Thứ nhất, tình trạng khẩn cấp có ảnh
hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức.
Vì vậy, để bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà
nước, tổ chức, cá nhân, cần một hệ thống
pháp luật về tình trạng khẩn cấp toàn diện,
rõ ràng và chặt chẽ: Bất kể những quy định
đó có thể được nêu trong Hiến pháp hay tại
các văn bản pháp luật dưới Hiến pháp, chúng
cần phải bao gồm: các trưởng hợp được ban
bố tình trạng khẩn cấp, những chủ thể có
thẩm quyền liên quan, thời gian hiệu lực
cũng như phạm vi ảnh hưởng.
Thứ hai, mọi quyết định liên quan đến
tình trạng khẩn cấp cần có sự chuẩn thuận
của Quốc hội. Trong trường hợp Quốc hội
không họp được, chủ thể có thẩm quyền, dựa
trên tính cấp bách của vấn đề, ra quyết định
ban bố tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, quyết
định đó cần nhận được sự phê chuẩn của
Quốc hội tại kỳ họp sớm nhất được tổ chức.
Trong suốt thời gian diễn ra tình trạng khẩn
cấp, Quốc hội không thể bị giải tán.
Thứ ba, cần công khai, minh bạch mọi
quyết định liên quan đến tình trạng khẩn cấp.
Thông qua phương tiện thông tin đại chúng,
phương tiện truyền thông khác, chính quyền
cần thông báo nội dung các quyết định liên
quan đến tình trạng khẩn cấp với người dân
một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời.
Thứ tư, cần xây dựng một thiết chế độc
lập, minh bạch để giám sát mọi quyết định
liên quan đến tình trạng khẩn cấp, trong đó
Toà án cần đóng một vai trò quan trọng
6 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 18/01/2022 | Lượt xem: 236 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quy định của pháp luật Nhật Bản về tình trạng khẩn cấp và những gợi mở cho Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
59Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT NHẬT BẢN VỀ TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP
VÀ NHữNG GợI MỞ CHO VIỆT NAM
Cầm Vũ Thảo Nguyên*
* Hitotusbashi University - Faculty of Sociology
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Tình trạng khẩn cấp, pháp
luật Nhật Bản.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 01/06/2020
Biên tập : 16/06/2020
Duyệt bài : 19/06/2020
Article Infomation:
Key words: State of emergency,
laws of Japan.
Article History:
Received : 01 Jun. 2020
Edited : 16 Jun. 2020
Approved : 19 Jun. 2020
Tóm tắt:
Tình trạng khẩn cấp là trạng thái xã hội được thiết lập khi xảy ra tình
huống bất thường, ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân cũng
như hoạt động bình thường của xã hội, như dịch bệnh, thiên tai, bạo
loạn Việc tuyên bố tình trạng khẩn cấp giúp chính quyền nhanh
chóng lập lại trật tự, giúp người dân nhanh chóng ổn định lại cuộc
sống. Bên cạnh đó, việc ban bố tình trạng khẩn cấp lại có khả năng
làm ảnh hưởng đến nền pháp quyền và các quyền con người. Vì vậy,
Hiến pháp và pháp luật cần phải có quy định chặt chẽ về vấn đề này.
Bài viết phân tích quy định về tình trạng khẩn cấp trong Hiến pháp
và pháp luật Nhật Bản, những tranh luận của giới luật học về vấn đề
này trong bối cảnh Nhật Bản đang nỗ lực đối phó với đại dịch
COVID-19, từ đó rút ra những gợi mở cho Việt Nam.
Abstract:
State of emergency is an extraordinary situation heavily affecting the
lives of its citizens as well as the normal functioning of society, such
as epidemics, natural disasters, or riots, etc. The declaration of a state
of emergency helps the Government quickly restore social order, and
help people quickly stabilize their lives. In addition, declaration of
state of emergency has the potential to affect the rule of law and
human rights. Therefore, the Constitution and laws need to have strict
regulations on this issue. This article provide analysis of the legal
regulations on the state of emergency in the Japanese Constitution
and law under the imperial period and modern era, as well as legal
discussions on this issue in the context of COVID-19 pandemic in
Japan, and based on that to draw lessons learned for Vietnam.
