Xây dựng Cầu đường, Kiến trúc, Kinh
tế Xây dựng, Kỹ thuật Hạ tầng Đô thị,
ngành Cấp thoát nước và Trung tâm
bồi dưỡng nghiệp vụ. Mỗi bậc đào tạo
đều có chương trình khung, đề cương
môn học, trong thời gian học lý thuyết
ở trường người học được thực hành
các môn học như: Thực hành môn
Trắc địa, thí nghiệm kéo; nén vật liệu;
các dạng bài tập lớn; vẽ AutoCAD;
tính tiên lượng dự toán công trình;
hạch toán kế toán máy; thực hành
nghề nghiệp; thực tập tốt nghiệp cuối
khóa. Nhằm gắn chương trình học tập
gần với thực tế sản xuất thực hiện
phương châm giáo dục của Đảng “học
đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực
tiễn ”. Chính những con người này
sau khi ra trường sẽ trở thành cán bộ
quản lý, thiết kế, thi công công trình,
giám sát công trình và họ sẽ đảm nhận
công việc được ngay, tránh phải đào
tạo lại như các ngành nghề khác.
Tránh lãng phí về thời gian, tiền bạc
và lòng tin của xã hội, cũng như phụ
huynh người học.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
8 trang | 
Chia sẻ: hachi492 | Lượt xem: 625 | Lượt tải: 0
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự cần thiết tăng cường kỹ năng ở các môn học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo - Đáp ứng nhu cầu thị trường lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 17 
 SỰ CẦN THIẾT TĂNG CƯỜNG KỸ NĂNG Ở CÁC MÔN HỌC 
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO - ĐÁP ỨNG NHU CẦU 
 THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA – 
HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC 
KS. Lê Đức Gia 
Phó Trưởng Khoa Đào tạo Nghề, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung 
Tóm tắt: Gần đây chúng ta nghe nói rất nhiều về thuật ngữ “kỹ năng” như là 
kỹ năng sống, kỹ năng mềm, kỹ năng chuyên môn, trung tâm huấn luyện kỹ 
năng Các doanh nghiệp khi tuyển dụng cũng đòi hỏi ứng viên phải hội đủ các 
kỹ năng cần thiết. Điều này khiến cho các sinh viên mới tốt nghiệp không khỏi 
bối rối và lúng túng khi nộp hồ sơ, tham dự phỏng vấn, hiện nay ngay cả doanh 
nghiệp, trung tâm đào tạo và giới chuyên môn cũng chưa có một cái nhìn đầy 
đủ và thống nhất về kỹ năng. Còn nhiều người chưa hiểu rõ kỹ năng là gì? 
Bằng cách nào để tạo ra kỹ năng? Và cần phải học kỹ năng ở đâu? Trong 
khuôn khổ bài viết này chúng tôi “tác giả” muốn đưa ra vấn đề cùng nhau chia 
sẻ về chủ đề “kỹ năng”. Với mục đích cùng nhau hiểu đúng về kỹ năng, học 
đúng kỹ năng và để có thể sở hữu được kỹ năng nhằm ứng dụng nó trong công 
việc và cuộc sống. 
Từ khóa: Kỹ năng, môn học, chất lượng đào tạo, thị trường lao động. 
1. Kỹ năng là gì 
 Có nhiều cách định nghĩa khác 
nhau về kỹ năng. Những định nghĩa này 
thường bắt nguồn từ góc nhìn chuyên 
môn và quan niệm cá nhân của người 
viết. Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều 
thừa nhận rằng kỹ năng được hình thành 
khi chúng ta áp dụng kiến thức vào thực 
tiễn. Kỹ năng học được do quá trình lặp 
đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động 
nhất định nào đó. Kỹ năng luôn có chủ 
đích và định hướng rõ ràng. 
 Vậy, kỹ năng là năng lực hay khả 
năng của chủ thể thực hiện thuần thục 
một hay một chuỗi hành động trên cơ sở 
hiểu biết (kiến thức hoặc kinh nghiệm) 
nhằm tạo ra kết quả mong đợi. 
Cần phải phân biệt kỹ năng với 
một số thứ có vẻ giống kỹ năng. 
