần hóa doanh
nghiệp, tỷ lệ thành phần kinh tế trong nền
kinh tế, vai trò và mức độ can thiệp của Nhà
nước trong hoạt động kinh tế. Tiêu chí thứ
tư cũng liên quan đến sự tham gia của chính
phủ vào nền kinh tế, đó là mức độ kiểm soát
của chính phủ đối với việc phân bổ nguồn
lực và xác định giá cả và sản lượng của
doanh nghiệp. Tiêu chí này gắn liền với các
yếu tố sau: tự do hóa giá cả, cải cách ngành
ngân hàng, tự do của các cá nhân và doanh
nghiệp tham gia vào các hoạt động kinh
doanh. Ngoài ra, Bộ Thương mại Mỹ cũng
có thể điều tra một số vấn đề khác như tuân
thủ các quy định của Luật chống độc quyền,
Luật chống bán phá giá ...
Bên cạnh đó, DOC có thẩm quyền
xác định khi nào một nước được coi là nền
kinh tế phi thị trường. Theo luật chống
bán phá giá, việc xác định tình trạng kinh
tế phi thị trường có thể được thực hiện đối
với bất kỳ nước nào vào bất kỳ lúc nào và
vẫn có hiệu lực cho đến khi DOC thu hồi
quyết định đó.
Ngoài ra, Đạo luật về Hiệp định
Thương mại năm 1979 cũng đã chuyển
36 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
thẩm quyền hành chính từ Bộ Tài chính
sang DOC để xác định phương pháp nào
sẽ được sử dụng khi xác định giá trị thị
trường hợp lý, DOC đã tuyên bố rằng giá
trị thị trường nên được xác định theo giá
trị của các yếu tố trong thứ tự ưu tiên sau:
(1) giá thị trường nội địa của hàng hóa
tương tự ở một quốc gia thay thế; (2) giá
xuất khẩu của hàng hóa tương tự được đưa
ra từ một đại diện thay thế; (3) khi giá thực
tế không có sẵn, giá hàng hóa được tính
theo giá hàng hóa tương tự ở một quốc
gia thay thế; và (4) giá cả của các yếu tố
sản xuất tại một quốc gia thay thế được sử
dụng trong nền kinh tế phi thị trường cho
hàng hóa tương tự.
Trên thực tế, luật chống bán phá giá
của Hoa Kỳ đối xử với MES và NMES là
rất khác nhau. Trong các trường hợp chống
bán phá giá cụ thể áp dụng cho nhà xuất
khẩu từ MES, DOC sẽ quyết định bán phá
giá bằng cách xem xét liệu nhà xuất khẩu
nước ngoài có bán sản phẩm sang Hoa Kỳ
với giá thấp hơn không. DOC so sánh giá
nhập khẩu với giá của hàng hóa tương tự
trên thị trường của nước xuất khẩu. Nếu
không thể thực hiện được sự so sánh này
vì không có giao dịch hàng hóa tương tự
tại thị trường nội địa của nhà xuất khẩu,
thì DOC so sánh giá hàng hóa nhập khẩu
với giá trị xây dựng hoặc giá của hàng hóa
tương tự được bán ở nước thứ ba. Nếu giá
hàng hóa nhập khẩu vào Mỹ thấp hơn giá
so sánh, việc bán phá giá sẽ xảy ra và nếu
bằng chứng cho thấy có nguy cơ gây thiệt
hại cho ngành công nghiệp nội địa Mỹ,
các biện pháp chống bán phá giá sẽ được
áp dụng để bù đắp chênh lệch và bảo vệ
các nhà sản xuất Mỹ.
Tuy nhiên, nếu một quốc gia được
coi là NME, luật pháp Hoa Kỳ cho rằng
giá cả và chi phí sản xuất của hàng hóa đó
là không đáng tin cậy. Tùy thuộc vào tính
đầy đủ của thông tin có sẵn, DOC có thể
xác định giá trị bình thường của sản phẩm
cần điều tra dựa trên giá của một hàng hóa
tương tự ở nước nhập khẩu, hoặc DOC có
thể xác định giá trị của sản phẩm. DOC có
thể thay thế giá của ME với cùng mức phát
triển cho NME. Điều này thường được gọi
là “phương pháp thay thế (Abhishek Rana
2008). Việc sử dụng các phương pháp
khác nhau cho MES và NMES bị chỉ trích
rộng rãi vì một số lý do sau đây.
