Một là, bổ sung quy định của Bộ luật
TTHS năm 2015 về thời điểm thông báo
quyền cho người bị bắt, người bị tạm giữ.
Theo đó, đối với người bị bắt thì việc thông
báo này phải được thực hiện ngay tại thời
điểm bắt, việc này được thực hiện và xác
nhận qua biên bản bắt người; đối với người
bị tạm giữ, việc thông báo quyền này phải
thực hiện ngay khi giao quyết định tạm giữ
cho người đó, đồng thời, việc này cũng phải
được thực hiện và xác nhận thông qua biên
bản giao quyết định tạm giữ.
Hai là, bổ sung quy định của Bộ luật
TTHS 2015 về trình tự, thủ tục lấy lời khai
đối với người bị bắt và người bị tạm giữ.
Theo chúng tôi, trình tự, thủ tục này nên
thực hiện tương tự trình tự hỏi cung bị can
theo quy định tại Điều 183, bởi lẽ, dù với tư
cách pháp lý nào thì lời khai của người bị
buộc tội đều có giá trị chứng cứ và đều có
thể được sử dụng để tiến hành truy tố, xét xử
và kết tội. Do đó, nếu giá trị của các lời khai
đó là như nhau thì trình tự, thủ tục thu thập
cũng phải tương tự nhau.
Ba là, bổ sung quy định của Bộ luật
TTHS 2015 về các chứng cứ được thu thập
dựa trên lời khai bất hợp pháp là đương
nhiên vô hiệu, trừ khi chứng minh được
việc thu thập lời khai bất hợp pháp không
phải do lỗi cố ý của cán bộ điều tra. Lý giải
cho điều này, có thể thấy trong nhiều trường
hợp, cán bộ điều tra không cố ý dùng các
phương pháp bất hợp pháp để lấy lời khai
rồi từ đó truy tìm ra chứng cứ, mà đôi khi
chỉ do sơ suất nghiệp vụ hoặc do tâm lý
của người được lấy lời khai có vấn đề trong
quá trình lấy lời khai, dẫn đến lời khai bị
vô hiệu. Do đó, nếu xác định toàn bộ các
chứng cứ được thu thập dựa trên thông tin
từ lời khai bất hợp pháp là vô giá trị, thì sẽ
gây ra rất nhiều khó khăn trong việc xử lý
tội phạm. Ngược lại, tại sao không nên quy
định rằng, mọi chứng cứ đó đương nhiên có
giá trị, trừ trường hợp chứng minh được sự
vi phạm trong việc lấy lời khai là cố ý (bởi
vì trong quá trình tố tụng, người bị buộc tội
luôn ở thế yếu hơn các cơ quan tố tụng). Do
đó, cần quy định theo hướng chủ thể phải có
nghĩa vụ chứng minh là các cơ quan tố tụng.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 5 trang
5 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 400 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền im lặng của người bị buộc tội và các đảm bảo pháp lý trong tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tóm tắt: 
Ở Việt Nam, quyền im lặng lần đầu tiên được quy định trực tiếp 
trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (Bộ luật TTHS 2015). Có 
thể nói, việc quy định quyền im lặng là một bước tiến lớn trong 
việc bảo vệ quyền con người và thực hiện trình tự xét xử công bằng 
trong tố tụng hình sự. Tuy nhiên, quy định về quyền im lặng và các 
đảm bảo pháp lý hiện nay vẫn còn nhiều thiếu sót, từ đó khó đảm 
bảo mục tiêu xây dựng nền tư pháp vững mạnh. Bài viết trình bày 
quy định hiện hành của quyền im lặng và các đảm bảo pháp lý của 
quyền này; từ cơ sở đó, phân tích các mặt hạn chế và đưa ra các 
kiến nghị hoàn thiện. 
Võ Minh Kỳ *
* Viện Kiểm sát nhân dân Quận Ninh Kiều, TP. Cần Thơ
Abstract 
In Viet Nam, the right to silence is first laid down directly in 
the Penal Procedure Code of 2015. It can be said that the right 
to silence is a big step forward in the protection of human rights 
and the implementation of criminal justice proceedings. However, 
there are still shortcomings under this provision of right to right to 
silence and legal guarantees, which makes it difficult to secure a 
strong judicial mandate. This article provides presentation of the 
current provisions of right to silence and the legal guarantees of 
this right; It also provides analysis of the relevant constraints and 
recommendations for further improvements.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: quyền im lặng; lời khai. 
