Xây dựng Cầu đường, Kiến trúc, Kinh
tế Xây dựng, Kỹ thuật Hạ tầng Đô thị,
ngành Cấp thoát nước và Trung tâm
bồi dưỡng nghiệp vụ. Mỗi bậc đào tạo
đều có chương trình khung, đề cương
môn học, trong thời gian học lý thuyết
ở trường người học được thực hành
các môn học như: Thực hành môn
Trắc địa, thí nghiệm kéo; nén vật liệu;
các dạng bài tập lớn; vẽ AutoCAD;
tính tiên lượng dự toán công trình;
hạch toán kế toán máy; thực hành
nghề nghiệp; thực tập tốt nghiệp cuối
khóa. Nhằm gắn chương trình học tập
gần với thực tế sản xuất thực hiện
phương châm giáo dục của Đảng “học
đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực
tiễn ”. Chính những con người này
sau khi ra trường sẽ trở thành cán bộ
quản lý, thiết kế, thi công công trình,
giám sát công trình và họ sẽ đảm nhận
công việc được ngay, tránh phải đào
tạo lại như các ngành nghề khác.
Tránh lãng phí về thời gian, tiền bạc
và lòng tin của xã hội, cũng như phụ
huynh người học.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 13/01/2022 | Lượt xem: 348 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự cần thiết tăng cường kỹ năng ở các môn học nhằm nâng cao chất lượng đào tạo - Đáp ứng nhu cầu thị trường lao động trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 17
SỰ CẦN THIẾT TĂNG CƯỜNG KỸ NĂNG Ở CÁC MÔN HỌC
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO - ĐÁP ỨNG NHU CẦU
THỊ TRƯỜNG LAO ĐỘNG TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA –
HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
KS. Lê Đức Gia
Phó Trưởng Khoa Đào tạo Nghề, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung
Tóm tắt: Gần đây chúng ta nghe nói rất nhiều về thuật ngữ “kỹ năng” như là
kỹ năng sống, kỹ năng mềm, kỹ năng chuyên môn, trung tâm huấn luyện kỹ
năng Các doanh nghiệp khi tuyển dụng cũng đòi hỏi ứng viên phải hội đủ các
kỹ năng cần thiết. Điều này khiến cho các sinh viên mới tốt nghiệp không khỏi
bối rối và lúng túng khi nộp hồ sơ, tham dự phỏng vấn, hiện nay ngay cả doanh
nghiệp, trung tâm đào tạo và giới chuyên môn cũng chưa có một cái nhìn đầy
đủ và thống nhất về kỹ năng. Còn nhiều người chưa hiểu rõ kỹ năng là gì?
Bằng cách nào để tạo ra kỹ năng? Và cần phải học kỹ năng ở đâu? Trong
khuôn khổ bài viết này chúng tôi “tác giả” muốn đưa ra vấn đề cùng nhau chia
sẻ về chủ đề “kỹ năng”. Với mục đích cùng nhau hiểu đúng về kỹ năng, học
đúng kỹ năng và để có thể sở hữu được kỹ năng nhằm ứng dụng nó trong công
việc và cuộc sống.
Từ khóa: Kỹ năng, môn học, chất lượng đào tạo, thị trường lao động.
1. Kỹ năng là gì
Có nhiều cách định nghĩa khác
nhau về kỹ năng. Những định nghĩa này
thường bắt nguồn từ góc nhìn chuyên
môn và quan niệm cá nhân của người
viết. Tuy nhiên hầu hết chúng ta đều
thừa nhận rằng kỹ năng được hình thành
khi chúng ta áp dụng kiến thức vào thực
tiễn. Kỹ năng học được do quá trình lặp
đi lặp lại một hoặc một nhóm hành động
nhất định nào đó. Kỹ năng luôn có chủ
đích và định hướng rõ ràng.
Vậy, kỹ năng là năng lực hay khả
năng của chủ thể thực hiện thuần thục
một hay một chuỗi hành động trên cơ sở
hiểu biết (kiến thức hoặc kinh nghiệm)
nhằm tạo ra kết quả mong đợi.
Cần phải phân biệt kỹ năng với
một số thứ có vẻ giống kỹ năng.