Trên thực tế, thật không công bằng
khi phân biệt giữa các nền kinh tế thị
trường và phi thị trường cho các mục đích
chống bán phá giá: sự khác biệt giữa các
phương pháp được sử dụng để tính biên
lợi nhuận có thể ngăn các nhà xuất khẩu
NMES xuất khẩu sang thị trường Mỹ vì
thuế bán phá giá cao.
Thứ hai, các quy định liên quan đến
NMES là mơ hồ, chúng gây ra sự độc
đoán trong việc thực thi của các cơ quan
chống bán phá giá. Việc xác định MES
hay NMEs phần lớn phụ thuộc vào cách
giải thích của DOC.
Thứ ba, việc sử dụng “quốc gia thay
thế” rất phức tạp và gần như không bao
giờ chính xác vì các khái niệm MES và
NMES khác nhau về cơ bản. Mặc dù khái
niệm về một quốc gia thay thế có vẻ hợp
lý, nhưng trên thực tế, các quốc gia thay
thế và các nước xuất khẩu thường không
thể nào đồng nhất được các tiêu chí so
sánh với nhau. Do đó, không thể xác định
giá thay thế chính xác cho các cuộc điều
tra chống bán phá giá.
Thứ tư, cách tiếp cận quốc gia thay
thế là hoàn toàn không thể đoán trước.
37Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Đối với một nhà sản xuất, phương pháp
tính giá là không thể đoán trước: không
có mức nào cho các nhà sản xuất NMES
tính giá xuất khẩu để tránh bán phá giá.
Hơn nữa, các nhà sản xuất hàng hóa
tương tự ở quốc gia thay thế thường
cạnh tranh với các nhà sản xuất và xuất
khẩu ở nước xuất khẩu. Do đó, các nhà
sản xuất và xuất khẩu ở quốc gia thay
thế thường không hài lòng với việc cung
cấp dữ liệu liên quan cho các cuộc điều
tra chống bán phá giá, hoặc họ có thể
cung cấp thông tin bất lợi cho các nhà
xuất khẩu NMES.
3. Tình trạng “nền kinh tế phi thị
trường” của Việt Nam
Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO) năm 2007 và chấp
nhận thời hạn 12 năm đối với tình trạng
kinh tế phi thị trường kể từ ngày gia nhập
và điều khoản NME sẽ hết hạn vào ngày
31 tháng 12 năm 2018. Theo đó, Việt Nam
đồng ý cho phép các thành viên WTO khác
tiếp tục sử dụng một phương pháp thay
thế (quốc gia thay thế) để đánh giá giá cả
và chi phí đối với các sản phẩm chịu các
biện pháp chống bán phá giá (AD). Việt
Nam được coi là một NME vì các thành
viên WTO khác cho rằng những biến dạng
trong nền kinh tế Việt Nam do sự can thiệp
của chính phủ sẽ khiến việc sử dụng giá và
chi phí của Việt Nam để xác định tỷ lệ bán
phá giá là không thực tế. Từ năm 2007 đến
2018, Việt Nam đã được 69 quốc gia khác
trên thế giới công nhận là quốc gia có nền
kinh tế thị trường. Tuy nhiên, hai đối tác
lớn nhất và quan trọng nhất là Mỹ và EU
vẫn chưa chấp thuận. Họ cho rằng ngôn
ngữ WTO không tự động bắt buộc họ phải
mở rộng tình trạng kinh tế thị trường cho
Việt Nam. Lý do mà họ đưa ra là Việt Nam
chưa đáp ứng đầy đủ các điều kiện của nền
kinh tế thị trường.
