Tương tự như vậy, các quyết định
của tòa án quốc tế đã đưa ra lời giải thích
có căn cứ xác đáng làm hoàn tất sự hình
thành luật tập quán bằng cách xác nhận sự
tồn tại quy tắc mới của luật tập quán. Ví dụ,
trong vụ North Sea Continental Shelf, ICJ đã
xác nhận vị thế luật tập quán của Tuyên bố
Truman. Ngược lại, tuyên bố của Tòa trong
vụ Wall và Congo đã ngăn cản sự phát triển
“kết tinh” luật tập quán về tự vệ chống lại
các nhóm khủng bố mà hành vi của chúng
không thể quy cho quốc gia mà chúng hiện
diện. Như vậy, giống như nghị quyết của Đại
hội đồng UN, quyết định của tòa án quốc tế
có ý nghĩa tăng cường, làm cho quá trình
hình thành quy tắc luật tập quán quốc tế diễn
ra nhanh hơn.
Việc thừa nhận sự hình thành nhanh
luật tập quán quốc tế có một số ý nghĩa thực
tế sau đây:
- Nó có thể giải thích sự hình thành
nhanh chóng của các quy tắc tập quán ở thời
điểm bối cảnh có sự thay đổi mạnh mẽ, qua
đó làm cho quy tắc sớm phổ biến và được
thừa nhận là luật;
- Việc thừa nhận này cũng có thể giúp
học giả tư vấn cho các chính phủ khi muốn
tìm kiếm giải pháp bằng một nghị quyết Đại
hội đồng UN như là một phương tiện để tạo
thuận lợi cho việc hình thành nhanh luật tập
quán quốc tế;
11 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 20/01/2022 | Lượt xem: 211 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự hình thành luật tập quán quốc tế trước bối cảnh thay đổi cơ bản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
SỰ HÌNH THÀNH LUẬT TẬP QUÁN QUỐC TẾ
TRƯỚC BỐI CẢNH THAY ĐỔI CƠ BẢN1
1 Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ Đề tài của Trường Đại học Luật Hà Nội,“Những vấn đề mới về nguồn của luật
quốc tế” (2017).
Tóm tắt:
Luật tập quán quốc tế bao gồm hai yếu tố cấu thành là thực tiễn
chung giữa các quốc gia và sự thừa nhận quy tắc xử sự là luật
(opinio juris). Trong một số trường hợp, bối cảnh thay đổi cơ bản
có thể thúc đẩy nhanh sự hình thành luật tập quán quốc tế. Trong
những trường hợp đó, nghị quyết Đại hội đồng Liên hiệp quốc
(UN) và phán quyết của các cơ quan tài phán quốc tế thường đóng
vai trò quan trọng.
Lê Thị Anh Đào*
* TS. Giảng viên Khoa Pháp luật quốc tế - Trường Đại học Luật Hà Nội.
Abstract
The customary international law consists of two constituent
elements as the common practice among nations and the recognition
of the rule of law as opinio juris. In some cases, the context of
fundamental change can accelerate the formation of the customary
international law. In those cases, the General Assembly Resolutions
of the United Nations and the rulings of the international judges
often play an important role.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: luật tập quán quốc tế; thực
tiễn quốc gia; hình thành tập quán
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 13/07/2018
Biên tập : 23/07/2018
Duyệt bài : 30/07/2018
Article Infomation:
Keywords: customary international
law; national practices; formation of
the customary practice
Article History:
Received : 13 Jul. 2018
Edited : 23 Jul. 2018
Approved : 30 Jul. 2018
Về mặt lịch sử, sự hình thành các quy tắc mới của luật tập quán quốc tế được xem như là một quá trình kéo
dài hàng thập kỷ, thậm chí hàng thế kỷ. Khi
mới bắt đầu công việc của mình, Ủy ban
Luật quốc tế (ILC) cũng đã yêu cầu rằng, để
một quy tắc của luật tập quán xuất hiện thì
thực tiễn quốc gia phải diễn ra “trong một
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
10 Số 15(367) T8/2018
khoảng thời gian dài đáng kể”2. Chính vì
vậy, thuật ngữ “kết tinh” thường được Tòa
án Công lý quốc tế của UN (ICJ) và các học
giả sử dụng để ám chỉ việc hình thành các
quy tắc luật tập quán quốc tế trên cơ sở sự
phát triển chậm của các yếu tố cấu thành
luật tập quán. Tuy nhiên, trong vụ North
Sea Continental Shelf, ICJ lại có quan điểm
rằng, đôi khi luật tập quán quốc tế có thể
hình thành nhanh hơn nhiều3. Quan điểm
của ICJ đã đặt ra các vấn đề cần phải được
nghiên cứu và biện giải: Liệu luật tập quán
quốc tế có thể nhanh chóng hình thành? Nếu
câu trả lời là “có thể”, thì khi nào và với điều
kiện nào?