1.1. Sự khác nhau giữa kỹ năng và 
phản xạ: Phản xạ là phản ứng của cơ thể 
với môi trường, phản xạ mang tính thụ 
động. Kỹ năng ngược lại là phản ứng 
có ý thức và hoàn toàn mang tính chủ 
động. Ví dụ: học lý thuyết bơi ở phòng 
học lý thuyết khác với dạy kỹ năng bơi 
ở hồ bơi. 
1.2. Sự khác nhau giữa kỹ năng và 
thói quen: Hầu hết các thói quen hình 
thành một cách vô thức và khó kiểm 
soát. Trong khi đó kỹ năng được hình 
thành một cách có ý thức do quá trình 
luyện tập mà có. 
1.3. Thói quen rất khác với kiến 
thức. Thậm chí có một số người còn 
nhầm lẫn kiến thức là kỹ năng cứng. 
Vậy đâu là khác biệt? Kiến thức là biết, 
là hiểu nhưng chưa bao giờ làm, thậm 
chí không bao giờ làm. Trong khi đó kỹ 
năng lại là hành động thuần thục trên 
nền tảng kiến thức. Vì không tác động 
vào thực tế tại khách quan nên kiến thức 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 18 
thường ít tạo ra những thành quả cụ thể 
cho cuộc đời. Ta có thể thấy rất nhiều 
những giáo viên suốt đời dạy về lý 
thuyết kinh tế và không tham gia làm 
kinh doanh nên cho dù họ có hiểu rõ về 
nguyên lý của thị trường đến mấy nhưng 
bản thân họ cũng không làm ra nhiều 
tiền. Nhiều học giả cho rằng chỉ có kiến 
thức suông thì chưa mạnh sử dụng kiến 
thức mới là sức mạnh. Nói một cách 
khác kỹ năng chính là sức mạnh. 
2. Sự cần thiết của kỹ năng đối với 
người lao động nói chung 
 Thế kỷ 21, được gọi là kỷ nguyên 
của nền kinh tế “kỹ năng”. Điều đó được 
thể hiện rõ qua yêu cầu ngày càng thay 
đổi của xã hội. Năng lực của mỗi cá 
nhân được đánh giá trên nhiều khía cạnh 
khác nhau nhưng có ba khía cạnh chính 
mà hiện nay chúng ta cần quan tâm đó 
là: Kỹ năng, kiến thức và thái độ. Theo 
đánh giá của một số tổ chức thì để trở 
thành một người thành đạt trong cuộc 
sống cần phải hội tụ ba yếu tố đó. 
Nhưng bao nhiêu là đủ cho mỗi thứ lại là 
một vấn đề. Theo đánh giá của nhiều 
nhà khoa học thì kỹ năng mềm 
(softskill) chiếm đến 80% trên tổng số 
100%, trong khi đó, kỹ năng cứng (kiến 
thức) chỉ chiếm 15%. 
 Theo đánh giá của bộ lao động Mỹ, 
13 kỹ năng cần thiết để thành công đó là: 
- Kỹ năng lắng nghe 
- Kỹ năng học và tự học 
- Kỹ năng lãnh đạo bản thân 
- Kỹ năng thuyết trình 
- Kỹ năng giải quyết vấn đề 
- Kỹ năng quản lý bản thân và tinh 
thần tự tôn 
- Kỹ năng tư duy sáng tạo 
- Kỹ năng làm việc đồng đội 
- Kỹ năng tổ chức công việc hiệu quả 
- Kỹ năng đàm phán 
- Kỹ năng đặt mục tiêu/ tạo động 
lực làm việc 
- Kỹ năng phát triển cá nhân và 
sự nghiệp 
- Kỹ năng giao tiếp ứng xử và tạo 
lập quan hệ 
Ngày 29 tháng 11 năm 2013 tại Hà 
Nội Báo cáo Phát triển Việt Nam 2014 
với tựa đề Phát triển kỹ năng: “Xây 
dựng lực lượng lao động cho một nền 
kinh tế thị trường hiện đại ở Việt 
Nam” do Ngân hàng Thế giới (World 
Bank) công bố, nhấn mạnh rằng bản chất 
công việc trong một nền kinh tế thị 
trường hiện đại sẽ thay đổi và trở nên 
phức tạp hơn. Ngày nay, người sử dụng 
lao động Việt Nam đang tìm kiếm một 
tập hợp các kỹ năng nhận thức, hành vi 
và kỹ thuật chất lượng cao. “Tỷ lệ lao 
động Việt Nam có kỹ năng đọc, viết và 
tính toán cao hơn so với các nước khác, 
kể cả các nước giàu có hơn Việt Nam, 
nhưng một lực lượng lao động có kỹ 
năng cao mới sẽ là chìa khóa thành công 
trong chuyển đổi kinh tế”, bà Victoria 
Kwakwa, Giám đốc Quốc gia, Ngân 
hàng Thế giới chia sẻ. 