Trong nhiều trường hợp, hàng xuất
khẩu của Việt Nam phải chịu mức thuế
chống bán phá giá rất cao từ các cơ quan
điều tra của các quốc gia sử dụng chi phí
và số liệu của quốc gia thay thế, đặc biệt
là trong các trường hợp chống bán phá giá
của chính phủ Mỹ. Đồng thời, các quy
định về các nền kinh tế phi thị trường cũng
làm tăng nguy cơ đánh thuế hai lần đối
với các nhà xuất khẩu Việt Nam. Nếu Hoa
Kỳ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị
trường, điều này sẽ giúp Việt Nam tránh
được những bất lợi khi phải đối mặt với
các vụ kiện chống bán phá giá và chống
trợ cấp.
4. Tác động của quy chế nền kinh
tế phi thị trường đối với hàng xuất khẩu
của Việt Nam trong các vụ kiện chống
bán phá giá
Bắt đầu với vụ kiện xuất khẩu thủy
sản Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ được
khởi xướng từ năm 2002 đối với cá tra và
cá basa (cá tra) của Việt Nam và năm 2003
đối với tôm, cho đến nay đây vẫn là mặt
hàng bị Mỹ kiện. Năm 2017, Mỹ quyết
định kéo dài thời gian áp thuế chống bán
phá giá đối với xuất khẩu cá tra và cá basa
của Việt Nam lên tới 5 năm. Chưa dừng
lại ở đó, ngày 9 tháng 3 năm 2018, Mỹ đã
quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá
đối với các sản phẩm tôm Việt Nam trong
giai đoạn 2016 - 2017 là 25,39%. Đây là
mức thuế khá cao mà các doanh nghiệp
xuất khẩu tôm phải chịu khi xuất khẩu sang
Mỹ. Thuế này là một phần lý do khiến kim
ngạch nhập khẩu vào thị trường Mỹ đã
giảm đáng kể trong những năm gần đây. Từ
vị trí số 1 năm 2016, kim ngạch xuất khẩu
38 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
tôm sang Mỹ đã giảm mạnh, rơi xuống vị
trí thứ 4 trong số các thị trường xuất khẩu
hàng đầu của tôm Việt Nam. Ngoài các
sản phẩm thủy sản xuất khẩu, đầu tháng
11/2017, Mỹ chính thức tuyên bố áp thuế
chống bán phá giá đối với tủ công cụ nhập
khẩu từ Việt Nam với mức thuế mà phía
Việt Nam phải chịu lên tới 230%, thậm
chí cao hơn 90,4 - 168,93 % mà các doanh
nghiệp Trung Quốc phải chịu.
Vào tháng 3 năm 2018, Bộ Thương
mại Hoa Kỳ đã ban hành quyết định cuối
cùng về đánh giá hành chính lần thứ 13 về
thuế chống bán phá giá đối với cá tra và
cá basa đông lạnh nhập khẩu từ Việt Nam
trong khoảng thời gian từ ngày 1 tháng 8
năm 2015 đến ngày 31 tháng 1 năm 2016,
trong đó mức thuế được Hoa Kỳ quyết định
áp dụng có tỷ lệ cao hơn 1,6 lần so với tỷ lệ
mà Hoa Kỳ đưa ra trong quyết định sơ bộ
vào tháng 9 năm 2017 và cao hơn 4,9 lần so
với thuế suất tư nhân. Trong thời gian xem
xét hành chính lần thứ 12. Từ ngày 14 đến
25 tháng 5 năm 2018, Cơ quan Kiểm tra
An toàn Thực phẩm Hoa Kỳ đã bắt đầu tiến
hành kiểm tra thực tế chương trình kiểm
soát cá da trơn của Việt Nam (Tran Kim
Chung, et al. 2018). Trong 9 tháng đầu năm
2017, xuất khẩu cá tra và cá basa của Việt
Nam sang Mỹ giảm 9,9% so với 9 tháng
đầu năm 2016 và tiếp tục giảm trong những
tháng cuối năm (Lưu Xuân Công và cộng
sự 2018). Với việc Mỹ áp thuế chống bán
phá giá cao đối với sản phẩm này, việc xuất
khẩu cá da trơn từ các doanh nghiệp Việt
Nam sang thị trường Mỹ ngày càng trở nên
khó khăn.
