Quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp

Thứ ba, tăng cường trách nhiệm của nhà nước trong bảo đảm quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp. Trong nhà nước pháp quyền, quyền của nhân dân tham gia xây dựng chính sách, pháp luật phải được bảo đảm bằng bổn phận và trách nhiệm của nhà nước trong việc cung cấp thông tin, tạo ra cơ chế pháp lý để nhà nước không chỉ lắng nghe, phát hiện nhu cầu mà còn thu hút sự tham gia có hiệu quả của công dân trong quá trình làm ra các đạo luật phù hợp với nhu cầu của cuộc sống và ý chí, nguyện vọng của nhân dân*. Do đó, cần tăng cường trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp. Cần xác định rõ trách nhiệm của nhà nước trong việc tổ chức lấy ý kiến, tiếp thu, tổng hợp, đánh giá, phản hồi, và giải trình các ý kiến tham gia đóng góp của nhân dân. Muốn vậy, các cơ quan có thẩm quyền phải xem quá trình tiếp nhận các ý kiến tham gia của nhân dân là quá trình hai chiều, trong đó nhà nước có trách nhiệm làm rõ những vấn đề được tiếp thu trong dự án, dự thảo luật; đồng thời cũng cần phải giải trình làm rõ, phản hồi lại những vấn đề chưa tiếp thu và giải thích lý do để nhân dân Thứ ba, tăng cường trách nhiệm của nhà nước trong bảo đảm quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp. Trong nhà nước pháp quyền, quyền của nhân dân tham gia xây dựng chính sách, pháp luật phải được bảo đảm bằng bổn phận và trách nhiệm của nhà nước trong việc cung cấp thông tin, tạo ra cơ chế pháp lý để nhà nước không chỉ lắng nghe, phát hiện nhu cầu mà còn thu hút sự tham gia có hiệu quả của công dân trong quá trình làm ra các đạo luật phù hợp với nhu cầu của cuộc sống và ý chí, nguyện vọng của nhân dân*. Do đó, cần tăng cường trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp. Cần xác định rõ trách nhiệm của nhà nước trong việc tổ chức lấy ý kiến, tiếp thu, tổng hợp, đánh giá, phản hồi, và giải trình các ý kiến tham gia đóng góp của nhân dân. Muốn vậy, các cơ quan có thẩm quyền phải xem quá trình tiếp nhận các ý kiến tham gia của nhân dân là quá trình hai chiều, trong đó nhà nước có trách nhiệm làm rõ những vấn đề được tiếp thu trong dự án, dự thảo luật; đồng thời cũng cần phải giải trình làm rõ, phản hồi lại những vấn đề chưa tiếp thu và giải thích lý do để nhân dân

pdf7 trang | Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 238 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
44 Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 51 (01/2019) 44-50 QUYỀN THAM GIA CỦA NHÂN DÂN VÀO HOẠT ĐỘNG LẬP PHÁP Ở VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP Mai Thị Thanh Tâm* *† Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 6/7/2018 Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 4/01/2019 Ngày bài báo được duyệt đăng: 29/01/2019 Tóm tắt: Thực hiện quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm tính nhân dân, tính dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nó không những thể hiện sự tham gia quản lý nhà nước và xã hội của nhân dân, mà còn góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động lập pháp. Thực tiễn Việt Nam cho thấy, tuy Nhà nước đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo đảm thực hiện quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp nhưng vẫn chưa đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn, từ đó đặt ra yêu cầu cấp thiết là phải tăng cường các giải pháp bảo đảm sự tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp. Từ khóa: nhân dân, quyền tham gia, hoạt động lập pháp 1. Vai trò bảo đảm quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp ở Việt Nam Quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước là một tiêu chí quan trọng đánh giá mức độ dân chủ của một xã hội. Trong tổ chức bộ máy nhà nước, Quốc hội được xác định là “cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”1 với chức năng quan trọng hàng đầu là lập hiến, lập pháp nên quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp là đòi * Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh 1 Điều 69, Hiến pháp Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 hỏi khách quan, có vai trò đặc biệt quan trọng. Thứ nhất, việc bảo đảm quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp xuất phát từ yêu cầu bảo đảm tính nhân dân, tính dân chủ trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong tiến trình đổi mới và phát triển đất nước cho đến nay, vấn đề xây dựng và hoàn thiện “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân” luôn được Đảng ta quan tâm, chú trọng. Kể từ Đại hội VII, qua mỗi kỳ đại Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 45 hội, tư duy lý luận của Đảng về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng phát triển, hoàn thiện. Đến Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta tiếp tục xác định: “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo”; “Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân”2.