Với phần lớn lực lượng lao động 
có khả năng đọc và viết, thách thức hiện 
nay của Việt Nam là làm thế nào có thể 
biến sinh viên tốt nghiệp từ những người 
giỏi học theo sách trở thành những 
người có tư duy phản biện và biết cách 
giải quyết vấn đề, những người được 
trang bị đầy đủ để lĩnh hội các kỹ năng 
kỹ thuật từ các trường đại học, trường 
dạy nghề và trong suốt quãng đời làm 
việc của mình. Báo cáo đưa ra phân tích 
cho thấy tiến trình hiện đại hóa nền kinh 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 19 
tế sẽ dẫn tới sự dịch chuyển của cầu đối 
với lao động, chuyển từ các công việc 
chủ yếu là thủ công và đơn giản ngày 
nay sang các công việc phi thủ công và 
đòi hỏi nhiều kỹ năng hơn, chuyển từ 
các công việc chủ yếu là các thao tác, 
nhiệm vụ thường quy sang các nhiệm vụ 
không thường quy. Và những công việc 
mới đó luôn đòi hỏi những kỹ năng mới. 
Dựa trên một cuộc khảo sát dành 
cho người sử dụng lao động ở các đô thị, 
báo cáo chỉ ra rằng người sử dụng lao 
động xác định các kỹ năng kỹ thuật liên 
quan trực tiếp đến công việc là kỹ năng 
quan trọng nhất. Song, họ cũng tìm kiếm 
các kỹ năng nhận thức như kỹ năng giải 
quyết vấn đề và tư duy phản biện; và các 
kỹ năng hành vi như kỹ năng làm việc 
nhóm và kỹ năng giao tiếp. 
Theo ông Christian Bodewig, tác 
giả chính của báo cáo, việc định hướng 
lại hệ thống giáo dục để tập trung hơn 
vào các kỹ năng này sẽ giúp người lao 
động Việt Nam sẵn sàng cho tương lai vì 
những kỹ năng rất quan trọng đối với 
hầu hết các ngành. “Lỗ hổng lớn nhất 
trong hệ thống giáo dục Việt Nam là 
thiếu kết nối giữa doanh nghiệp và các 
cơ sở đào tạo”, ông Bodewig nhấn 
mạnh. Ông nói thêm rằng cần phải có 
giải pháp để doanh nghiệp có thể bày tỏ 
nhu cầu của mình cho hệ thống giáo dục 
cũng như các cơ sở dạy nghề. 
Theo ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch 
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt 
Nam (VCCI), có 30% trường đào tạo 
nghề của Việt Nam là trường tư nhưng 
90% lao động được đào tạo ở khu vực 
này tìm được việc làm. Song, những cơ 
sở đào tạo như vậy lại không được 
hưởng bất kỳ ưu đãi chính sách nào của 
Nhà nước. 
Báo cáo đề xuất một kế hoạch gồm 
ba bước để thực thi chiến lược tổng thể 
về kỹ năng cho Việt Nam bao gồm tăng 
cường khả năng sẵn sàng đi học thông 
qua phát triển giáo dục mầm non; xây 
dựng nền tảng nhận thức và hành vi 
trong giáo dục phổ thông; phát triển kỹ 
năng kỹ thuật phù hợp với công việc 
thông qua một hệ thống được kết nối tốt 
hơn giữa người sử dụng lao động với các 
trường đại học và các trường dạy nghề. 
Ông Bodewig nhấn mạnh việc chuẩn bị 
lực lượng lao động cho một nền kinh tế 
công nghiệp không phải chỉ là việc riêng 
của Chính phủ mà đòi hỏi sự thay đổi về 
hành vi của tất cả các tác nhân tham gia 
vào hoạt động phát triển kỹ năng như 
người sử dụng lao động, các trường đại 
học và cơ sở đào tạo, sinh viên cũng như 
phụ huynh học sinh. 