1.1. Sự khác nhau giữa kỹ năng và
phản xạ: Phản xạ là phản ứng của cơ thể
với môi trường, phản xạ mang tính thụ
động. Kỹ năng ngược lại là phản ứng
có ý thức và hoàn toàn mang tính chủ
động. Ví dụ: học lý thuyết bơi ở phòng
học lý thuyết khác với dạy kỹ năng bơi
ở hồ bơi.
1.2. Sự khác nhau giữa kỹ năng và
thói quen: Hầu hết các thói quen hình
thành một cách vô thức và khó kiểm
soát. Trong khi đó kỹ năng được hình
thành một cách có ý thức do quá trình
luyện tập mà có.
1.3. Thói quen rất khác với kiến
thức. Thậm chí có một số người còn
nhầm lẫn kiến thức là kỹ năng cứng.
Vậy đâu là khác biệt? Kiến thức là biết,
là hiểu nhưng chưa bao giờ làm, thậm
chí không bao giờ làm. Trong khi đó kỹ
năng lại là hành động thuần thục trên
nền tảng kiến thức. Vì không tác động
vào thực tế tại khách quan nên kiến thức
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 18
thường ít tạo ra những thành quả cụ thể
cho cuộc đời. Ta có thể thấy rất nhiều
những giáo viên suốt đời dạy về lý
thuyết kinh tế và không tham gia làm
kinh doanh nên cho dù họ có hiểu rõ về
nguyên lý của thị trường đến mấy nhưng
bản thân họ cũng không làm ra nhiều
tiền. Nhiều học giả cho rằng chỉ có kiến
thức suông thì chưa mạnh sử dụng kiến
thức mới là sức mạnh. Nói một cách
khác kỹ năng chính là sức mạnh.
2. Sự cần thiết của kỹ năng đối với
người lao động nói chung
Thế kỷ 21, được gọi là kỷ nguyên
của nền kinh tế “kỹ năng”. Điều đó được
thể hiện rõ qua yêu cầu ngày càng thay
đổi của xã hội. Năng lực của mỗi cá
nhân được đánh giá trên nhiều khía cạnh
khác nhau nhưng có ba khía cạnh chính
mà hiện nay chúng ta cần quan tâm đó
là: Kỹ năng, kiến thức và thái độ. Theo
đánh giá của một số tổ chức thì để trở
thành một người thành đạt trong cuộc
sống cần phải hội tụ ba yếu tố đó.
Nhưng bao nhiêu là đủ cho mỗi thứ lại là
một vấn đề. Theo đánh giá của nhiều
nhà khoa học thì kỹ năng mềm
(softskill) chiếm đến 80% trên tổng số
100%, trong khi đó, kỹ năng cứng (kiến
thức) chỉ chiếm 15%.
Theo đánh giá của bộ lao động Mỹ,
13 kỹ năng cần thiết để thành công đó là:
- Kỹ năng lắng nghe
- Kỹ năng học và tự học
- Kỹ năng lãnh đạo bản thân
- Kỹ năng thuyết trình
- Kỹ năng giải quyết vấn đề
- Kỹ năng quản lý bản thân và tinh
thần tự tôn
- Kỹ năng tư duy sáng tạo
- Kỹ năng làm việc đồng đội
- Kỹ năng tổ chức công việc hiệu quả
- Kỹ năng đàm phán
- Kỹ năng đặt mục tiêu/ tạo động
lực làm việc
- Kỹ năng phát triển cá nhân và
sự nghiệp
- Kỹ năng giao tiếp ứng xử và tạo
lập quan hệ
Ngày 29 tháng 11 năm 2013 tại Hà
Nội Báo cáo Phát triển Việt Nam 2014
với tựa đề Phát triển kỹ năng: “Xây
dựng lực lượng lao động cho một nền
kinh tế thị trường hiện đại ở Việt
Nam” do Ngân hàng Thế giới (World
Bank) công bố, nhấn mạnh rằng bản chất
công việc trong một nền kinh tế thị
trường hiện đại sẽ thay đổi và trở nên
phức tạp hơn. Ngày nay, người sử dụng
lao động Việt Nam đang tìm kiếm một
tập hợp các kỹ năng nhận thức, hành vi
và kỹ thuật chất lượng cao. “Tỷ lệ lao
động Việt Nam có kỹ năng đọc, viết và
tính toán cao hơn so với các nước khác,
kể cả các nước giàu có hơn Việt Nam,
nhưng một lực lượng lao động có kỹ
năng cao mới sẽ là chìa khóa thành công
trong chuyển đổi kinh tế”, bà Victoria
Kwakwa, Giám đốc Quốc gia, Ngân
hàng Thế giới chia sẻ.