Bài viết này trước tiên đánh giá cuộc
tranh luận học thuật và phán quyết của cơ
quan tài phán quốc tế liên quan đến bản chất
và sự hình thành của luật tập quán quốc tế
chung. Sau đó, bài viết tìm hiểu thực tiễn và
kết luận rằng, bối cảnh thay đổi cơ bản có vai
trò như một tác nhân làm tăng tốc, cho phép
luật tập quán quốc tế hình thành nhanh hơn
và với ít thực tiễn quốc gia hơn so với tốc
độ bình thường mà người ta cho là cần phải
có để hình thành luật tập quán. Trong những
trường hợp đó, nghị quyết Đại hội đồng UN
và phán quyết của các cơ quan tài phán quốc
tế thường đóng vai trò quan trọng trong việc
“kết tinh” quy tắc đang hình thành.
2 Manley O. Hudson, Special Rapporteur on Article 24 of the Statute of the International Law Committee, Ways and
Means for Making the Evidence of Customary International Law More Readily, xem tại: Year Book International Law
Committee, U.N. Doc. A/CN.4/16 (Mar. 3, 1950).
3 North Sea Continental Shelf (Federal Republic of Germany/Denmark; Federal Republic of Germany/Netherland.),
Merits, 1969 I.C.J. 3, at 71, 73– 74.
4 S.S. Lotus (France. v. Turkey), Merits, 1927 P.C.I.J. (ser. A) No. 10, at 18 (Sept. 7); North Sea Continental Shelf, 1969,
id. at 77.
5 International Law Association, London Conference: Committee on Formation of custommay (general) international
law25 (2000), p.13-14. committees/index.cfm/cid/30.
6 S.S. Lotus, 1927 P.C.I.J. at 23, 26–30; Nottebohm Case (Liechtenstein. v. Guatemala), 1955 I.C.J. 4, at 21–23 (Apr.
6); Fisheries Jurisdiction (United Kingdom of Great Britain and Northern Ireland v. Iceland), Merits, 1974 I.C.J 3, at
24–26, at 55–58 (July 25); Military and Paramilitary Activities in and Against Nicaragua (Nicaragua. v. United State),
Merits, 1986 I.C.J. 14, at 97–109, at 183–207 (June 27); Legality of the Threat or Use of Nuclear Weapons, Advisory
Opinion, 1996 I.C.J. 226, at 259–61, at 86, 88 (July 8); Gabcikovo-Nagymaros Project (Hungary/Slovakia), 1997 I.C.J.
7, at 49–54, 83, 85 (Sept. 25).
1. Quan điểm truyền thống về sự hình
thành luật tập quán quốc tế
Điều 38 Quy chế của ICJ phản ánh
quan điểm truyền thống về luật tập quán quốc
tế bao gồm hai yếu tố cấu thành: (i) thực tiễn
chung giữa các quốc gia (được gọi là “yếu
tố vật chất”) và (ii) opinio juris (sự thừa
nhận là luật, được gọi là “yếu tố tinh thần”).
Các phán quyết của Pháp viện thường trực
quốc tế (PCIJ) và ICJ đều thống nhất rằng,
sự hình thành luật tập quán quốc tế đòi hỏi
sự hiện diện của cả hai yếu tố trên4. Khi hai
yếu tố đó xuất hiện, một quy tắc của luật tập
quán quốc tế sẽ được coi là ràng buộc tất cả
các quốc gia, ngoại trừ những quốc gia liên
tục phản đối.