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 06/04/2017
Biên tập : 06/06/2017
Duyệt bài : 13/06/2017
Article Infomation:
Keywords: right to silence; right to 
remain silent; self-incrimination; 
confession
Article History:
Received : 06 Apr. 2017
Edited : 06 Jun 2017
Approved : 13 Jun 2017
QUYỀN IM LẶNG CỦA NGƯỜI BỊ BUỘC TỘI 
VÀ CÁC ĐẢM BẢO PHÁP LÝ TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1. Quy định về quyền im lặng và các đảm 
bảo pháp lý trong tố tụng hình sự Việt Nam
Bộ luật TTHS 2015 ghi nhận quyền im 
lặng dành cho người bị buộc tội, gồm bốn chủ 
1 Điểm đ, khoản 1, Điều 4 Bộ luật TTHS 2015.
thể pháp lý khác nhau, bao gồm: (1) người bị 
bắt; (2) người bị tạm giữ; (3) bị can; (4) bị cáo1. 
Theo đó, trong quá trình tham gia tố tụng, tất 
cả các đối tượng trên đều có quyền “không 
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
52 Số 13(365) T6/2018
buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính 
mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”2. 
Việc quy định quyền không đưa ra lời 
khai chống lại chính mình có thể được hiểu 
là người bị buộc tội có quyền không khai 
những điều chứa đựng thông tin bất lợi cho 
bản thân mình. Quy định này có thể hiểu 
tương đương với quyền im lặng.
Tuy nhiên, căn cứ theo nội dung điều 
luật, người bị buộc tội chỉ có thể từ chối đưa 
ra lời khai nếu sự thẩm vấn yêu cầu lời khai 
có chứa đựng thông tin chống lại họ hoặc 
buộc họ phải nhận mình có tội. Còn đối với 
những câu hỏi khác trong quá trình thẩm 
vấn, người bị buộc tội không có quyền giữ 
im lặng. Mặt khác, một trong các nghĩa vụ 
của người bị buộc tội là phải có mặt theo 
sự triệu tập hoặc chấp hành yêu cầu của cơ 
quan, cá nhân có thẩm quyền, điều này có 
nghĩa là họ không thể từ chối tham gia cuộc 
hỏi cung, lấy lời khai hoặc tại phiên tòa3. 
Suy ra, người bị buộc tội phải có mặt trong 
các cuộc thẩm vấn và không thể giữ im lặng 
trong suốt thời gian này.
Có thể thấy, khi so sánh với luật pháp 
các nước và luật quốc tế, quy định về quyền 
im lặng của Việt Nam có nội dung và phạm 
vi tương đối hẹp4. Lý giải cho điều này, có 
thể xét rằng đây là loại quyền mới đối với 
Việt Nam, một quyền im lặng tuyệt đối dành 
cho người bị buộc tội có thể gây ra nhiều 
rào cản cho các cơ quan TTHS trong việc 
2 Điểm d, khoản 1, Điều 58; điểm c, khoản 2, Điều 59; điểm d, khoản 2, Điều 60; điểm h, khoản 2, Điều 61 Bộ luật TTHS 2015.
3 Khoản 2, Điều 58; khoản 3, Điều 59; khoản 3, Điều 60; khoản 3, Điều 61 Bộ luật TTHS 2015.
4 Tại Hoa Kỳ, năm 1966 vụ án Miranda v. Arizona đã khẳng định phạm vi của quyền im lặng là tuyệt đối chứ không chỉ 
các nội dung chống lại mình. 
 Tại Nhật Bản, theo Bộ luật TTHS năm 1948, Điều 198 (1) ghi nhận quyền từ chối tham gia thẩm vấn của người bị buộc 
tội, trừ trường hợp anh ta đang bị tạm giữ hoặc tạm giam; Điều 311 (1), Điều 316-9 (3) ghi nhận bị can, bị cáo có quyền 
im lặng tuyệt đối suốt thời gian thẩm vấn hoặc thời gian diễn ra phiên tòa, hoặc có quyền từ chối trả lời một số câu 
hỏi xác định.
5 Điều 223, 224 Bộ luật TTHS 2015 chỉ cho phép áp dụng các biện pháp điều tra đặc biệt, bao gồm: ghi âm, ghi hình bí 
mật, nghe điện thoại bí mật và thu thập dữ liệu điện tử bí mật. Các biện pháp đó chỉ được áp dụng đối với tội phạm liên 
quan đến an ninh quốc gia, ma túy, khủng bố, rửa tiền, tham nhũng hoặc các tội phạm đặc biệt nghiêm trọng có tổ chức.