Với phần lớn lực lượng lao động
có khả năng đọc và viết, thách thức hiện
nay của Việt Nam là làm thế nào có thể
biến sinh viên tốt nghiệp từ những người
giỏi học theo sách trở thành những
người có tư duy phản biện và biết cách
giải quyết vấn đề, những người được
trang bị đầy đủ để lĩnh hội các kỹ năng
kỹ thuật từ các trường đại học, trường
dạy nghề và trong suốt quãng đời làm
việc của mình. Báo cáo đưa ra phân tích
cho thấy tiến trình hiện đại hóa nền kinh
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 19
tế sẽ dẫn tới sự dịch chuyển của cầu đối
với lao động, chuyển từ các công việc
chủ yếu là thủ công và đơn giản ngày
nay sang các công việc phi thủ công và
đòi hỏi nhiều kỹ năng hơn, chuyển từ
các công việc chủ yếu là các thao tác,
nhiệm vụ thường quy sang các nhiệm vụ
không thường quy. Và những công việc
mới đó luôn đòi hỏi những kỹ năng mới.
Dựa trên một cuộc khảo sát dành
cho người sử dụng lao động ở các đô thị,
báo cáo chỉ ra rằng người sử dụng lao
động xác định các kỹ năng kỹ thuật liên
quan trực tiếp đến công việc là kỹ năng
quan trọng nhất. Song, họ cũng tìm kiếm
các kỹ năng nhận thức như kỹ năng giải
quyết vấn đề và tư duy phản biện; và các
kỹ năng hành vi như kỹ năng làm việc
nhóm và kỹ năng giao tiếp.
Theo ông Christian Bodewig, tác
giả chính của báo cáo, việc định hướng
lại hệ thống giáo dục để tập trung hơn
vào các kỹ năng này sẽ giúp người lao
động Việt Nam sẵn sàng cho tương lai vì
những kỹ năng rất quan trọng đối với
hầu hết các ngành. “Lỗ hổng lớn nhất
trong hệ thống giáo dục Việt Nam là
thiếu kết nối giữa doanh nghiệp và các
cơ sở đào tạo”, ông Bodewig nhấn
mạnh. Ông nói thêm rằng cần phải có
giải pháp để doanh nghiệp có thể bày tỏ
nhu cầu của mình cho hệ thống giáo dục
cũng như các cơ sở dạy nghề.
Theo ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt
Nam (VCCI), có 30% trường đào tạo
nghề của Việt Nam là trường tư nhưng
90% lao động được đào tạo ở khu vực
này tìm được việc làm. Song, những cơ
sở đào tạo như vậy lại không được
hưởng bất kỳ ưu đãi chính sách nào của
Nhà nước.
Báo cáo đề xuất một kế hoạch gồm
ba bước để thực thi chiến lược tổng thể
về kỹ năng cho Việt Nam bao gồm tăng
cường khả năng sẵn sàng đi học thông
qua phát triển giáo dục mầm non; xây
dựng nền tảng nhận thức và hành vi
trong giáo dục phổ thông; phát triển kỹ
năng kỹ thuật phù hợp với công việc
thông qua một hệ thống được kết nối tốt
hơn giữa người sử dụng lao động với các
trường đại học và các trường dạy nghề.
Ông Bodewig nhấn mạnh việc chuẩn bị
lực lượng lao động cho một nền kinh tế
công nghiệp không phải chỉ là việc riêng
của Chính phủ mà đòi hỏi sự thay đổi về
hành vi của tất cả các tác nhân tham gia
vào hoạt động phát triển kỹ năng như
người sử dụng lao động, các trường đại
học và cơ sở đào tạo, sinh viên cũng như
phụ huynh học sinh.