Số 12 (412) - T6/202060
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
1. Quy định của Hiến pháp Nhật Bản về
tình trạng khẩn cấp
Dưới thời phong kiến, Hiến pháp Nhật
Bản quy định rõ quyền ban bố tình trạng
khẩn cấp thuộc về lãnh đạo tối cao của quốc
gia - tức Thiên hoàng. Điều 8 Hiến pháp
Nhật Bản năm 1899 quy định: “Để bảo đảm
sự an toàn của cộng đồng khỏi thảm hoạ, tai
ương, trong trường hợp Quốc hội không họp
được, dựa trên nhu cầu cấp thiết, Thiên
hoàng có quyền ra sắc lệnh về tình trạng
khẩn cấp. Sắc lệnh này có hiệu lực tạm thời
như luật, và phải được trình lên Quốc hội
trong kỳ họp kế tiếp. Nếu Quốc hội không
thông qua sắc lệnh này, Chính phủ phải
thông báo huỷ bỏ hiệu lực ngay sau đó”. Dựa
trên sắc lệnh về tình trạng khẩn cấp, Chính
phủ có thể ban bố việc thiết quân luật và các
biện pháp ứng phó tạm thời1.
Điều 14 Hiến pháp Nhật Bản năm 1899
quy định, quyền thiết quân luật – lệnh giới
nghiêm thuộc Thiên hoàng. Đặc biệt, Điều
31 quy định: “các quyền lợi, nghĩa vụ của
người dân, trong trường hợp đất nước xảy ra
chiến tranh hoặc biến cố” sẽ bị giới hạn để
“không làm cản trở đến đại quyền của Thiên
hoàng”2. Ngoài ra, Hiến pháp Nhật Bản năm
1899 còn quy định về quản lý tài chính trong
tình trạng khẩn cấp (Điều 70)3.
Từ khi Hiến pháp Nhật Bản năm 1899
ra đời đến năm 1946, Nhật Hoàng đã ban
hành tổng cộng 108 sắc lệnh về tình trạng
khẩn cấp. Tuy nhiên, Hiến pháp Nhật Bản
năm 1946 đã không còn bao hàm bất cứ quy
định nào liên quan đến tình trạng khẩn cấp.
Trên thực tế, những tranh luận xung
quanh sự cấp thiết phải quy định về việc ban
hành tình trạng khẩn cấp mới chỉ xuất hiện
khoảng 2 thập kỷ gần đây. Năm 1996, giáo
sư Takeshi Tominaga viết bài đăng trên Tạp
chí Tổng hợp luận án Hiến pháp của Hội
nghiên cứu Hiến pháp Kansai4, trong đó
khẳng định: “Hiến pháp hiện hành chưa có
những quy định về quyền công bố tình trạng
khẩn cấp quốc gia, rất may mắn rằng, trong
thực tế, việc thực thi quyền công bố tình
trạng khẩn cấp quốc gia vẫn chưa bao giờ trở
thành vấn đề”5.
Trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm
2005 do Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản
(Liberal Democratic Party of Japan - LDP)
trình Quốc hội cũng không có điều khoản
nào về quyền công bố tình trạng khẩn cấp
quốc gia. Chỉ đến năm 2012, sau khi xảy ra
thảm hoạ động đất sóng thần Tohoku, bản
Dự thảo sửa đổi Hiến pháp do LDP trình bày
mới lần đầu đề cập đến việc “xây dựng hệ
thống ứng phó tình trạng khẩn cấp minh
bạch, trên cơ sở Hiến pháp”6. Bản dự thảo
sửa đổi Hiến pháp năm 2012 đã đề xuất bổ
sung hai điều mới: Điều 98 - Ban bố tình
trạng khẩn cấp; Điều 99 - Hệ quả của việc
ban bố tình trạng khẩn cấp. Hai điều này đã
trở thành vấn đề gây tranh cãi đến tận bây
giờ. Điều 98 quy định: Quyền ban bố tình
trạng khẩn cấp thuộc về người đứng đầu Nội
các, được thực hiện sau khi thông qua Nội
các, trên cơ sở quy định của pháp luật hiện
1 Theo 大日本帝国憲法 The constitution of the Empire of Japan – 日本国会図書館 National Diet Library,
dịch bởi tác giả.