6 Điểm c, khoản 1, Điều 58; điểm b, khoản 2, Điều 59; điểm b, khoản 2, Điều 60; điểm c, khoản 2, Điều 61 
Bộ luật TTHS 2015.
giải quyết vụ án. Hơn nữa, so sánh với các 
nước khác, lực lượng điều tra của Việt Nam 
không được sở hữu những công cụ điều 
tra hiệu quả như thỏa thuận nhận tội (plea 
bargain), hoạt động ngầm (undercover) hoặc 
gài bẫy (sting operation) mà chỉ có thể sử 
dụng các biện pháp như nghe lén, ghi âm ghi 
hình bí mật một cách hạn chế5. Sự quy định 
quyền im lặng ở mức độ tương đối, hay còn 
gọi là quyền không tự buộc tội chính mình, 
là sự cân bằng giữa quyền cá nhân và lợi ích 
xã hội.
Để đảm bảo rằng quyền im lặng có thể 
được sử dụng và có hiệu quả trên thực tế, 
pháp luật TTHS quy định ba biện pháp đảm 
bảo pháp lý, đó là quyền được thông báo 
quyền của người bị buộc tội (1), ghi âm, ghi 
hình trong khi thẩm vấn (2) và tiêu chí đánh 
giá tính hợp pháp của lời khai (3).
Thứ nhất, đối với quyền được thông 
báo về quyền của người bị buộc tội. Đây là 
sự kế thừa từ Bộ luật TTHS 2003 và tiếp tục 
được duy trì ở Bộ luật TTHS 20156. Chức 
năng này nhằm đảm bảo người bị buộc tội biết 
và hiểu rõ quyền của mình, bao gồm quyền 
im lặng, và từ đó có thể quyết định đưa ra sự 
lựa chọn sử dụng quyền im lặng hay không. 
Có ý kiến cho rằng, quyền im lặng còn được 
gọi là quyền Midranda, có xuất xứ từ vụ án 
Midranda vs. Arizona và vụ án này được giải 
quyết bởi Tòa án tối cao liên bang Hoa Kỳ. 
Theo phán quyết cuối cùng của tòa án thì: 
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
53Số 13(365) T6/2018
“Trước khi bị thẩm vấn, người bị tạm giam 
phải được thông báo rõ ràng rằng anh ta có 
quyền im lặng và những gì anh ta nói đều sẽ 
được sử dụng làm bằng chứng chống lại anh 
ta trước tòa. Anh ta phải được thông báo rõ 
ràng rằng anh ta có quyền tham vấn luật sư 
và quyền được luật sư ở bên cạnh trong suốt 
quá trình thẩm vấn”7 (phán quyết này còn 
được gọi là cảnh báo Midranda hay quyền 
được thông báo quyền). Từ vụ án này, thuật 
ngữ quyền im lặng không chỉ được hiểu là 
quyền không khai báo mà còn là những đảm 
bảo cho bị can, trong tình trạng yếu thế, được 
quyền tư vấn pháp lý để tránh những lời khai 
bất lợi cho mình8. Như vậy, quan điểm nói 
trên đã đồng nhất quyền im lặng và cảnh 
báo Miranda (quyền được thông báo quyền). 
Tuy nhiên, đây là nhận thức có phần chưa 
chuẩn xác. Xét về mặt lịch sử, các quy định 
sơ khai về quyền im lặng đã xuất hiện trong 
truyền thống thông luật (common law) vào 
cuối thế kỷ 17 để chống lại tình trạng bức 
cung, nhục hình khá phổ biến vào thời điểm 
đó9, còn cảnh báo Miranda chỉ xuất hiện từ 
năm 1966. Xét về mặt nội dung, sự vi phạm 
về cảnh báo Miranda chắc chắn dẫn đến tính 
bất hợp pháp của lời khai, nhưng ngược lại, 
sự tuân thủ cảnh báo Miranda không đồng 
nghĩa với mọi lời khai được đưa ra sau cảnh 
báo đều được thừa nhận mà còn phải trải qua 
thủ tục xem xét tính tự nguyện (due process 
voluntariness test)10. Như vậy, cần phân biệt 
quyền được thông báo quyền và quyền im 
lặng có phạm vi nội hàm khác nhau, dù tác 
động pháp lý của hai quyền này có phần ảnh 
hưởng đến nhau.