Đây chỉ là một số trong nhiều vụ
kiện bán phá giá của Hoa Kỳ đối với hàng
xuất khẩu của Việt Nam. Gần đây với
chính sách cải cách thuế mới của Chính
phủ của Tổng thống D. Trump, Việt Nam
cũng có nguy cơ bị ảnh hưởng gián tiếp khi
Mỹ tập trung đánh thuế hàng hóa Trung
Quốc, trong khi nhiều sản phẩm xuất khẩu
của Việt Nam có nguyên liệu thô có nguồn
gốc từ Trung Quốc. Vị trí của Việt Nam ở
cuối chuỗi sản xuất, phụ trách chế biến và
hoàn thiện sản phẩm cuối cùng. Việt Nam
phải nhập nguyên liệu từ các nhà máy sản
xuất của Trung Quốc, xử lý các công đoạn
hoàn thiện cuối cùng trước khi xuất khẩu
sang thị trường tiêu dùng lớn nhất thế giới
là Mỹ. Do đó, khi Mỹ và Trung Quốc đối
đầu về thương mại, nó sẽ có ảnh hưởng
nhất định đến các nền kinh tế thuê ngoài
với các vị trí trung gian như Việt Nam.
Cuối năm 2017, Hoa Kỳ tiếp tục tuyên bố
sẽ áp thuế chống bán phá giá và chống trợ
cấp đối với thép mạ kẽm và thép cán nguội
từ nhập khẩu thép chống ăn mòn và thép
cán nguội sản xuất tại Việt Nam sử dụng
nguyên liệu xuất xứ từ Trung Quốc. Theo
đó, Hoa Kỳ sẽ thu thuế chống bán phá giá
và chống trợ cấp lần lượt là 199,76% và
256,44% từ nhập khẩu thép chống ăn mòn
và thép cán nguội sản xuất tại Việt Nam
sử dụng chất nền do Trung Quốc sản xuất.
Ngoài ra, DOC đã chỉ thị cho Cơ quan Hải
quan và Bảo vệ Biên giới (CBP) tiếp tục
thu tiền gửi bằng tiền mặt AD và CVD khi
nhập khẩu CORE sản xuất tại Việt Nam
bằng cách sử dụng chất nền có nguồn
gốc từ Trung Quốc với tỷ lệ lần lượt là
199,43% và 39,05%.
Để giảm thiểu tác động tiêu cực
trong các tranh chấp thương mại với Hoa
Kỳ, Việt Nam cần chủ động hơn trong
việc đáp ứng các chính sách bảo hộ của
Hoa Kỳ trước xu hướng bảo hộ ngày càng
tăng. Sự gia tăng hiện nay với các biện
pháp như tiêu chuẩn ngay từ nguyên liệu
39Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
đến giai đoạn sản xuất; Cần phải chủ động
hơn trong việc nắm bắt các thay đổi trong
chính sách thương mại hiện tại của Hoa
Kỳ để tìm giải pháp tốt nhất để tránh kiện
tụng từ các doanh nghiệp Hoa Kỳ.
5. Triển vọng Việt Nam được Hoa
Kỳ cấp quy chế MES
Để một NME được chỉ định đổi
thành ME, chính phủ của quốc gia đó phải
đưa ra yêu cầu chính thức để xem xét hoặc
gửi lại yêu cầu của người trả lời trong
một cuộc điều tra tại Hoa Kỳ về việc liệu
nước đó có thể được công nhận là ME hay
không. Tuy nhiên, Bộ Thương mại Hoa
Kỳ có thể tuyên bố rằng một số ngành
công nghiệp đang hoạt động trong điều
kiện thị trường trong khi tiếp tục áp dụng
phương pháp NME cho các ngành khác.