1.1 Yếu tố vật chất
Thực tiễn quốc gia là yếu tố vật chất
cấu thành nên luật tập quán quốc tế. Thực
tiễn quốc gia bao gồm hành động (kể cả
tuyên bố, phát biểu của quốc gia) và không
hành động (kể cả sự im lặng)5. Án lệ của cơ
quan tài phán quốc tế có rất nhiều ví dụ về
hành động bằng tuyên bố được coi là thực
tiễn quốc gia6. Ví dụ, phản đối ngoại giao
(hoặc không phản đối ngoại giao) thường
được xem là cơ sở quan trọng để xác định
liệu một quy tắc của luật tập quán đã được
hình thành hoặc bị thay thế. Như vậy, để
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
11Số 15(367) T8/2018
đánh giá hành vi có liên quan của các quốc
gia, chúng ta phải xem xét lời nói cũng như
hành động và không hành động của quốc
gia. Hiệp hội Luật quốc tế (ILA) cho rằng,
cùng một hành vi có thể biểu hiện cả yếu tố
vật chất và yếu tố tinh thần của luật tập quán
quốc tế7.
Thực tiễn quốc gia cũng bao gồm việc
không hành động hoặc im lặng. Ví dụ, trong
vụ Nottebohm (giai đoạn thứ hai), ICJ đưa ra
phán quyết của mình dựa trên thực tế là một
số quốc gia “không thực hiện bảo vệ lợi ích
của một người đã nhập quốc tịch của quốc
gia bởi vì sau khi nhập quốc tịch, trên thực tế
người này đã vắng mặt kéo dài và không có
các mối liên hệ với đất nước danh nghĩa
của người đó”8.
Để hình thành quy tắc của luật tập quán
quốc tế, thực tiễn quốc gia phải lặp đi lặp lại
trong khoảng thời gian nhất định, đủ để nó
trở nên nhất quán và phổ biến rộng rãi9. Mặc
dù ICJ đã nói về “việc sử dụng liên tục và
thống nhất” như tiêu chuẩn để xác định một
quy tắc của luật tập quán10 nhưng Tòa cũng
nêu rõ rằng sự hoàn toàn nhất quán là không
bắt buộc. Trong vụ Fisheries Jurisdiction,
Toà nhấn mạnh rằng: “một số ít sự không
chắc chắn hoặc mâu thuẫn trong thực tiễn
quốc gia thì không quá quan trọng”11. Tòa
xác định rằng, mặc dù các tuyên bố yêu sách
vùng đặc quyền kinh tế là không đồng nhất
nhưng chúng đã đủ tương tự để Tòa phán
quyết trong vụ Continental Shelf (Tunisia/
7 International Law Association, id, p.7.
8 Nottebohm Case, 1955, id. at 22.
9 Fisheries (U.K. v. Nor., 1951 I.C.J. Rep. 116 (18 Dec.); North Sea Continental Shelf Case, 1969, id. at 43;
10 Asylum Case (Colombia v. Peru), 1950 I.C.J. 266, at 276 (Nov. 20).
11 Fisheries Jurisdiction, 1951, id, at 138.
12 Continental Shelf (Tunis/Libya), 1982 I.C.J. 18, at 74, at 100 (Feb. 24); Continental Shelf (Libya/Malta), 1985 I.C.J.
13, at 33, at 34 (June 3).
13 Nicaragua Case, 1986, id. at 98, at 186.
14 North Sea Continental Shelf, 1969, id. at 43, at 74.
15 Continental Shelf, 1985, id. at 13.
Libya; Libya/Malta) rằng vùng đặc quyền
kinh tế đã trở thành một phần của luật tập
quán quốc tế12. Trong vụ Nicaragua năm
1986, “Tòa không cho rằng để một quy tắc
trở thành luật tập quán, thực tiễn quốc gia
phải là sự tuân thủ hoàn toàn chặt chẽ với
quy tắc. Để suy luận sự tồn tại của các quy
tắc tập quán thì nhìn chung, hành vi của các
quốc gia phải phù hợp với những quy tắc
như vậy”13.