*†Quan điểm này đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013. Hiến pháp 2013 khẳng định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Tính nhân dân, tính dân chủ của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam không chỉ được thể hiện ở trách nhiệm của nhà nước phục vụ nhân dân mà 2 Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.85 3 V. I. Lê nin, Toàn tập, Tập 34, NXB Sự thật, Hà Nội, tr.412. còn thể hiện ở việc huy động được sự tham gia của nhân dân vào hoạt động nhà nước, trong đó có hoạt động lập pháp (một trong những lĩnh vực hoạt động chủ yếu của bộ máy nhà nước). Bảo đảm Nhân dân tham gia vào hoạt động lập pháp sẽ góp phần phát huy dân chủ, phát huy tính tích cực chính trị của nhân dân, thực hiện quyền tham gia của người dân đã được Hiến pháp quy định. Thứ hai, việc bảo đảm quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp góp phần cụ thể hóa nguyên tắc nhân dân tham gia vào quản lý nhà nước và xã hội. V. I. Lênin coi việc lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà nước là “phương pháp tuyệt diệu để tăng ngay một lúc bộ máy nhà nước của chúng ta lên gấp mười lần” 3.‡Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đặc biệt đề cao vai trò của nhân dân trong quản lý nhà nước. Người cho rằng: “Làm việc gì cũng phải có quần chúng. Không có quần chúng thì không thể làm được” 4.§Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, nhà nước phải dựa vào lực lượng nhân dân, bảo đảm phương châm "đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết" 5.** Tiếp thu quan điểm của các nhà kinh điển Mácxít về quyền tham gia quản lý nhà nước của nhân dân, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam đã ghi nhận về quyền tham gia quản lý nhà nước của nhân dân. 4 Hồ Chí Minh, Bàn về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.481. 5 Hồ Chí Minh, Bàn về nhà nước và pháp luật, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.464. 46 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion Trên cơ sở kế thừa và phát huy quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội được ghi nhận trong các bản Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vến đề của cơ sở, địa phương và cả nước. Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (Điều 28). Quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động quản lý nhà nước được thể hiện trên cả ba phương diện hoạt động chủ yếu của nhà nước là lập pháp, hành pháp và tư pháp. Bởi bản chất của hoạt động lập pháp là đưa ý chí của nhân dân lên thành luật, là hình thức quan trọng để thực hiện quyền lực của nhân dân; do đó, bảo đảm quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập là điều kiện tiên quyết để pháp luật được ban hành phản ánh đầy đủ, đúng đắn ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Việc lấy ý kiến của chuyên gia, các nhà khoa học và nhân dân trở thành một bước quan trọng, không thể thiếu trong quy trình lập pháp. Thứ ba, việc bảo đảm quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động lập pháp. Quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp không những thể hiện quyền làm chủ của nhân dân mà còn góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động lập 6 Xem: Viện Nghiên cứu lập pháp (2018), Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội pháp. Sự tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp hỗ trợ việc điều tra, đánh giá, nhận biết các vấn đề cần điều chỉnh trong xã hội; đồng thời, tạo kênh kiểm chứng thông tin và phản biện trong quá trình phân tích chính sách của dự án luật. Các chính sách, luật huy động được sự tham gia của nhân dân, đặc biệt là sự tham gia của các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp, sẽ phù hợp với tình hình thực tế hơn, nhờ đó, văn bản luật được ban hành có tính hiệu lực và hiệu quả cao hơn. Sự tham gia của nhân