Trung Quốc là một ví dụ điển hình
về việc bị tuyên bố tình trạng nền kinh tế
phi thị trường bởi WTO. Theo đó, trong
Nghị định thư gia nhập WTO năm 2001
của Trung Quốc, sau 15 năm (đến ngày
11 tháng 12 năm 2016) các nước thành
viên phải xóa bỏ quy chế NME cho Trung
Quốc, tuy nhiên, điều đó đã không xảy
ra. Kết quả là, vào ngày 12 tháng 12 năm
2016, Trung Quốc đã khởi xướng một
vụ kiện giải quyết tranh chấp của WTO
đối với Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu
vì đã không công nhận tình trạng MES
của Trung Quốc. Bộ Thương mại Hoa Kỳ
cuối cùng đã tiến hành đánh giá tình trạng
Trung Quốc vào tháng 10 năm 2017. Theo
đó, DOC kết luận rằng Trung Quốc vẫn
là NME vì vai trò của nhà nước trong nền
kinh tế Trung Quốc vẫn là rất lớn (CRS
2019). Bộ Thương mại xác định rằng họ
vẫn không thể dựa vào giá cả và chi phí
của Trung Quốc để tính toán trong các
vụ điều tra chống bán phá giá của mình
(André J. Washington 2018).
Cũng giống như Trung Quốc, Việt
Nam đang tăng cường nỗ lực để được Hoa
Kỳ công nhận là nền kinh tế thị trường.
Theo cam kết của WTO, Việt Nam sẽ
chỉ được coi là nền kinh tế phi thị trường
trong các cuộc điều tra chống bán phá giá
cho đến ngày 31 tháng 12 năm 2018. Nếu
các nước thực hiện theo lời hứa của mình,
sau năm 2018, Việt Nam sẽ được coi là
tất cả các nước xuất khẩu khác trong các
cuộc điều tra và tính toán đối với hàng
xuất khẩu của Việt Nam sẽ dựa trên các
tiêu chuẩn của WTO. Nếu cam kết này
được thực hiện, nó có thể tạo ra một sự
thay đổi trong kết quả điều tra, kết quả
tính toán sẽ được thực hiện như nhau đối
với các nền kinh tế thị trường khác. Tuy
nhiên, thời hạn 12 năm đối với tình trạng
kinh tế phi thị trường đã hết hạn, Việt Nam
vẫn chưa được Hoa Kỳ coi là nền kinh tế
thị trường. Theo Mỹ, mặc dù chính phủ
Việt Nam không điều tiết giá cả hàng hóa,
nhưng vẫn duy trì một số biện pháp kiểm
soát chính thức và không chính thức đối
với nền kinh tế. Từ những vấn đề trên, có
thể kết luận rằng thời hạn 12 năm đối với
tình trạng kinh tế phi thị trường đã hết hạn
không có nghĩa là Việt Nam sẽ tự động
được coi là nền kinh tế thị trường bởi tất
cả các thành viên WTO.
Để đáp ứng các tiêu chí của Hoa
Kỳ, Việt Nam có thể phải nhượng bộ
một số lĩnh vực, điều này giúp Việt Nam
tránh các tác động tiêu cực đến các doanh
nghiệp xuất khẩu và thiệt hại do các vụ
kiện chống bán phá giá và chống trợ cấp
của Hoa Kỳ. Trong bối cảnh Hoa Kỳ đang
gây áp lực về vấn đề thâm hụt thương mại
hàng hóa với Việt Nam và các cuộc đàm
40 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
phán để đạt được thỏa thuận đầu tư song
phương giữa hai nước tiếp tục bị trì hoãn,
đề xuất của Hoa Kỳ công nhận Việt Nam
là nền kinh tế thị trường dường như rất
khó khăn.
6. Kết luận
Với việc vẫn bị đưa vào danh sách
các nước có nền kinh tế phi thị trường,
nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã bị thiệt
thòi trong các cuộc điều tra chống bán phá
giá. Hoa Kỳ vẫn từ chối coi Việt Nam là
nền kinh tế thị trường. Do đó, phía Việt
Nam cần tăng cường vai trò hỗ trợ tích
cực cho các nhà xuất khẩu Việt Nam để
ngăn chặn và ứng phó hiệu quả với các
biện pháp chống bán phá giá của các đối
tác thương mại đặc biệt là Hoa Kỳ.