2 Như trên.
3 Như trên.
4 憲法論叢』第3号、関西憲法研究会、1996年6月.
5 富永健(1996)「日本国憲法には緊急権に関する規定が存しないだけでなく、幸いにも現実に
緊急権の行使が問題になることはなかった」、『憲法論叢』第3号 p.72.
6 日本自由民主党(2012 「緊急事態に対処するための仕組みを、憲法上明確に規定しました、
自 民 党 に よ る 日 本 憲 法 改 正 草 案 Q&A question No.39, p.32 https://jimin.jp-east-
2.storage.api.nifcloud.com/pdf/pamphlet/kenpou_qa.pdf .
hành7. Điều 99 quy định: Trong tình trạng
khẩn cấp, Nội các có quyền ban hành nghị
định có hiệu lực như luật. Ngoài ra, Thủ
tướng có quyền sử dụng các gói tài chính
cho ứng cứu và các khoản chi tiêu cần thiết;
quyền chỉ đạo chính quyền địa phương trong
việc ứng phó tình trạng khẩn cấp8. Các văn
bản do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban
hành trong tình trạng khẩn cấp, sau này, cần
phải được Quốc hội phê chuẩn; trong thời
gian diễn ra tình trạng khẩn cấp, Quốc hội sẽ
không bị giải tán (khoản 2 và 4 Điều 99)9.
Những đề xuất nêu trên của LDP có
nhiều nét tương đồng so với quy định trong
Hiến pháp ở nhiều quốc gia trên thế giới.
Theo phân tích của Phó Giáo sư Kenneth
Mori McElwain, Đại học Tokyo, có hơn
66.1% Hiến pháp ở các nước trao quyền ban
bố tình trạng khẩn cấp cho người đứng đầu
chính phủ (Thủ tướng hoặc Tổng thống);
53.8% Hiến pháp yêu cầu việc ban bố tình
trạng khẩn cấp cần được sự đồng ý của Quốc
hội; 18.8% yêu cầu không được giải tán
Quốc hội trong thời gian diễn ra tình trạng
khẩn cấp10. Tuy nhiên, sự khác biệt giữa
Nhật Bản với các nước khác ở chỗ, Thủ
tướng Nhật Bản ban bố tình trạng khẩn cấp
“dựa trên cơ sở luật pháp hiện hành”, tức
dựa trên cơ sở các văn bản luật khác mà
không phải căn cứ vào Hiến pháp. Trên thế
giới, chỉ có khoảng 6.5% quốc gia quy định
như Nhật Bản11.
Ngoài ra, khoản 3 Điều 99 quy định,
trong thời gian diễn ra tình trạng khẩn cấp,
mọi người phải chấp hành các quy định do
cơ quan nhà nước ban hành để bảo vệ tính
mạng, thân thể và tài sản của cá nhân. Trong
trường hợp này, quyền bình đẳng trước pháp
luật; quyền bất khả xâm phạm thân thể;
quyền tự do tư tưởng, quyền tự do ngôn
luận, xuất bản, hội họp, thành lập công ty, tự
do hiệp hội cũng như các quy định khác
trong Hiến pháp về nhân quyền vẫn được tôn
trọng đến mức tối đa”12.
Tranh luận về sự cần thiết phải quy
định về tình trạng khẩn cấp trong Hiến
pháp Nhật Bản
Xoay quanh việc Hiến pháp hiện hành
của Nhật Bản không quy định về việc ban bố
tình trạng khẩn cấp, các học giả, chính trị gia
và giới truyền thông nước này có ý kiến rất
khác nhau. Giáo sư Takeshi Tominaga chia
các ý kiến đó thành hai trường phái: trường
phái phủ định và trường phái thừa nhận13.