3. Nâng cao chất lượng đào tạo đáp 
ứng nhu cầu thị trường lao động trong 
thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa 
đất nước 
Theo đánh giá của World Bank 
(WB), lực lượng lao động của Việt Nam 
dồi dào nhưng ít kỹ năng. Việt Nam 
đang rất thiếu lao động có trình độ tay 
nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao và 
chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam 
cũng thấp hơn so với nhiều nước khác. 
Nếu lấy thang điểm 10 thì chất lượng 
nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm 
(xếp thứ 11/12 nước Châu Á tham gia 
xếp hạng của WB) trong khi Hàn Quốc là 
6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia là 5,59; 
Thái Lan là 4,94 Bà Victoria Kwakwa 
cũng cho biết, nguồn nhân lực Việt Nam 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 20 
rất đông nhưng lại thiếu kỹ năng giải 
quyết vấn đề, thiếu kỹ năng về mặt xã hội 
và hành vi, bên cạnh đó theo đánh giá của 
WB thì nhân lực của chúng ta còn yếu về 
giao tiếp. Những mặt thiếu này Việt Nam 
cần nhanh chóng bồi dưỡng, đào tạo để 
đáp ứng với thời đại công nghiệp hóa – 
hiện đại hóa đất nước. 
Trên cơ sở đánh giá nguồn nhân 
lực của Word Bank và báo cáo của của 
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội; 
tình hình thất nghiệp năm 2013 có hơn 
72.000 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp. 
Con số này gấp 1,7 lần so với cuối 
năm 2012, số liệu được đưa ra trong 
bản tin cập nhật thị trường lao động 
Việt Nam số đầu tiên do Bộ Lao động 
Thương và xã hội công bố sáng 21 
tháng 3 năm 2014. 
Đến cuối quý IV/2013 cả nước có 
900.000 người thất nghiệp, chiếm 1,9% 
lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng 
48.000 người so với cùng kỳ năm 2012. 
Báo cáo cũng nhấn mạnh tỷ lệ thất 
nghiệp rất cao ở những người có trình độ 
chuyên môn. Trong đó nhóm Cao đẳng 
và Cao đẳng Nghề đều tăng 1,3 lần. Đặc 
biệt tỷ lệ thất nghiệp ở lao động có trình 
độ đại học trở lên khá cao với 4,25% 
tăng 1,7 lần so với cùng kỳ 2012. 
Tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục tăng 
cao ở thanh niên. Trong đó thanh niên 
từ 20 đến 24 tuổi tốt nghiệp cao đẳng 
và đại học trở lên có tỷ lệ thất nghiệp 
rất cao với 20,75%. Đặc biệt, thất 
nghiệp dài hạn trên 12 tháng chiếm tỷ 
lệ cao với 44,2%, tăng 2,4 lần so với 
cùng kỳ 2012. Trong đó, tỷ lệ ở nhóm 
có trình độ chuyên môn cao là 54%, 
còn nhóm không có trình độ chỉ là 
40%. Về tình hình thiếu việc làm con 
số lại có xu hướng giảm so với cùng 
kỳ. Trong đó, lao động thiếu việc 
làm tập trung chủ yếu ở khu vực 
nông thôn. 
Theo VTC News, tại Hội nghị quán 
triệt Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI) 
và Tổng kết năm học 2012-2013 khối 
Giáo dục đại học, Bộ trưởng Phạm Vũ 
Luận đã có những chia sẻ được hàng 
trăm đại biểu đồng tình khi đã chỉ ra 
đúng thực trạng giáo dục Việt Nam hiện 
nay. Bộ trưởng phân tích như sau: 
- Chất lượng giáo dục còn thấp so 
với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, 
nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục 
nghề nghiệp. Chất lượng giáo dục có 
tiến bộ so với bản thân nó trước đây, 
nhưng so với yêu cầu của sự nghiệp 
công nghiệp hóa - hiện đại hóa, so với 
mong muốn của thầy và trò, của phụ 
huynh, của Đảng, Nhà nước và xã hội 
chưa đáp ứng. Giáo dục và đào tạo nước 
ta chưa đóng góp vào việc đưa nguồn 
nhân lực chất lượng cao trở thành thế 
mạnh thực sự của đất nước trong quá 
trình hội nhập và phát triển. 