7 Đào Trung Hiếu, “Nhập khẩu” quyền im lặng và những hệ lụy”, Báo Công an nhân dân điện tử, ngày 31/10/2015, 
 truy cập 
ngày 31/3/2017.
8 Đào Trung Hiếu, “Nhập khẩu” quyền im lặng và những hệ lụy”,tlđd. 
9 Alan M. Dershowitz, Is there a right to remain silent? Coercive interrogation and the Fifth Amendment After 9/11, 
Oxford: Oxford University Press, 2008, p.61
10 Welsh S. White, Miranda's waning protections: police interrogation practices after Dickerson. Ann Arbor: University of 
Michigan Press, 2001, p.39
11 Khoản 2, Điều 87 Bộ luật TTHS 2015
Thứ hai, về đảm bảo pháp lý ghi âm, 
ghi hình bắt buộc, khoản 6 Điều 183 Bộ luật 
TTHS 2015 quy định mọi cuộc hỏi cung 
diễn ra trong cơ sở tạm giữ hoặc tại trụ sở 
của Cơ quan điều tra đều phải được ghi âm 
hoặc ghi hình có âm thanh. Việc ghi âm, ghi 
hình này không chỉ nhằm bảo vệ quyền của 
bị can, mà còn bảo vệ phía cơ quan điều tra 
trước các khiếu nại, tố cáo. Trong trường 
hợp có bất kỳ sự cáo buộc nào về việc vi 
phạm quyền im lặng, quyền được thông báo 
quyền hoặc sự sử dụng nhục hình trong hoạt 
động lấy lời khai, thẩm phán có thể dựa vào 
các tệp hình ảnh, âm thanh này để đánh giá 
tính hợp pháp của lời khai. 
Thứ ba, đảm bảo pháp lý về căn cứ 
đánh giá tính hợp pháp của lời khai. Theo 
quy định mới, mọi chứng cứ, bao gồm lời 
khai, nếu không được thu thập theo đúng 
trình tự, thủ tục do Bộ luật TTHS quy định 
đều không được xem là chứng cứ11. Nói 
cách khác, tính hợp pháp phải được đảm bảo 
bằng sự tuân thủ trình tự, thủ tục theo luật 
định, đồng nghĩa với việc lấy lời khai phải 
tuân thủ thủ tục thông báo về quyền, ghi âm, 
ghi hình và các thủ tục khác. So sánh với Bộ 
luật TTHS 2003, đây là quy định mới hết 
sức tiến bộ, bởi Bộ luật TTHS 2003 chỉ yêu 
cầu chứng cứ phải đảm bảo tính hợp pháp, 
xác thực và liên quan đến vụ án, nhưng lại 
không có một quy định ràng buộc sự tuân thủ 
trình tự, thủ tục khi thu thập, dẫn đến trường 
hợp có những chứng cứ thu thập không đúng 
thủ tục vẫn được Tòa án chấp thuận. 
Tóm lại, Bộ luật TTHS 2015 quy 
định quyền im lặng của người bị buộc tội 
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
54 Số 13(365) T6/2018
một cách hạn chế về phạm vi và nội dung 
áp dụng, đồng thời, đưa ra những biện pháp 
nhằm bảo đảm tính khả thi của quyền im 
lặng trên thực tế.
2. Những hạn chế của chế định quyền 
im lặng theo Bộ luật Tố tụng hình sự 
năm 2015
2.1 Thiếu cơ chế bảo vệ người bị bắt, người 
bị tạm giữ
Thứ nhất, đối với đảm bảo pháp lý về 
quyền được thông báo quyền im lặng. 
Điều 58 và Điều 59 của Bộ luật TTHS 
2015 quy định, người bị bắt và người bị tạm 
giữ có quyền được giải thích về quyền của 
họ, trong đó có quyền im lặng. Tuy nhiên, 
Bộ luật TTHS lại không đề cập đến thời 
điểm thực hiện sự giải thích, thông báo 
quyền. Trong sự so sánh với hai chủ thể 
khác là bị can và bị cáo, luật quy định rõ 
là bị can được thông báo quyền trước lần 
hỏi cung đầu tiên và bị cáo được thông báo 
quyền trong thủ tục bắt đầu phiên tòa12. Mặc 
dù trong mẫu biên bản bắt người của Bộ 
Công an có mục quy định về việc giải thích 
quyền và nghĩa vụ cho người bị bắt vào thời 
điểm bắt13. Tuy nhiên, theo quy định 2 Điều 
87 Bộ luật TTHS 2015, “Những gì có thật 
nhưng không được thu thập theo trình tự, 
thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có 
giá trị pháp lý và không được dùng làm căn 
cứ để giải quyết vụ án hình sự”, vì vậy, mẫu 
biên bản bắt người của Bộ Công an không 
thể xem là căn cứ để hủy đi giá trị pháp lý 
của lời khai của người bị buộc tội.