ICJ cũng đã nói về yêu cầu thực tiễn
“rộng rãi”, đồng thời chỉ ra rằng, thực tiễn
quan trọng nhất là “các quốc gia có lợi ích
đặc biệt bị ảnh hưởng”14. Điều này có nghĩa
là, sự tồn tại của một quy tắc luật tập quán
quốc tế không chỉ đơn thuần là số lượng thực
tiễn quốc gia, trái lại có một khía cạnh định
tính quan trọng đối với thực tiễn đó. Nói
cách khác, luật tập quán quốc tế có thể hình
thành từ thực tiễn có tính đại diện, miễn là
bao gồm thực tiễn các quốc gia mà lợi ích
của họ đặc biệt bị ảnh hưởng. Ví dụ, trong vụ
Continental Shelf (Libya/Malta), Toà đã xác
định rằng: sau khi một số đáng kể các cường
quốc hàng hải tuyên bố yêu sách vùng đặc
quyền kinh tế, “vùng đặc quyền kinh tế đã
chín muồi thành một quy tắc luật tập quán
quốc tế, mặc dù thực tế là đa số các quốc gia
ven biển đủ điều kiện vẫn chưa tuyên bố một
vùng đặc quyền kinh tế”15. Tương tự, trong
vụ Frontier Dispute (Burkina Faso/Mali),
Toà cho rằng, Uti possidetis là một quy tắc
của luật tập quán quốc tế chung, mặc dù vào
thời điểm đó nguyên tắc chỉ được ủng hộ
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
12 Số 15(367) T8/2018
trong thực tiễn của các quốc gia là thuộc địa
của Tây Ban Nha ở Mỹ La tinh và châu Phi16.
Phản ánh bản chất tự nguyện của luật
quốc tế, nếu một quốc gia bày tỏ sự phản
đối của mình đối với một thực tiễn trước khi
nó phát triển thành một quy tắc của luật tập
quán quốc tế thì quốc gia đó không chịu sự
ràng buộc với quy tắc mới hình thành. ICJ
công nhận quy tắc liên tục phản đối trong
Asylum Case khi Tòa tuyên bố, “thậm chí,
ngay cả khi có thể giả định rằng một tập
quán như vậy đã tồn tại chỉ giữa các quốc
gia Mỹ La tinh thì cũng không thể được
viện dẫn nó để chống lại Peru - quốc gia đã
không bày tỏ thái độ chấp nhận quy tắc mà
ngược lại, Peru đã bác bỏ nó”17. Toà cũng đã
áp dụng quy tắc liên tục phản đối trong vụ
Fisheries Jurisdiction để bác bỏ lập luận của
Vương quốc Anh rằng luật tập quán quốc tế
đã giới hạn chiều dài đường đóng ở các cửa
vịnh là mười dặm. Tòa tuyên bố, “trong bất
kỳ trường hợp nào, quy tắc mười dặm có vẻ
như là không thích hợp với Nauy vì Nauy
luôn phản đối bất kỳ nỗ lực nào áp dụng nó
với bờ biển Nauy”18.
Tuy nhiên, nếu một quốc gia không
đưa ra phản đối vào thời điểm quy tắc chung
đang hình thành thì quốc gia đó vẫn có thể
bị ràng buộc với quy tắc, dù có những biểu
thị phản đối sau này19. Ngoài ra, quy tắc
phản đối liên tục không áp dụng cho các
quy phạm mệnh lệnh bắt buộc chung (jus
cogens). Như vậy, quy tắc phản đối liên tục
vừa đảm bảo sự phát triển của luật tập quán
quốc tế vừa đảm bảo tính thống nhất của luật
quốc tế chung.
16 Frontier Dispute (Burkina Faso/Mali), 1986 I.C.J. 554, at 564–65, at 19–20.
17 Asylum Case, 1950, id. at 276.
18 Fisheries Jurisdiction, 1951, id. at 116, at 131.
19 ILA, London Conference: Committee on the formation of customary (general) international law, id, at 27.
20 S.S. Lotus, 1927 P.C.I.J. at 28.
1.2 Yếu tố tinh thần
Mục đích của việc xác định yếu tố tinh
thần (opinio juris) là để phân biệt các hành
vi mà có thể dẫn đến nảy sinh các quy tắc
của luật tập quán quốc tế với các hành vi
mà không có khả năng như vậy. Yếu tố tinh
thần là cần thiết để hình thành luật tập quán
quốc tế, bởi vì thực tiễn quốc gia thường có
khả năng được giải thích theo nhiều cách
khác nhau. Việc xác định yếu tố tinh thần
là đặc biệt quan trọng trong trường hợp các
hành động (hoặc không hành động) của
quốc gia không thể hiện rõ ràng ý định chủ
quan của quốc gia. Chẳng hạn, trong vụ S.S.