3. Nâng cao chất lượng đào tạo đáp
ứng nhu cầu thị trường lao động trong
thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa
đất nước
Theo đánh giá của World Bank
(WB), lực lượng lao động của Việt Nam
dồi dào nhưng ít kỹ năng. Việt Nam
đang rất thiếu lao động có trình độ tay
nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao và
chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam
cũng thấp hơn so với nhiều nước khác.
Nếu lấy thang điểm 10 thì chất lượng
nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm
(xếp thứ 11/12 nước Châu Á tham gia
xếp hạng của WB) trong khi Hàn Quốc là
6,91; Ấn Độ là 5,76; Malaysia là 5,59;
Thái Lan là 4,94 Bà Victoria Kwakwa
cũng cho biết, nguồn nhân lực Việt Nam
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 20
rất đông nhưng lại thiếu kỹ năng giải
quyết vấn đề, thiếu kỹ năng về mặt xã hội
và hành vi, bên cạnh đó theo đánh giá của
WB thì nhân lực của chúng ta còn yếu về
giao tiếp. Những mặt thiếu này Việt Nam
cần nhanh chóng bồi dưỡng, đào tạo để
đáp ứng với thời đại công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước.
Trên cơ sở đánh giá nguồn nhân
lực của Word Bank và báo cáo của của
Bộ Lao động Thương binh và Xã hội;
tình hình thất nghiệp năm 2013 có hơn
72.000 cử nhân, thạc sĩ thất nghiệp.
Con số này gấp 1,7 lần so với cuối
năm 2012, số liệu được đưa ra trong
bản tin cập nhật thị trường lao động
Việt Nam số đầu tiên do Bộ Lao động
Thương và xã hội công bố sáng 21
tháng 3 năm 2014.
Đến cuối quý IV/2013 cả nước có
900.000 người thất nghiệp, chiếm 1,9%
lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng
48.000 người so với cùng kỳ năm 2012.
Báo cáo cũng nhấn mạnh tỷ lệ thất
nghiệp rất cao ở những người có trình độ
chuyên môn. Trong đó nhóm Cao đẳng
và Cao đẳng Nghề đều tăng 1,3 lần. Đặc
biệt tỷ lệ thất nghiệp ở lao động có trình
độ đại học trở lên khá cao với 4,25%
tăng 1,7 lần so với cùng kỳ 2012.
Tỷ lệ thất nghiệp tiếp tục tăng
cao ở thanh niên. Trong đó thanh niên
từ 20 đến 24 tuổi tốt nghiệp cao đẳng
và đại học trở lên có tỷ lệ thất nghiệp
rất cao với 20,75%. Đặc biệt, thất
nghiệp dài hạn trên 12 tháng chiếm tỷ
lệ cao với 44,2%, tăng 2,4 lần so với
cùng kỳ 2012. Trong đó, tỷ lệ ở nhóm
có trình độ chuyên môn cao là 54%,
còn nhóm không có trình độ chỉ là
40%. Về tình hình thiếu việc làm con
số lại có xu hướng giảm so với cùng
kỳ. Trong đó, lao động thiếu việc
làm tập trung chủ yếu ở khu vực
nông thôn.
Theo VTC News, tại Hội nghị quán
triệt Nghị quyết Trung ương 8 (khóa XI)
và Tổng kết năm học 2012-2013 khối
Giáo dục đại học, Bộ trưởng Phạm Vũ
Luận đã có những chia sẻ được hàng
trăm đại biểu đồng tình khi đã chỉ ra
đúng thực trạng giáo dục Việt Nam hiện
nay. Bộ trưởng phân tích như sau:
- Chất lượng giáo dục còn thấp so
với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội,
nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục
nghề nghiệp. Chất lượng giáo dục có
tiến bộ so với bản thân nó trước đây,
nhưng so với yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa - hiện đại hóa, so với
mong muốn của thầy và trò, của phụ
huynh, của Đảng, Nhà nước và xã hội
chưa đáp ứng. Giáo dục và đào tạo nước
ta chưa đóng góp vào việc đưa nguồn
nhân lực chất lượng cao trở thành thế
mạnh thực sự của đất nước trong quá
trình hội nhập và phát triển.