Trường phái phủ định cho rằng, Hiến
pháp hiện hành của Nhật Bản không công
nhận quyền công bố tình trạng khẩn cấp
quốc gia. Trường phái phủ định còn được
chia ra làm hai nhánh: nhánh thứ nhất cho
rằng, việc không công nhận quyền công bố
tình trạng khẩn cấp quốc gia là sự thiếu sót
lớn của Hiến pháp (thuyết khiếm khuyết);
nhánh thứ hai cho rằng, quyền công bố tình
trạng khẩn cấp không cần thiết, do đó đánh
giá cao Hiến pháp hiện tại (thuyết phủ nhận).
Thuyết khiếm khuyết được nêu lên bởi
giáo sư, nhà nghiên cứu Hiến pháp Yoshio
Onishi. Ông cho rằng, “yêu cầu cơ bản của
chủ nghĩa lập hiến là thực hiện quyền lực
trên cơ sở Hiến pháp. Ngay cả trong trường
61Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
7 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp Nhật Bản 2012日本国憲法改正草案,dịch bởi tác giả.
8 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp Nhật Bản 2012日本国憲法改正草案,dịch bởi tác giả.
9 Như trên.
10 Kenneth Mori McElwain, “Using Constitutional Data to Understand “State of Emergency” Provision”,
University of Tokyo 02/05/2017.
11 Kenneth Mori McElwain, “Using Constitutional Data to Understand “State of Emergency” Provision”,
University of Tokyo 02/05/2017.
12 Dự thảo sửa đổi Hiến pháp Nhật Bản 2012, 日本国憲法改正草案, dịch bởi tác giả.
13 憲法論叢』第3号、関西憲法研究会、1996年6月.
Số 12 (412) - T6/202062
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
hợp đặc biệt, khi quốc gia gặp phải vấn đề
khẩn cấp, thì khi đó, việc thi hành quyền lực
ngoại lệ cũng cần phải tuân thủ theo một
nguyên tắc nhất định, như vậy, mới có thể
dự đoán được phạm vi ảnh hưởng của cũng
như giới hạn của nó”14 . Hội đồng Thẩm định
Hiến pháp do Chính phủ Nhật Bản thành lập
cũng cho rằng, một trong những khiếm
khuyết lớn nhất của Hiến pháp hiện hành là
việc không có điều khoản nào quy định về
cách xử lý trường hợp đất nước trong trường
hợp khẩn cấp khác thường”15.
Trái với thuyết khiếm khuyết, thuyết phủ
nhận cho rằng, quyền công bố tình trạng
khẩn cấp quốc gia là “một phần không thể
thiếu của chế độ quân chủ dưới thời Hiến
pháp Minh Trị”16, nhưng hiện nay, Nhật Bản
đã bãi bỏ chủ nghĩa quân chủ, lập nên bản
Hiến pháp dân chủ. Vì vậy, việc Hiến pháp
không quy định về quyền công bố tình trạng
khẩn cấp quốc gia cũng là một cách để bảo
vệ nền dân chủ. Do đó, việc Hiến pháp không
quy định về quyển công bố tình trạng khẩn
cấp không phải là khiếm khuyết của Hiến
pháp; trái lại, đó là bằng chứng tích cực nhất
cho thấy nước Nhật đã rút ra bài học từ
những kinh nghiệm lịch sử của mình để loại
bỏ những tiêu cực của chế độ cũ còn sót lại17.
Trường phái thừa nhận – thuyết dung
nhận cho rằng, việc đưa quyền công bố tình
trạng khẩn cấp quốc gia vào Hiến pháp là
không cần thiết, bởi lẽ trên thực tế, việc này
nên được coi như một “luật bất thành văn”.
Giáo sư Takayanagi Kenzou Đại học Tokyo,
đại diện của trường phái này, cho rằng: “Khi
phát sinh tình trạng khẩn cấp thì một quốc
gia có chủ quyền phải ngay lập tức thực hiện
các biện pháp xử lý khẩn cấp, bất kể điều đó
có được quy định trong Hiến pháp hay
không, đây là một nguyên lý bất thành văn
mà ai cũng công nhận”.