Lotus, Pháp lập luận rằng “trong trường hợp
đâm va trên biển quốc tế, không có vụ truy
tố nào được thực hiện bởi quốc gia khác
với quốc gia mà tàu mang cờ Đó chính
là bằng chứng cho thấy luật pháp quốc tế
không công nhận “quyền tài phán do bị ảnh
hưởng”20. PCIJ không đồng ý với lập luận
này, bởi vì không có bằng chứng về một “ý
thức có nghĩa vụ không thực hiện” việc truy
tố thủy thủ của các tàu đăng ký nước ngoài
vì đã gây ra những thiệt hại đối với tàu đăng
ký quốc tịch của quốc gia. Việc không có
các vụ truy tố như vậy có thể là do thiếu
quan tâm hoặc thiếu cơ quan luật pháp trong
nước chứ không phải do có một niềm tin
rằng việc truy tố như vậy là vi phạm luật tập
quán quốc tế.
Về mối quan hệ giữa yếu tố vật chất
và yếu tố tinh thần, Giáo sư luật Frederic
Kirgis gợi ý rằng, có một mối quan hệ “tỷ
lệ nghịch” giữa số lượng thực tiễn và bằng
chứng về sự thừa nhận một quy tắc xử sự
luật tập quán quốc tế. Số lượng thực tiễn phù
hợp càng lớn thì sự cần thiết về bằng chứng
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
13Số 15(367) T8/2018
của yếu tố tinh thần càng ít hơn21. Quan
điểm này còn có điểm chưa hợp lý bởi vì nó
có xu hướng nhấn mạnh quá mức một yếu tố
cấu thành luật tập quán và có khả năng biện
minh cho quan điểm luật tập quán quốc tế
được hình thành ngay lập tức và chỉ dựa trên
các nghị quyết của Đại hội đồng UN được
nhất trí thông qua.
2. Cách tiếp cận mới về sự hình thành luật
tập quán quốc tế
2.1 Một số thực tiễn về sự hình thành
nhanh luật tập quán quốc tế
* Hiến chương và phán quyết của Tòa
Nuremberg
Đối với luật quốc gia và điều ước quốc
tế, dựa trên trình tự thủ tục ban hành hoặc
ký kết mà người ta có thể xác định được
chính xác thời điểm văn bản đó có hiệu lực
pháp lý. Như đã thảo luận ở trên, không có
công thức thống nhất để xác định chính xác
cần có bao nhiêu quốc gia và bao nhiêu thời
gian để hình thành một quy tắc của luật tập
quán quốc tế. Tuy nhiên, đôi khi cơ quan tài
phán cần xác định dứt khoát hơn khi nào
một quy tắc đang hình thành đã đủ “chín” để
trở thành luật tập quán quốc tế. Sự xác định
của Tòa án Cam-pu-chia (ECCC)22 về vấn
đề liệu vào thời điểm năm 1975, trách nhiệm
hình sự kép đã tồn tại như một quy tắc của
luật tập quán quốc tế hay chưa là một ví dụ
minh họa.
Sau Chiến tranh thế giới lần II, các
nước đồng minh quyết định thành lập Tòa
án Nuremberg để xét xử 185 tên phát xít
Đức với tổng cộng 13 phiên tòa. Trước vụ
21 Frederic. L. Kirgis, Jr., Custom on a Sliding Scale, 81 American Journal International Law. 146, 149 (1987)
22 ECCC là tòa án đặc biệt tại Campuchia, được Liên hiệp quốc bảo trợ, thành lập từ năm 2006 với mục đích tìm lại công
lý cho các nạn nhân dưới chế độ Khmer Đỏ (1975 - 1979) tại Campuchia.
23 Decision on the Appeals Against the Co-Investigative Judges’ Order on Joint Criminal Enterprise (JCE), Ieng et al.
(002/10-09-2007- ECCC/TC), Trial Chamber, 17 June, 2011.
24 General Assembly Resolution 95(I), U.N. GAOR, 1st Sess., U.N. Doc A/236, pt. 2, at 1144, (Dec. 11, 1946), tại http://
www.un.org/en/ga/search/view_doc.asp?symbol=A/RES/95(I)&Lang= E&Area=RESOLUTION
xét xử của Tòa Nuremberg, những gì mà
một quốc gia làm với chính công dân của
mình trong phạm vi biên giới quốc gia là
công việc riêng của quốc gia. Phán quyết
của Tòa Nuremberg đã thay đổi một cách cơ
bản quan niệm đó. Luật pháp quốc tế bảo
vệ các cá nhân công dân trước sự lạm dụng
quyền lực của các chính phủ và áp đặt trách
nhiệm cá nhân lên các quan chức chính phủ
- những người phạm tội ác chiến tranh, diệt
chủng và tội ác chống lại nhân loại.