- Chương trình giáo dục còn coi
nhẹ thực hành, coi nhẹ vận dụng kiến
thức, thiếu gắn kết giữa đào tạo với
nghiên cứu khoa học, với thực tiễn sản
xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị
trường lao động.
- Giáo dục nặng về lý thuyết, hàn
lâm, không gắn với thực tiễn, không
gắn với nghiên cứu khoa học và
chuyển giao công nghệ. Điều này xảy
ra ở cả giáo dục bậc phổ thông và cả ở
đại học.
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 21
Hình 1. Sinh viên thực hành đổ BT lót móng Hình 2. Sinh viên thực hành lắp dựng VK cột
- Chưa chú trọng đúng mức việc
giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng
làm việc. Phương pháp giáo dục, kiểm
tra, thi và đánh giá lạc hậu, nhiều bất
cập. Chúng ta chưa chú ý đến việc giúp
học sinh hình thành kỹ năng mềm, dạy
quá nặng về lý thuyết.
- Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản
lý giáo dục còn nhiều bất cập về chất
lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận
chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát
triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí
vi phạm đạo đức nghề nghiệp
- Qua tổng kết đánh giá thực trạng
về giáo dục Việt Nam hiện nay, tham
khảo kinh nghiệm quốc tế về quá trình
phát triển khoa học giáo dục và tổ chức
cách dạy, cách học của chúng ta hiện
giống của các nước khác các đây 30 - 40
năm trở về trước. Các môn học trong
trường đại học mang tính hàm lâm, xa
rời cuộc sống và không được sử dụng
trong thực tế đời sống hàng ngày. Cách
dạy và học trong nhà trường (cả phổ
thông và đại học) về cơ bản là: Thầy
truyền thụ và giảng giải kiến thức; Trò
tiếp nhận kiến thức thầy trao cho. Cách
dạy học như vậy cộng hưởng với cách
thi, cách đánh giá học sinh sinh viên (ai
nhớ nhiều, học thuộc nhiều, đưa đúng
đáp số thì điểm cao, cả ở bậc phổ thông,
cao đẳng, đại học cũng vậy) đã làm cho
tình trạng quá tải, nhồi nhét, dạy thêm
học thêm tràn lan có đất phát triển
Để mở rộng hợp lý quy mô đào tạo
đại học, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp
công nghiệp hóa và hiện đại hóa; phù
hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất
nước; thực hiện điều chỉnh cơ cấu hệ
thống đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao
chất lượng và hiệu quả đào tạo, thực
hiện đào tạo theo nhu cầu xã hội; gắn
công tác đào tạo với nghiên cứu khoa
học và hoạt động thực tiễn. Bộ Giáo dục
và Đào tạo Quy định điều kiện, hồ sơ,
quy trình mở ngành đào tạo, đình chỉ
tuyển sinh, thu hồi quyết định mở ngành
đào tạo trình độ đại học, trình độ cao
đẳng (Thông tư số 08/2011/TT-BGDĐT
ngày 17 tháng 2 năm 2011).
Ngày 25 tháng 1 năm 2014 Bộ
GD&ĐT công bố kết quả rà soát ngành
ĐH, CĐ trong trường đại học. Theo đó
dừng tuyển sinh 207 ngành đào tạo trình
độ đại học thuộc 71 cơ sở đào tạo và 296
ngành trình độ cao đẳng thuộc 74 cơ sở
đào tạo do không đáp ứng các điều kiện
quy định.
Bên cạnh đó theo Cục Khảo thí và
Kiểm định Chất lượng Giáo dục - Dữ
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 22
liệu cập nhật đến ngày 30 tháng 11 năm
2013 đã có 445 trường đã hoàn thành tự
đánh giá. Trong đó: trường Đại học, Học
viện 169; trường Cao đẳng 180; trường
Trung cấp chuyên nghiệp 97.