Các học giả theo thuyết dung nhận còn
cho rằng, việc chỉ sau khi có quy định cụ thể
trên Hiến pháp thì quốc gia mới có thể ứng
phó với các tình huống khẩn cấp mới chính
là vấn đề đáng báo động; bởi lẽ, chúng ta
không thể dự đoán hết được những tình
huống nào có thể xảy ra trong tương lai, do
đó, không thể xây dựng một cơ chế phản ứng
đầy đủ và sẵn sàng cho bất kỳ thử thách nào.
Trong trường hợp đó, sự lựa chọn thích hợp
nhất là để lực lượng chức năng tuỳ cơ ứng
biến, theo nguyên tắc, lấy việc bảo vệ các
quyền và tự do cá nhân làm cốt lõi. Mặt
khác, quy định cứng của pháp luật có thể lại
tạo ra khe hở cho việc lạm dụng quyền lực.
2. Quy định của pháp luật Nhật Bản về
tình trạng khẩn cấp
Trong hệ thống pháp luật của Nhật Bản,
tình trạng khẩn cấp được quy định ở các văn
bản sau đây:
- Luật Lực lượng phòng vệ Nhật Bản.
Điều 76 về điều động quốc phòng cho phép
Thủ tướng có quyền ra lệnh điều động Lực
lượng phòng vệ khi quốc gia bị tấn công vũ
lực hoặc có nguy cơ bị tấn công vũ lực từ
14 大西芳雄(1975)「あらゆる権力の行使をあらかじめ法の定めたルールに従って運用するこ
とが立法主義の基本的要求である。国家非情の場合の例外的権力をもあらかじめ定めたルー
ルに従ってそのやり方と範囲が予見され、その限界が予想されなければならない」、『憲法
の基本理論』、p.222; dịch bởi tác giả.
15 日本憲法調査会(1964)「現憲法の最大欠陥の一つは、国家の非常事態に対する処置が全く
講ぜられていない点である」『憲法調査会における各委員の意見』Dịch bởi tác giả
16 小林直樹(1979)「明治憲法の緊急権が軍権絶対のイデオロギーと不可分であった」、『国
家緊急権―非常事態における方と政治』、p.181; dịch bởi tác giả.
17 Như trên, 「憲法が緊急権規定を持たなかったのは憲法の欠缺でも欠陥でもなくて、旧体制の
経験の考え見てその遺物を払拭するという過去の対するネガティブな側面を有すると言わ
ねばなるまい」
63Số 12 (412) - T6/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
bên ngoài, hoặc trong trường hợp nước đồng
minh thân cận bị tấn công vũ lực có nguy cơ
ảnh hưởng đến Nhật Bản. Quyết định của
Thủ tướng phải được Quốc hội thông qua
trước khi có hiệu lực, và việc sử dụng vũ lực
chỉ để tự vệ.
Điều 78 Luật cho phép Thủ tướng điều
động Lực lượng phòng vệ đến bảo vệ an
ninh ở khu vực trong trường hợp cảnh sát
không đủ khả năng duy trì trật tự. Quyết định
này cũng cần được Quốc hội thông qua.
- Điều 71 Luật Cảnh sát về các biện
pháp xử lý đặc biệt trong tình trạng khẩn cấp
quy định: Trong trường hợp xảy ra thiên tai
hoặc tình trạng rối loạn trên quy mô lớn, Thủ
tướng có thể tuyên bố tình trạng khẩn cấp ở
một khu vực hoặc trên toàn bộ đất nước.
- Luật Chính sách cơ bản về phòng
chống thảm hoạ thiên tai tại Điều 105 quy
định: Khi có các thảm hoạ thiên tai xảy ra,
Thủ tướng có thể tuyên bố về tình trạng khẩn
cấp ở một khu vực hoặc trên toàn bộ lãnh thổ
quốc gia; ban hành quyết định di tản, xây
dựng cơ sở y tế tạm thời, cứu nạn cũng như
nhận viện trợ từ nước ngoài.