- Chương trình giáo dục còn coi 
nhẹ thực hành, coi nhẹ vận dụng kiến 
thức, thiếu gắn kết giữa đào tạo với 
nghiên cứu khoa học, với thực tiễn sản 
xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị 
trường lao động. 
- Giáo dục nặng về lý thuyết, hàn 
lâm, không gắn với thực tiễn, không 
gắn với nghiên cứu khoa học và 
chuyển giao công nghệ. Điều này xảy 
ra ở cả giáo dục bậc phổ thông và cả ở 
đại học. 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 21 
Hình 1. Sinh viên thực hành đổ BT lót móng Hình 2. Sinh viên thực hành lắp dựng VK cột 
- Chưa chú trọng đúng mức việc 
giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng 
làm việc. Phương pháp giáo dục, kiểm 
tra, thi và đánh giá lạc hậu, nhiều bất 
cập. Chúng ta chưa chú ý đến việc giúp 
học sinh hình thành kỹ năng mềm, dạy 
quá nặng về lý thuyết. 
- Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản 
lý giáo dục còn nhiều bất cập về chất 
lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận 
chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát 
triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí 
vi phạm đạo đức nghề nghiệp 
- Qua tổng kết đánh giá thực trạng 
về giáo dục Việt Nam hiện nay, tham 
khảo kinh nghiệm quốc tế về quá trình 
phát triển khoa học giáo dục và tổ chức 
cách dạy, cách học của chúng ta hiện 
giống của các nước khác các đây 30 - 40 
năm trở về trước. Các môn học trong 
trường đại học mang tính hàm lâm, xa 
rời cuộc sống và không được sử dụng 
trong thực tế đời sống hàng ngày. Cách 
dạy và học trong nhà trường (cả phổ 
thông và đại học) về cơ bản là: Thầy 
truyền thụ và giảng giải kiến thức; Trò 
tiếp nhận kiến thức thầy trao cho. Cách 
dạy học như vậy cộng hưởng với cách 
thi, cách đánh giá học sinh sinh viên (ai 
nhớ nhiều, học thuộc nhiều, đưa đúng 
đáp số thì điểm cao, cả ở bậc phổ thông, 
cao đẳng, đại học cũng vậy) đã làm cho 
tình trạng quá tải, nhồi nhét, dạy thêm 
học thêm tràn lan có đất phát triển 
Để mở rộng hợp lý quy mô đào tạo 
đại học, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp 
công nghiệp hóa và hiện đại hóa; phù 
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất 
nước; thực hiện điều chỉnh cơ cấu hệ 
thống đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao 
chất lượng và hiệu quả đào tạo, thực 
hiện đào tạo theo nhu cầu xã hội; gắn 
công tác đào tạo với nghiên cứu khoa 
học và hoạt động thực tiễn. Bộ Giáo dục 
và Đào tạo Quy định điều kiện, hồ sơ, 
quy trình mở ngành đào tạo, đình chỉ 
tuyển sinh, thu hồi quyết định mở ngành 
đào tạo trình độ đại học, trình độ cao 
đẳng (Thông tư số 08/2011/TT-BGDĐT 
ngày 17 tháng 2 năm 2011). 
Ngày 25 tháng 1 năm 2014 Bộ 
GD&ĐT công bố kết quả rà soát ngành 
ĐH, CĐ trong trường đại học. Theo đó 
dừng tuyển sinh 207 ngành đào tạo trình 
độ đại học thuộc 71 cơ sở đào tạo và 296 
ngành trình độ cao đẳng thuộc 74 cơ sở 
đào tạo do không đáp ứng các điều kiện 
quy định. 
Bên cạnh đó theo Cục Khảo thí và 
Kiểm định Chất lượng Giáo dục - Dữ 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 22 
liệu cập nhật đến ngày 30 tháng 11 năm 
2013 đã có 445 trường đã hoàn thành tự 
đánh giá. Trong đó: trường Đại học, Học 
viện 169; trường Cao đẳng 180; trường 
Trung cấp chuyên nghiệp 97. 