Đồng thời, các tổ chức công nghiệp
và hiệp hội tham gia vào các vụ kiện bán
phá giá nên tham gia tích cực hơn vào quá
trình diễn ra vụ kiện. Sự sẵn sàng và chủ
động của các hiệp hội thương mại đóng
vai trò quan trọng trong việc ngăn ngừa
và giảm thiểu tác động tiêu cực của các
vụ kiện chống bán phá giá. Ngoài ra, các
hiệp hội ngành nên thành lập văn phòng
đại diện của họ ở nước ngoài để tập trung
vào các thị trường trọng điểm và chủ động
giải quyết các vụ kiện càng sớm càng tốt.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp Việt
Nam cần tập trung nâng cao năng lực cạnh
tranh, chủ động áp dụng hệ thống quản lý
chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, xây
dựng thương hiệu và quảng bá sản phẩm,
đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực,... để giải quyết kịp thời các tranh chấp
có thể phát sinh trong thương mại quốc tế.
Tài liệu tham khảo:
[1]. Abhishek Rana (2008). Renascence of the
Red Dragon: A Critique on the EU and US
Response to China’s Transition to a Market
Economy under the WTO. Trade, Law and
Development. Vol. 10, No. 2: page 392.
[2]. André J. Washington (2018). Not So
Fast, China: Non-Market Economy Status is
Not Necessary for the “Surrogate Country
” Method. Chicago Journal of International
Law. Volume 19 (No 1): page 265.
[3]. Congressional Research Service (2019).
China’s Status as a Nonmarket Economy
(NME). https://fas.org/sgp/crs/row/IF10385.
pdf (accessed on 10th January, 2019).
[4]. Douglas A. Irwin (2005). The Rise of
US Anti-dumping Activity in Historical
Perspective. The World Economy, Publisher:
Wiley Blackwell, Vol. 28(5): page 654.
[5]. Luu Xuan Cong, Vu Tien Dung (2018).
The leading role of the State economy in the
socialist market economy. Journal of State
Organization. Available online:
vn/news/detail/39106/Vai_tro_chu_dao_cua_
kinh_te_nha_nuoc_trong_nen_kinh_te_thi_
truong_dinh_huong_xa_hoi_chu_nghiaall.
html (accessed on 12th March, 2018).
[6]. Tariff Act of 1930.
house.gov/Comps/TARIFF30_CMD.pdf
(accessed on 21st August 2019).
[7]. Tran Kim Chung, To Ngoc Phan (2018).
The motivational role of the private economy
in Vietnam’s economic development”.
Finance Magazine. Volume (Issue): 01,2018,
page 51.
[8]. Todd B. Tatelman (2007). United States’
Trade Remedy Laws and Non-market
Economies: A Legal Overview. CRS Report
for Congress. Volume: April 23, 2007, page 2.
[9]. Trade Act of 1974, P.L. 93-618, § 321, 88
Stat. 1978, 2074 (1974).
[10]. H.R.4848 - The Omnibus Trade and
Competition Act of 1988 (OTCA). Available
41Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
online: https://www.congress.gov/bill/100th-
congress/house-bill/4848, (accessed on 20th
August 2019).
[11]. Robert H. Lantz (1995). The Search
for Consistency: Treatment of Nonmarket
Economies in Transition Under United States
Antidumping and Counter vailing Duty Laws.
American University International Law
Review, Volume Volume 10 (Issue 3): page
1006.
[12]. U.S. imposes heavy import duties on
steel from Vietnam. The saigon Times daily,
https://english.thesaigontimes.vn/59890/us-
imposes-heavy-import-duties-on-steel-from-
vietnam.html (accessed on 24th May 2018).
[13]. U.S.Legal. Nonmarket Economy
Country Law and Legal Defi nition.
https://defi nitions.uslegal.com/n/nonmarket-
economy-country/ (accessed on 21st August
2019).
[14]. An Act To amend section 22 of the
Agricultural Adjustment Act.
https://www.loc.gov/law/help/statutes-at-
large/76th-congress/session-3/c76s3ch13.pdf
(accessed on 18th July 2019).
[15]. 19 U.S.Code § 1677 (2000).
[16]. 19 C.F.R. § 353.8 (a)-(c) (1979).
Địa chỉ tác giả: Viện nghiên cứu Châu Mỹ
Email: lelananh84.vias@gmail.com
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quy_che_nen_kinh_te_phi_thi_truong_trong_phap_luat_chong_ban.pdf