Thứ hai, theo quy định của Điều 95 Bộ 
luật TTHS 2015, một trong các nguồn chứng 
cứ là lời khai của người bị bắt và người bị 
tạm giữ. Tuy nhiên, Bộ luật TTHS 2015 lại 
không quy định về thể thức, trình tự, thủ tục 
12 Khoản 2, Điều 183; khoản 3, Điều 301 Bộ luật TTHS 2015.
13 Quyết định số 1351/2004/QĐ-BCA(C11) ngày 18/11/2004 của Bộ trưởng Bộ Công an.
của việc lấy lời khai này. Như vậy, liệu việc 
lấy lời khai của người bị bắt, người bị tạm 
giữ có cần phải thực hiện các đảm bảo pháp 
lý như phổ biến quyền cho họ hay thực hiện 
thủ tục ghi âm, ghi hình hay không vẫn là 
những câu hỏi chưa được trả lời. 
Những hạn chế trên gây ảnh hưởng 
tới quyền của người bị bắt, người bị tạm giữ 
trong giai đoạn đầu của tố tụng trước khi 
được chuyển sang tư cách tố tụng là bị can, 
bị cáo với đầy đủ sự đảm bảo pháp lý. 
2.2 Cơ sở đánh giá tính pháp lý của lời khai 
Như đã đề cập ở trên, Bộ luật TTHS 
2015 đã có một quy định rất tiến bộ khi xác 
định rõ ràng trường hợp chứng cứ, bao gồm 
lời khai, sẽ không có giá trị pháp lý nếu 
không được thu thập theo đúng trình tự, thủ 
tục theo quy định của Bộ luật này. Quy định 
này có thể được hiểu là bất kỳ chứng cứ nào 
được thu thập theo đúng trình tự, thủ tục do 
luật định thì đương nhiên sẽ đảm bảo tính 
hợp pháp của chứng cứ. Điều này dẫn đến 
một số điểm hạn chế và mâu thuẫn với quyền 
im lặng của người bị buộc tội. Cụ thể như 
sau: Bộ luật TTHS 2015 quy định, người bị 
buộc tội có quyền “không buộc phải đưa ra 
lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải 
nhận mình có tội”. Như vậy, yếu tố không bị 
ép buộc, hay còn gọi là tính tự nguyện là yếu 
tố cơ bản nhất của quyền im lặng. Tuy nhiên, 
Bộ luật TTHS 2015 hoàn toàn không có điều 
khoản nào đề cập đến tính tự nguyện và mức 
độ chất lượng của sự tự nguyện trong đánh 
giá lời khai của người bị buộc tội.
Từ phân tích trên cho thấy, bên cạnh 
việc nhấn mạnh đến tính hợp pháp của chứng 
cứ, quy định của pháp luật TTHS hiện hành 
còn thiếu quy định về các tiêu chuẩn pháp lý 
riêng dành cho lời khai nhằm phù hợp với 
điểm đặc thù của loại chứng cứ này.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
55Số 13(365) T6/2018
Một vấn đề khác cần phải đề cập đến, 
chính là giá trị pháp lý của các chứng cứ 
được thu thập dựa trên thông tin có từ lời 
khai được đánh giá là bất hợp pháp sẽ được 
nhìn nhận như thế nào. Có thể thấy rằng, 
trong một vài trường hợp, cán bộ điều tra có 
thể chấp nhận không tuân theo trình tự, thủ 
tục của Bộ luật TTHS nhằm lấy được những 
lời khai mang giá trị thông tin, từ đó dẫn dắt 
họ đến các loại chứng cứ khác có giá trị trong 
vụ án. Như vậy, nếu căn cứ theo quy định 
pháp luật, thì chỉ lời khai ban đầu là không 
có giá trị pháp lý vì đã không tuân thủ trình 
tự thủ tục, còn các loại chứng cứ khác được 
thu thập theo đúng trình tự thủ tục dựa trên 
lời khai đó vẫn được xem xét như chứng cứ. 