- Luật Các biện pháp đặc biệt đối phó với
các loại virus cúm mùa chủng mới năm 2013.
Văn bản này quy định về những biện pháp
phòng tránh cũng như điều trị cho bệnh nhân
khi có sự xuất hiện của một chủng virus cúm
mùa mới lây lan nhanh trên toàn quốc và có
nguy cơ trở nên nguy hiểm cho tính mạng
con người, gây thiệt hại nặng nề cho nền kinh
tế. Luật này cho phép Chính phủ thực hiện
những đối sách phù hợp, trong đó bao gồm
cả việc ban bố tình trạng khẩn cấp cho một
vùng hoặc toàn lãnh thổ. Luật này được sửa
đổi, bổ sung vào ngày 13/3/2020 để cho phép
ứng phó với dịch COVID-19 như một virus
cúm mùa chủng mới18.
Tuy nhiên, những quy định hiện nay về
tình trạng khẩn cấp không làm vơi đi nỗi lo
lắng của dự luật xã hội Nhật Bản về sự “đầy
đủ” và “kín kẽ” của các quy định này. Dư
luận xã hội Nhật Bản đặt ra câu hỏi là liệu
rằng, trong trường hợp diễn ra tình trạng
khẩn cấp, với những quy định nêu trên,
Chính phủ Nhật Bản có thể hành động nhanh
đến đâu để bảo vệ người dân của mình mà
không động chạm đến các vấn đề nhân
quyền? Đặc biệt, trong bối cảnh diễn ra đại
dịch Covid-19, Nhật Bản cần áp dụng các
biện pháp khẩn cấp mạnh mẽ nhằm phòng,
chống dịch bệnh.
Trả lời trước báo chí sau khi Luật sửa
đổi Luật Các biện pháp đặc biệt đối phó với
các loại virus cúm mùa chủng mới được
thông qua, Bộ trưởng Bộ Tái tăng trưởng
kinh tế Nishimura Yasutoshi cho rằng: “Sẽ
có những biện pháp được đưa ra mà trong đó
sẽ gây ảnh hưởng đến các quyền tự do cá
nhân, chính vì thế, Chính phủ mong muốn
hạn chế sử dụng những biện pháp đó, nếu
buộc phải sử dụng thì Chính phủ sẽ lựa chọn
ở mức độ tối thiểu”19. Dù vậy, vẫn có nhiều
người bày tỏ quan điểm quan ngại đối với
việc sử dụng quyền hạn của Chính phủ trong
trường hợp khẩn cấp, cũng như yêu cầu
Chính phủ phải minh bạch trong quá trình ra
quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp, có
18 内閣法制局(2020)「新型コロナウイルス感染症の発生及びそのまん延により国民の生
命及び健康に重大な影響を与えることが懸念される状況に鑑み、この法律の施行の日から起
算して二年を超えない範囲内において政令で定める日までの間、新型コロナウイルス感染症
を新型インフルエンザ等対策特別措置法に規定する新型インフルエンザ等とみなし、同法に
基づく措置を実施する必要がある。これが、この法律案を提出する理由である」 ;
https://www.clb.go.jp/contents/diet_201/reason/201_law_046.html.
19 <新型コロナ>改正特措法が成立 きょう施行 「緊急宣言」可能に、国民の自由制限も』
東京新聞2020年3月14日.
Số 12 (412) - T6/202064
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
trách nhiệm lưu giữ đầy đủ những ghi chép
về nội dung các cuộc họp trước khi dẫn đến
quyết định này.
Ngày 7/4/2020, lần đầu tiên kể từ sau
chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản ra
tuyên bố về tình trạng khẩn cấp áp dụng cho
7 tỉnh thành phố lớn là Tokyo, Kanagawa,
Saitama, Chiba, Osaka, Hyogo và Fukuoka.