Để triển khai Quyết định số
37/2013/QĐ-TTg của Chính phủ về việc
điều chỉnh “Quy hoạch mạng lưới Đại
học và Cao đẳng giai đoạn 2006-2020”,
từ ngày 24 tháng 3 năm 2014, Bộ
GD&ĐT dừng tiếp nhận hồ sơ nâng cấp,
thành lập mới các trường đại học, cao
đẳng. Bộ GD&ĐT đề nghị các Bộ, cơ
quan ngang bộ, UBND các tỉnh thành
chủ động phối hợp với các Bộ, Ngành
liên quan và chỉ đạo các đơn vị trực
thuộc rà soát để điều chỉnh, sắp xếp và
tổ chức lại mạng lưới các trường đại
học, cao đẳng trên địa bàn thuộc quyền
quản lý trên cơ sở Nghị quyết số 29-
NQ/TW (khóa XI) về đổi mới căn bản,
toàn diện giáo dục và đào tạo; Quyết
định số 37 về điều chỉnh quy hoạch
mạng lưới các trường đại học, cao đẳng
giai đoạn 2006-2020. Một trong những
nội dung mục tiêu của nguồn quy hoạch
này là đến năm 2020 đạt khoảng 256
sinh viên/10.000 dân, khoảng 70% -
80% sinh viên đại học được đào tạo theo
các chương trình nghề nghiệp - ứng
dụng và khoảng 30% - 20% sinh viên
được đào tạo theo chương trình nghiên
cứu. Cũng đến năm 2020 đạt bình quân
từ 17 đến 26 sinh viên đại học và cao
đẳng/1 giảng viên; số giảng viên có trình
độ tiến sỹ trong tổng số giảng viên đại
học khoảng 21% và số giảng viên có
trình độ tiến sỹ trong tổng số giảng viên
cao đẳng đạt khoảng 4%. Năm 2015 có
10 trường đại học mà mỗi trường có ít
nhất một khoa (ngành) hoặc lĩnh vực đào
tạo đạt tiêu chí chất lượng tương đương
so với các trường có uy tín trên thế giới;
đến năm 2020 có 20 trường đại học đạt
tiêu chí nêu trên và năm 2020 có 1
trường đại học được xếp hạng trong số
200 trường đại học hàng đầu thế giới.
- Ngày 16 tháng 3 năm 2014, Đảng
ủy Trường Đại học Xây dựng Miền
Trung tổ chức học tập Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 8 (khóa XI) về đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo
cho toàn thể cán bộ, nhân viên, giáo viên
và học sinh - sinh viên là Đảng viên
trong nhà trường nhằm nâng cao nhận
thức và tầm quan trọng trong hoạt động
giảng dạy và học tập của học sinh, sinh
viên. Thực hiện Nghị quyết của Ban
Chấp hành Trung ương, Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ và chỉ thị của Bộ
GD&ĐT về đổi mới giáo dục và đào tạo.
Trong những năm qua lãnh đạo Nhà
trường đã ý thức rằng để nâng cao chất
lượng đào tạo phải dựa vào ba trụ cột
chính đó là: Lực lượng giáo viên; cơ sở
vật chất và người học. Về cơ sở vật chất
tập trung cải tạo, xây dựng mới, mua
sắm máy móc thiết bị, tài liệu, sách, giáo
trình phục vụ học tập cho học sinh - sinh
viên và nghiên cứu của giảng viên; về
con người hàng năm cử nhiều giảng viên
đi học cao học và nghiên cứu sinh trong
nước cũng như ở nước ngoài; về chất
lượng đầu vào (người học) nhà trường tổ
chức thi ba chung do Bộ GD&ĐT quy
định và xét tuyển theo điểm sàn thi đại
học và cao đẳng. Nhà trường đã công
khai công bố chuẩn đầu ra cho bậc học
đại học, cao đẳng và đã hoàn thành tự
đánh giá. Trong những năm qua Lãnh
đạo nhà trường đã tạo điều kiện cho
Đoàn thanh niên tham gia các hoạt
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 23
động do Trung ương Đoàn tổ chức.
Năm 2014 được chọn là năm Thanh
niên tình nguyện, theo đề xuất của
Trung ương Đoàn Thanh Niên Cộng
Sản (TNCS) Hồ Chí Minh và được sự
đồng ý của Ban Bí thư Trung Đảng.