dân vào quá trình lập pháp cũng chính là cơ hội để tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật, từ đó góp phần nâng cao ý thức pháp luật của nhân dân (bao gồm cả hiểu biết pháp luật và ý thức tôn trọng, chấp hành pháp luật). Hơn nữa, sự tham gia của nhân dân vào quá trình lập pháp giúp tạo ra sự cân bằng lợi ích, hài hòa các xung đột và tạo nên sự đồng thuận xã hội cao. Đây chính là yếu tố quan trọng để pháp luật đi vào đời sống xã hội nhanh hơn. Bên cạnh đó, việc tham gia của công dân trong quá trình lập pháp khiến cơ quan lập pháp thận trọng hơn trong quá trình lập pháp. Đây rõ ràng là một sự giám sát khách quan và hữu hiệu đối với quá trình lập pháp và các bên tham gia lập pháp - điều này cũng thể hiện xu hướng tất yếu của một xã hội dân chủ hiện đại dù ở bất kỳ thể chế nào6.* 2. Thực trạng bảo đảm quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp ở Việt Nam hiện nay của công dân theo Hiến pháp - Thực trạng và kiến nghị, Đề tài khoa học cấp cơ sở Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 47 Nhân dân có thể tham gia vào hoạt động lập pháp thông qua các hình thức như: tham gia góp ý kiến vào dự thảo văn bản quy phạm pháp luật; tham gia biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân về Hiến pháp hoặc đạo luật và trình sáng kiến công dân, sáng kiến chương trình nghị sự. Về phương diện pháp lý, Việt Nam mới ghi nhận quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp qua việc lấy ý kiến nhân dân trong quy trình lập pháp (Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015) và biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân về Hiến pháp hoặc luật (Luật Trưng cầu ý dân 2015). Thứ nhất, thực trạng lấy ý kiến nhân dân trong quy trình lập pháp Hiến pháp năm 2013 và Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định nhân dân có quyền tham gia đóng góp ý kiến trong nhiều giai đoạn của quy trình lập pháp, từ giai đoạn lập chương trình, xây dựng luật, pháp lệnh; giai đoạn soạn thảo luật, pháp lệnh; giai đoạn góp ý vào dự thảo luật, pháp lệnh đến giai đoạn thẩm định, thẩm tra dự thảo luật, pháp lệnh. Có thể khẳng định, hệ thống các quy phạm pháp luật thời gian qua đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng để nhân dân thực hiện quyền tham gia đóng góp ý kiến trong quy trình lập pháp. Thực tiễn cũng cho thấy, hoạt động lấy ý kiến nhân dân trong hoạt động lập pháp đã trở thành hoạt động thường xuyên của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, hoạt động lấy ý kiến nhân dân vào quy trình lập pháp vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập như: đối tượng được lấy ý kiến vào dự thảo luật khá hạn hẹp; chưa có cơ chế thích hợp để các đối tượng trực tiếp chịu tác động của luật có quyền chủ động tham gia vào quy trình lập pháp; việc tổng hợp ý kiến của nhân dân và giá trị, kết quả của các cuộc lấy ý kiến nhân dân chưa được quy định rõ ràng; chưa tập hợp được đội ngũ chuyên gia có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi, am hiểu về pháp luật tham gia hoạt động lập pháp; thời gian thực hiện lấy ý kiến quá ngắn và quá gấp nên chưa thu hút được sự tham gia đông đảo của nhân dân; không có cơ chế ràng buộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc lấy ý kiến và phản hồi ý kiến nhân dân. Thứ hai, thực trạng thực hiện quyền tham gia biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân của nhân dân Trưng cầu ý dân là một hình thức dân chủ trực tiếp và là biểu hiện trực tiếp cao nhất của nguyên tắc quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thông qua hoạt động bỏ phiếu biểu quyết khi nhà nước trưng cầu ý kiến, những người dân đến tuổi trưởng thành, với tư cách công dân của mình, thể hiện ý chí, quan điểm, chính kiến của mình về những vấn đề được được ra trưng cầu ý kiến, trong đó có các vấn đề lập hiến, lập pháp. Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý” (Điều 29). Quy định này được cụ thể hóa trong Luật Trưng cầu ý dân năm 2015. Luật Trưng cầu ý dân 2015 quy định khá chi tiết về trưng cầu ý dân gồm: nguyên tắc trưng 48 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion cầu ý dân; các vấn đề trưng cầu ý dân; người có quyền bỏ phiếu trưng cầu ý dân; phạm vi tổ chức trưng cầu ý dân; chủ thể có quyền đề nghị trưng cầu ý dân; các trường hợp không tổ chức trưng cầu ý dân; kết quả trưng cầu ý dân; hiệu lực của kết quả trưng cầu ý dân; nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức trong tổ chức trưng cầu ý dân; trình tự, thủ tục tổ chức trưng cầu ý dân. Luật Trưng cầu ý dân đã tạo cơ sở pháp lý cho nhân dân tham gia một cách tích cực và chủ động hơn vào quá trình quyết định những công việc hệ trọng của đất nước, trong đó có hoạt động lập pháp. Tuy nhiên, trên thực tế, cho đến nay chưa có một cuộc trưng cầu ý dân nào được Nhà nước tổ chức. Một số quy định về trưng cầu ý dân trong Luật Trưng cầu ý dân đã làm giảm khả năng hiện thực hóa quyền này trong thực tế. Điều 14 Luật Trưng cầu ý dân quy định: “Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất là một phần ba tổng số đại biểu Quốc hội có quyền đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định việc trưng cầu ý dân”. Theo các quy định này thì ngoài 4 chủ thể kể trên thì không còn có chủ thể nào khác (kể cả nhân dân) có quyền đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định việc trưng cầu ý dân. Bên cạnh đó, việc quy định Quốc hội có quyền quyết định trưng cầu ý dân (trưng cầu ý dân tùy ý) mà không quy định những vẫn đề bắt buộc Quốc hội đưa ra trưng cầu ý dân và quy định chỉ tổ chức trưng cầu ý 7 GS.TS Phan Trung Lý, TS Đặng Xuân Phương (đồng chủ biên), Xây dựng và hoàn thiện cơ chế nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ dân trên phạm vi toàn quốc cũng làm giảm khả năng thực hiện của Luật. 3. Một số giải pháp bảo đảm quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp ở Việt Nam hiện nay Thứ nhất, hoàn thiện các quy định pháp luật về quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp ở Việt Nam. Hoàn thiện các quy định về lấy ý kiến nhân dân trong quy trình lập pháp: Việc hoàn thiện các quy định về lấy ý kiến nhân dân trong quy trình lập pháp cần làm rõ các vấn đề sau: cần đưa ra các uy định pháp luật về cơ chế huy động, sử dụng, phát huy được trí tuệ của các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà hoạt động thực tiễn có chuyên môn liên quan đến nội dung các dự án luật; quy định rõ nội dung các văn bản luật được lựa chọn để xin ý kiến nhân dân là các văn bản có phạm vi điều chỉnh rộng và có tầm ảnh hưởng đến nhiều đối tượng, nhiều lĩnh vực hoặc những vấn đề nổi cộm, bức xúc cần được tháo gỡ, xem xét, điều chỉnh 7;* cần tạo ra cơ chế ràng buộc trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong việc tập hợp, phân tích, tiếp thu và phản hồi các ý kiến của nhân; quy định cụ thể về thời gian lấy ý kiến nhân dân phù hợp với độ phức tạp của từng dự thảo luật. Hoàn thiện các quy định về trưng cầu ý dân: Luật Trưng cầu ý dân được ban hành năm 2015 đã tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và cụ thể cho việc trưng cầu ý dân trên thực tế. Vấn đề đặt ra là phải tổ chức thực trực tiếp – Cơ sở lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 369. Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion 49 hiện và chuẩn bị những điều kiện cần thiết như thế nào để có thể thực hiện được các quy định về trưng cầu ý dân. Bên cạnh đó, về lâu dài, khi có điều kiện sửa đổi Hiến pháp năm 2013, Luật Trưng cầu ý dân, chúng ta cần sửa đổi một số nội dung về trưng cầu ý dân như: Cần bổ sung quy định nhân dân có quyền đề xuất trưng cầu ý dân. Theo đó, cần tính đến việc quy định trao cho một số lượng người dân nhất định (ngưỡng tối thiểu số người ủng hộ) có quyền đề nghị trưng cầu ý dân nhằm phát huy hơn nữa vai trò của nhân dân với tư cách là chủ thể của quyền lực nhà nước. Cần quy định không chỉ hình thức trưng cầu ý dân tùy ý như Hiến pháp hiện hành (việc trưng cầu ý dân do Quốc hội quyết định) mà còn cần bổ sung thêm hình thức trưng cầu ý dân bắt buộc (Hiến pháp quy định những vấn đề phải được đưa ra trưng cầu ý dân) nhằm phát huy hơn nữa chủ quyền nhân dân. Cần xem xét việc trưng cầu ý dân ở phạm vi địa phương bởi có những vấn đề quan trọng của đất nước thuộc thẩm quyền của Quốc hội nhưng nó chỉ tác động trực tiếp trong phạm vi một địa phương hoặc khu vực, ví dụ như việc xây dựng nhà máy điện hay một dự án kinh tế xã hội có liên quan đến một hoặc một số tỉnh, thành phố hoặc những vấn đề chỉ người dân địa phương mới hiểu rõ. Bổ sung quy định về sáng kiến chương trình nghị sự: Sáng kiến chương trình nghị sự là hình thức dân chủ trực 8 GS.TS Phan Trung Lý, TS Đặng Xuân Phương (đồng chủ biên), Xây dựng và hoàn thiện cơ chế nhân dân thực hiện quyền lực tiếp mà theo đó công dân có thể đề xuất nội dung cần đưa vào chương trình xây dựng chính sách, pháp luật của nhà nước thông qua quyền đề xuất một vấn đề cụ thể vào chương trình nghị sự của cơ quan lập pháp 8.