Để triển khai Quyết định số 
37/2013/QĐ-TTg của Chính phủ về việc 
điều chỉnh “Quy hoạch mạng lưới Đại 
học và Cao đẳng giai đoạn 2006-2020”, 
từ ngày 24 tháng 3 năm 2014, Bộ 
GD&ĐT dừng tiếp nhận hồ sơ nâng cấp, 
thành lập mới các trường đại học, cao 
đẳng. Bộ GD&ĐT đề nghị các Bộ, cơ 
quan ngang bộ, UBND các tỉnh thành 
chủ động phối hợp với các Bộ, Ngành 
liên quan và chỉ đạo các đơn vị trực 
thuộc rà soát để điều chỉnh, sắp xếp và 
tổ chức lại mạng lưới các trường đại 
học, cao đẳng trên địa bàn thuộc quyền 
quản lý trên cơ sở Nghị quyết số 29-
NQ/TW (khóa XI) về đổi mới căn bản, 
toàn diện giáo dục và đào tạo; Quyết 
định số 37 về điều chỉnh quy hoạch 
mạng lưới các trường đại học, cao đẳng 
giai đoạn 2006-2020. Một trong những 
nội dung mục tiêu của nguồn quy hoạch 
này là đến năm 2020 đạt khoảng 256 
sinh viên/10.000 dân, khoảng 70% - 
80% sinh viên đại học được đào tạo theo 
các chương trình nghề nghiệp - ứng 
dụng và khoảng 30% - 20% sinh viên 
được đào tạo theo chương trình nghiên 
cứu. Cũng đến năm 2020 đạt bình quân 
từ 17 đến 26 sinh viên đại học và cao 
đẳng/1 giảng viên; số giảng viên có trình 
độ tiến sỹ trong tổng số giảng viên đại 
học khoảng 21% và số giảng viên có 
trình độ tiến sỹ trong tổng số giảng viên 
cao đẳng đạt khoảng 4%. Năm 2015 có 
10 trường đại học mà mỗi trường có ít 
nhất một khoa (ngành) hoặc lĩnh vực đào 
tạo đạt tiêu chí chất lượng tương đương 
so với các trường có uy tín trên thế giới; 
đến năm 2020 có 20 trường đại học đạt 
tiêu chí nêu trên và năm 2020 có 1 
trường đại học được xếp hạng trong số 
200 trường đại học hàng đầu thế giới. 
- Ngày 16 tháng 3 năm 2014, Đảng 
ủy Trường Đại học Xây dựng Miền 
Trung tổ chức học tập Nghị quyết Hội 
nghị Trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới 
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo 
cho toàn thể cán bộ, nhân viên, giáo viên 
và học sinh - sinh viên là Đảng viên 
trong nhà trường nhằm nâng cao nhận 
thức và tầm quan trọng trong hoạt động 
giảng dạy và học tập của học sinh, sinh 
viên. Thực hiện Nghị quyết của Ban 
Chấp hành Trung ương, Quyết định của 
Thủ tướng Chính phủ và chỉ thị của Bộ 
GD&ĐT về đổi mới giáo dục và đào tạo. 
Trong những năm qua lãnh đạo Nhà 
trường đã ý thức rằng để nâng cao chất 
lượng đào tạo phải dựa vào ba trụ cột 
chính đó là: Lực lượng giáo viên; cơ sở 
vật chất và người học. Về cơ sở vật chất 
tập trung cải tạo, xây dựng mới, mua 
sắm máy móc thiết bị, tài liệu, sách, giáo 
trình phục vụ học tập cho học sinh - sinh 
viên và nghiên cứu của giảng viên; về 
con người hàng năm cử nhiều giảng viên 
đi học cao học và nghiên cứu sinh trong 
nước cũng như ở nước ngoài; về chất 
lượng đầu vào (người học) nhà trường tổ 
chức thi ba chung do Bộ GD&ĐT quy 
định và xét tuyển theo điểm sàn thi đại 
học và cao đẳng. Nhà trường đã công 
khai công bố chuẩn đầu ra cho bậc học 
đại học, cao đẳng và đã hoàn thành tự 
đánh giá. Trong những năm qua Lãnh 
đạo nhà trường đã tạo điều kiện cho 
Đoàn thanh niên tham gia các hoạt 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 23 
động do Trung ương Đoàn tổ chức. 
Năm 2014 được chọn là năm Thanh 
niên tình nguyện, theo đề xuất của 
Trung ương Đoàn Thanh Niên Cộng 
Sản (TNCS) Hồ Chí Minh và được sự 
đồng ý của Ban Bí thư Trung Đảng. 