Việc quy định như vậy dễ dẫn đến tình trạng 
chấp nhận đánh đổi lời khai vô giá trị lấy 
các chứng cứ khác của cán bộ điều tra, và từ 
đó xâm phạm đến quyền im lặng của người 
bị buộc tội.
3. Kiến nghị hoàn thiện
Một là, bổ sung quy định của Bộ luật 
TTHS năm 2015 về thời điểm thông báo 
quyền cho người bị bắt, người bị tạm giữ. 
Theo đó, đối với người bị bắt thì việc thông 
báo này phải được thực hiện ngay tại thời 
điểm bắt, việc này được thực hiện và xác 
nhận qua biên bản bắt người; đối với người 
bị tạm giữ, việc thông báo quyền này phải 
thực hiện ngay khi giao quyết định tạm giữ 
cho người đó, đồng thời, việc này cũng phải 
được thực hiện và xác nhận thông qua biên 
bản giao quyết định tạm giữ.
Hai là, bổ sung quy định của Bộ luật 
TTHS 2015 về trình tự, thủ tục lấy lời khai 
đối với người bị bắt và người bị tạm giữ. 
Theo chúng tôi, trình tự, thủ tục này nên 
thực hiện tương tự trình tự hỏi cung bị can 
theo quy định tại Điều 183, bởi lẽ, dù với tư 
cách pháp lý nào thì lời khai của người bị 
buộc tội đều có giá trị chứng cứ và đều có 
thể được sử dụng để tiến hành truy tố, xét xử 
và kết tội. Do đó, nếu giá trị của các lời khai 
đó là như nhau thì trình tự, thủ tục thu thập 
cũng phải tương tự nhau.
Ba là, bổ sung quy định của Bộ luật 
TTHS 2015 về các chứng cứ được thu thập 
dựa trên lời khai bất hợp pháp là đương 
nhiên vô hiệu, trừ khi chứng minh được 
việc thu thập lời khai bất hợp pháp không 
phải do lỗi cố ý của cán bộ điều tra. Lý giải 
cho điều này, có thể thấy trong nhiều trường 
hợp, cán bộ điều tra không cố ý dùng các 
phương pháp bất hợp pháp để lấy lời khai 
rồi từ đó truy tìm ra chứng cứ, mà đôi khi 
chỉ do sơ suất nghiệp vụ hoặc do tâm lý 
của người được lấy lời khai có vấn đề trong 
quá trình lấy lời khai, dẫn đến lời khai bị 
vô hiệu. Do đó, nếu xác định toàn bộ các 
chứng cứ được thu thập dựa trên thông tin 
từ lời khai bất hợp pháp là vô giá trị, thì sẽ 
gây ra rất nhiều khó khăn trong việc xử lý 
tội phạm. Ngược lại, tại sao không nên quy 
định rằng, mọi chứng cứ đó đương nhiên có 
giá trị, trừ trường hợp chứng minh được sự 
vi phạm trong việc lấy lời khai là cố ý (bởi 
vì trong quá trình tố tụng, người bị buộc tội 
luôn ở thế yếu hơn các cơ quan tố tụng). Do 
đó, cần quy định theo hướng chủ thể phải có 
nghĩa vụ chứng minh là các cơ quan tố tụng.
Bốn là, bổ sung Bộ luật TTHS năm 
2015 quy định về lời khai nếu được thu thập, 
sử dụng trong vụ án thì không được dùng 
làm chứng cứ trong vụ án khác và, nếu các 
chứng cứ được thu thập là dựa trên lời khai 
đó cũng sẽ bị vô hiệu về mặt pháp lý. Quy 
định này nhằm đảm bảo những người tham 
gia tố tụng sẽ đưa ra lời khai trong một vụ 
án mà không phải đối mặt với nguy cơ bị 
chính các lời khai đó chống lại chính mình 
trong một vụ án khác, từ đó đảm bảo quyền 
im lặng của họ; đồng thời, nhằm làm giảm 
thiểu các rào cản từ việc điều tra vụ án, tránh 
trường hợp những người tham gia tố tụng 
dựa vào lý do các lời khai đó có thể bất lợi 
cho họ mà từ chối khai báo, gây khó khăn 
cho việc điều tra.
THÛÅC TIÏÎN PHAÁP LUÊÅT
56 Số 13(365) T6/2018
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 quyen_im_lang_cua_nguoi_bi_buoc_toi_va_cac_dam_bao_phap_ly_t.pdf quyen_im_lang_cua_nguoi_bi_buoc_toi_va_cac_dam_bao_phap_ly_t.pdf