*Việc bổ sung quy định về sáng kiến chương trình nghị sự có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm sự tham gia trực tiếp của nhân dân vào hoạt động lập pháp ngay từ khâu đầu tiên, tạo điều kiện để nhân dân đưa ra các đề xuất chính sách. Các nội dung cần quy định về sáng kiến chương trình nghị sự gồm: số lượng chứ ký theo yêu cầu, thời gian cho phép để thu thập chữ ký, trình tự, thủ tục thực hiện sáng kiến chương trình nghị sự, v.v... Thứ hai, nâng cao nhận thức của nhân dân về quyền tham gia vào hoạt động lập pháp ở Việt Nam. Hiểu biết về quyền là điều kiện đầu tiên, không thể thiếu để có thể bảo đảm quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp được thực hiện trong thực tiễn một cách hiệu quả. Vì thế, trước hết, cần nâng cao nhận thức của nhân dân về quyền tham gia vào hoạt động lập pháp với tư cách là chủ thể quyền. Nhà nước cần trang bị cho nhân dân những kiến thức pháp luật và kĩ năng cần thiết để họ có thể tự mình thực hiện quyền tham gia vào hoạt động lập pháp. Cần tăng cường giáo dục quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp giúp họ có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quyền của mình, vị trí của mình trong quan hệ với nhà nhà nước bằng dân chủ trực tiếp – Cơ sở lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 30. 50 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion nước. Cùng với đó, cần khuyến khích để nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động lập pháp, từ đó, rèn luyện khả năng thực hành quyền dân chủ của nhân dân. Thứ ba, tăng cường trách nhiệm của nhà nước trong bảo đảm quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp. Trong nhà nước pháp quyền, quyền của nhân dân tham gia xây dựng chính sách, pháp luật phải được bảo đảm bằng bổn phận và trách nhiệm của nhà nước trong việc cung cấp thông tin, tạo ra cơ chế pháp lý để nhà nước không chỉ lắng nghe, phát hiện nhu cầu mà còn thu hút sự tham gia có hiệu quả của công dân trong quá trình làm ra các đạo luật phù hợp với nhu cầu của cuộc sống và ý chí, nguyện vọng của nhân dân*. Do đó, cần tăng cường trách nhiệm của Nhà nước trong bảo đảm quyền tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp. Cần xác định rõ trách nhiệm của nhà nước trong việc tổ chức lấy ý kiến, tiếp thu, tổng hợp, đánh giá, phản hồi, và giải trình các ý kiến tham gia đóng góp của nhân dân. Muốn vậy, các cơ quan có thẩm quyền phải xem quá trình tiếp nhận các ý kiến tham gia của nhân dân là quá trình hai chiều, trong đó nhà nước có trách nhiệm làm rõ những vấn đề được tiếp thu trong dự án, dự thảo luật; đồng thời cũng cần phải giải trình làm rõ, phản hồi lại những vấn đề chưa tiếp thu và giải thích lý do để nhân dân * Dương Thị Thanh Mai (2006), Sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học vào quá trình được thông suốt và nhận thức rõ giá trị của các ý kiến đóng góp của mình. Tài liệu tham khảo: 1. Dương Thị Thanh Mai (2006), Sự tham gia của các chuyên gia, các nhà khoa học vào quá trình xây dựng pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (8). 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 3. GS.TS Phan Trung Lý, TS Đặng Xuân Phương (đồng chủ biên), Xây dựng và hoàn thiện cơ chế nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp - Cơ sở lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 4. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 5. Quốc hội (2015), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. 6. Quốc hội (2015), Luật Trưng cầu ý dân. 7. Nguyễn Thị Thu Trà (2006), Thu hút sự tham gia của nhân dân vào hoạt động lập pháp của Quốc hội Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia, Hà Nội. 8. Viện Nghiên cứu lập pháp (2018), Quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội của công dân theo Hiến pháp - Thực trạng và kiến nghị, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Hà Nội. Địa chỉ tác giả: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, số 135 Nguyễn Phong Sắc, Cầu Giấy, Hà Nội. Email: tammai213@gmail.com xây dựng pháp luật, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp, (8).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfquyen_tham_gia_cua_nhan_dan_vao_hoat_dong_lap_phap_o_viet_na.pdf
Tài liệu liên quan