Phong trào thanh niên tình nguyện đã 
được Đảng ủy Nhà trường tạo điều 
kiện hơn 10 năm trở lại đây. Mục tiêu 
của thanh niên tình nguyện là phát huy 
vai trò xung kích, tình nguyện của 
thanh niên, tham gia phát triển kinh tế - 
xã hội, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm 
an sinh xã hội, xây dựng nông thôn 
mới, văn minh đô thị; tạo sự chuyển 
biến về chất lượng của tổ chức Đoàn 
TNCS Hồ Chí Minh, mở rộng đoàn kết, 
tạo môi trường để thanh niên rèn luyện 
phẩm chất, thấy rõ vinh dự và trách 
nhiệm của mình trong sự nghiệp xây 
dựng và bảo vệ tổ quốc. Đây cũng là 
hoạt động để thanh niên trải nghiệm, 
tạo kỹ năng thực hành xã hội, kỹ năng 
sống cho học sinh - sinh viên Đặc 
biệt Nhà trường đào tạo các ngành học 
như Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng, 
Xây dựng Cầu đường, Kiến trúc, Kinh 
tế Xây dựng, Kỹ thuật Hạ tầng Đô thị, 
ngành Cấp thoát nước và Trung tâm 
bồi dưỡng nghiệp vụ. Mỗi bậc đào tạo 
đều có chương trình khung, đề cương 
môn học, trong thời gian học lý thuyết 
ở trường người học được thực hành 
các môn học như: Thực hành môn 
Trắc địa, thí nghiệm kéo; nén vật liệu; 
các dạng bài tập lớn; vẽ AutoCAD; 
tính tiên lượng dự toán công trình; 
hạch toán kế toán máy; thực hành 
nghề nghiệp; thực tập tốt nghiệp cuối 
khóa. Nhằm gắn chương trình học tập 
gần với thực tế sản xuất thực hiện 
phương châm giáo dục của Đảng “học 
đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực 
tiễn”. Chính những con người này 
sau khi ra trường sẽ trở thành cán bộ 
quản lý, thiết kế, thi công công trình, 
giám sát công trình và họ sẽ đảm nhận 
công việc được ngay, tránh phải đào 
tạo lại như các ngành nghề khác. 
Tránh lãng phí về thời gian, tiền bạc 
và lòng tin của xã hội, cũng như phụ 
huynh người học. 
 Hình 3. SV tình nguyện XD nhà nhân ái Hình 4. Thầy Hiệu Trưởng tặng quà cho chủ nhân 
Tóm lại: Năng lực của người học 
bằng kiến thức cộng với kỹ năng và thái 
độ. Câu hỏi đặt ra là ai sẽ dạy kỹ năng 
cho người học? Chính là giảng viên, bộ 
môn và các khoa là người dạy, hướng 
dẫn kỹ năng cho người học bởi vì mỗi 
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 24 
môn học, bộ môn, khoa có những kỹ 
năng nghề nghiệp đặc thù khác nhau. 
Mỗi thầy, cô giáo phải thực hiện cuộc 
vận động của Công đoàn Giáo dục Việt 
Nam phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào 
tạo tổ chức phong trào thi đua yêu nước 
dạy tốt - học tốt và cuộc vận động 
“Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương 
đạo đức, tự học và sáng tạo”, vì sự 
phát triển của Nhà trường. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số 
29-NQ/TW) với nội dung đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT. 
[2] Quyết định 37/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh quy 
hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006-2020. 
[3] Tài liệu học tập của Tổ Chức Lao động Quốc tế (ILO) – Learning Element (ILO). 
[4] Cổng thông tin điện tử của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 
[5] Bách khoa toàn thư mở Wikipedia. 
[6] Trung tâm đào tạo kỹ năng mềm VietSkill. 
[7] Chỉ thị 7823/CT-BGDĐT, ngày 27/10/2009 thực hiện cuộc vân động “Mỗi thầy, 
cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” những tiêu chí thi đua của các 
trường đại học, cao đẳng và đơn vị thực hiện giáo dục đại học. 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
su_can_thiet_tang_cuong_ky_nang_o_cac_mon_hoc_nham_nang_cao.pdf