Phong trào thanh niên tình nguyện đã
được Đảng ủy Nhà trường tạo điều
kiện hơn 10 năm trở lại đây. Mục tiêu
của thanh niên tình nguyện là phát huy
vai trò xung kích, tình nguyện của
thanh niên, tham gia phát triển kinh tế -
xã hội, xóa đói giảm nghèo, bảo đảm
an sinh xã hội, xây dựng nông thôn
mới, văn minh đô thị; tạo sự chuyển
biến về chất lượng của tổ chức Đoàn
TNCS Hồ Chí Minh, mở rộng đoàn kết,
tạo môi trường để thanh niên rèn luyện
phẩm chất, thấy rõ vinh dự và trách
nhiệm của mình trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc. Đây cũng là
hoạt động để thanh niên trải nghiệm,
tạo kỹ năng thực hành xã hội, kỹ năng
sống cho học sinh - sinh viên Đặc
biệt Nhà trường đào tạo các ngành học
như Công nghệ Kỹ thuật Xây dựng,
Xây dựng Cầu đường, Kiến trúc, Kinh
tế Xây dựng, Kỹ thuật Hạ tầng Đô thị,
ngành Cấp thoát nước và Trung tâm
bồi dưỡng nghiệp vụ. Mỗi bậc đào tạo
đều có chương trình khung, đề cương
môn học, trong thời gian học lý thuyết
ở trường người học được thực hành
các môn học như: Thực hành môn
Trắc địa, thí nghiệm kéo; nén vật liệu;
các dạng bài tập lớn; vẽ AutoCAD;
tính tiên lượng dự toán công trình;
hạch toán kế toán máy; thực hành
nghề nghiệp; thực tập tốt nghiệp cuối
khóa. Nhằm gắn chương trình học tập
gần với thực tế sản xuất thực hiện
phương châm giáo dục của Đảng “học
đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực
tiễn”. Chính những con người này
sau khi ra trường sẽ trở thành cán bộ
quản lý, thiết kế, thi công công trình,
giám sát công trình và họ sẽ đảm nhận
công việc được ngay, tránh phải đào
tạo lại như các ngành nghề khác.
Tránh lãng phí về thời gian, tiền bạc
và lòng tin của xã hội, cũng như phụ
huynh người học.
Hình 3. SV tình nguyện XD nhà nhân ái Hình 4. Thầy Hiệu Trưởng tặng quà cho chủ nhân
Tóm lại: Năng lực của người học
bằng kiến thức cộng với kỹ năng và thái
độ. Câu hỏi đặt ra là ai sẽ dạy kỹ năng
cho người học? Chính là giảng viên, bộ
môn và các khoa là người dạy, hướng
dẫn kỹ năng cho người học bởi vì mỗi
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2014 24
môn học, bộ môn, khoa có những kỹ
năng nghề nghiệp đặc thù khác nhau.
Mỗi thầy, cô giáo phải thực hiện cuộc
vận động của Công đoàn Giáo dục Việt
Nam phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào
tạo tổ chức phong trào thi đua yêu nước
dạy tốt - học tốt và cuộc vận động
“Mỗi thầy, cô giáo là một tấm gương
đạo đức, tự học và sáng tạo”, vì sự
phát triển của Nhà trường.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI (Nghị quyết số
29-NQ/TW) với nội dung đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT.
[2] Quyết định 37/2013/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc điều chỉnh quy
hoạch mạng lưới các trường đại học, cao đẳng giai đoạn 2006-2020.
[3] Tài liệu học tập của Tổ Chức Lao động Quốc tế (ILO) – Learning Element (ILO).
[4] Cổng thông tin điện tử của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
[5] Bách khoa toàn thư mở Wikipedia.
[6] Trung tâm đào tạo kỹ năng mềm VietSkill.
[7] Chỉ thị 7823/CT-BGDĐT, ngày 27/10/2009 thực hiện cuộc vân động “Mỗi thầy,
cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” những tiêu chí thi đua của các
trường đại học, cao đẳng và đơn vị thực hiện giáo dục đại học.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_can_thiet_tang_cuong_ky_nang_o_cac_mon_hoc_nham_nang_cao.pdf