Trong khoảng thời gian một tháng hiệu lực
của tình trạng khẩn cấp, người dân ở 7 tỉnh
này được khuyến cáo không nên ra đường
nếu không cần thiết, mọi hoạt động vui chơi
đều bị huỷ bỏ, bảo tàng, trường học được
yêu cầu đóng cửa, một số nhà hàng, quán ăn
cũng được yêu cầu dừng hoạt động hoặt rút
ngắn giờ làm... Tất cả những hoạt động này
nhằm hạn chế đến mức tối đa những tiếp xúc
giữa người với người. Thủ tướng Abe cho
biết mục tiêu của quyết định này là nhằm
giảm ít nhất 70 đến 80 phần trăm sự tiếp xúc
thông thường20.
Với việc đưa ra những quy định nêu
trên, nhiều quyền hiến định của công dân
Nhật Bản đã bị giới hạn đến một mức độ
nhất định. Tuy nhiên, trong tuyên bố và các
quy định về tình trạng khẩn cấp, Chính phủ
Nhật Bản mới chỉ dừng ở mức độ “yêu cầu”
chứ chưa phải là “bắt buộc ” thực hiện.
Thực tế nêu trên cho thấy sự thận trọng
của Chính phủ Nhật Bản trong bối cảnh hiện
tại. Khi mà chưa có quy định rõ ràng trong
Hiến pháp, Chính phủ không đưa ra những
quyết định mạnh, kể cả trong những trường
hợp được coi là khẩn cấp. Ở một góc độ
khác, điều này còn cho thấy, xã hội Nhật
Bản, sau những kinh nghiệm rút ra từ chế độ
quân chủ, đã rất quan tâm đến việc bảo vệ
các quyền con người.
Những gợi mở cho Việt Nam
Từ phân tích những quy định và thực
tiễn áp dụng quy định về tình trạng khẩn của
Nhật Bản có thể rút ra những gợi mở sau cho
Việt Nam:
Thứ nhất, tình trạng khẩn cấp có ảnh
hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn
xã hội, quyền và lợi ích của cá nhân, tổ chức.
Vì vậy, để bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà
nước, tổ chức, cá nhân, cần một hệ thống
pháp luật về tình trạng khẩn cấp toàn diện,
rõ ràng và chặt chẽ: Bất kể những quy định
đó có thể được nêu trong Hiến pháp hay tại
các văn bản pháp luật dưới Hiến pháp, chúng
cần phải bao gồm: các trưởng hợp được ban
bố tình trạng khẩn cấp, những chủ thể có
thẩm quyền liên quan, thời gian hiệu lực
cũng như phạm vi ảnh hưởng.
Thứ hai, mọi quyết định liên quan đến
tình trạng khẩn cấp cần có sự chuẩn thuận
của Quốc hội. Trong trường hợp Quốc hội
không họp được, chủ thể có thẩm quyền, dựa
trên tính cấp bách của vấn đề, ra quyết định
ban bố tình trạng khẩn cấp. Tuy nhiên, quyết
định đó cần nhận được sự phê chuẩn của
Quốc hội tại kỳ họp sớm nhất được tổ chức.
Trong suốt thời gian diễn ra tình trạng khẩn
cấp, Quốc hội không thể bị giải tán.
Thứ ba, cần công khai, minh bạch mọi
quyết định liên quan đến tình trạng khẩn cấp.
Thông qua phương tiện thông tin đại chúng,
phương tiện truyền thông khác, chính quyền
cần thông báo nội dung các quyết định liên
quan đến tình trạng khẩn cấp với người dân
một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời.
Thứ tư, cần xây dựng một thiết chế độc
lập, minh bạch để giám sát mọi quyết định
liên quan đến tình trạng khẩn cấp, trong đó
Toà án cần đóng một vai trò quan trọng n
20 安倍首相「人と人の接触を7割か8割削減することが前提だ」緊急事態宣言発出後の記者会
見 2020年4月7日.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- quy_dinh_cua_phap_luat_nhat_ban_ve_tinh_trang_khan_cap_va_nh.pdf