Theo nguyên tắc pháp luật quốc tế
về cấm hồi tố, Toà án Cam-pu-chia chỉ có
thể áp dụng luật nội dung và các hình thức
trách nhiệm pháp lý mà đã tồn tại như một
phần của tập quán luật quốc tế vào thời
điểm năm 1975 trở về trước. Luật sư của các
bị cáo Khmer Đỏ cho rằng, thực tiễn Tòa
Nuremberg và các tòa sau đó chưa đủ để tạo
thành thực tiễn quốc gia rộng rãi và chưa có
“yếu tố tinh thần” cần thiết để trách nhiệm
hình sự kép trở thành một quy tắc của luật
tập quán quốc tế vào thời điểm năm 1975.
Tuy nhiên, bất kể không có nhiều thực
tiễn quốc gia, Tòa án Cam-pu-chia đã thấy
rằng, trách nhiệm hình sự kép có thể áp dụng
với các vụ xét xử dựa trên tiền lệ của Tòa
Nuremberg và sự chứng thực của Đại hội
đồng UN về các nguyên tắc Nuremberg23.
Theo Tòa, một trong những hành động
đầu tiên của UN khi vừa mới thành lập là
Đại hội đồng đã nhất trí thông qua Nghị
quyết 95 (I) ngày 11/12/1946, trong đó
“khẳng định các nguyên tắc của luật quốc tế
được ghi nhận bởi Hiến chương Nuremberg
và các phán quyết của Tòa”24. Nghị quyết
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
14 Số 15(367) T8/2018
này của Đại hội đồng có tất cả các đặc điểm
của một nghị quyết có giá trị như là một
tuyên bố về luật tập quán quốc tế. Cụ thể,
Nghị quyết 95 (I) đã xác nhận Hiến chương
Nuremberg ghi nhận các nguyên tắc pháp lý
quốc tế và giải quyết các các vấn đề pháp lý
cố hữu. Nghị quyết được thông qua trên cơ
sở bỏ phiếu nhất trí và không quốc gia nào
trong số các thành viên Đại hội đồng UN
bày tỏ quan điểm rằng Nghị quyết 95 (I) chỉ
là một tuyên bố chính trị.
Mặc dù, trong thời gian ba năm, Tòa
Nuremberg chỉ xét xử khoảng hơn một chục
vụ việc, nhưng ICJ25, Toà án hình sự quốc tế
về Nam Tư (cũ)26, Toà án châu Âu về quyền
con người27 và một số toà án trong nước28 đã
trích dẫn Nghị quyết 95 (I) của Đại hội đồng
như là một tuyên bố có hiệu lực về luật tập
quán quốc tế. ILC cũng thừa nhận rằng Hiến
chương và phán quyết của Tòa Nuremberg
đã thiết lập hình mẫu quốc tế về trách nhiệm
hình sự cá nhân. Tòa Nuremberg là “nền
tảng của luật hình sự quốc tế” và “di sản lâu
dài của Hiến chương và phán quyết của Toà
án Nuremberg”29.
Hiến chương và phán quyết của Toà
án Nuremberg cũng là hình mẫu về bối cảnh
đẩy nhanh quá trình hình thành luật tập
quán quốc tế. Từ quan điểm thông thường
về sự hình thành luật tập quán quốc tế, số
lượng thực tiễn quốc gia còn khá hạn chế
(chỉ bao gồm việc đàm phán Hiến chương
Nuremberg của 4 quốc gia, sự gia nhập Hiến
25 Legal Consequences of the Construction of a Wall in Occupied Palestinian Territory, Advisory Opinion, 2004 I.C.J.
136, 172 (July 9).
26 Prosecutor v. Tadic, Case No. IT-94-1-I, Opinion and Judgment, Trial Chamber, at 623 (International Crimminal
Tribunal for the Former Yugoslavia May 7, 1997); Prosecutor v. Tadic, Case No. IT-94-1-I, Decision on the Defence
Motion for Interlocutory Appeal on Jurisdiction, at 141 (International Crimminal Tribunal for the Former Yugoslavia
Oct. 2, 1995).
27 Kolk and Kislyiy v. Estonia, App. No. 23052/04, 24018/04, Decision on Admissibility, Eur. Ct. H.R. (Jan. 17, 2006).
28 R. v. Finta, [1994], 1 Supreme Court of Canada, at. 701; Prosecutor v. Ivica Vrdoljak, Court of Bosnia and Herzegovina,
10 July 2008.
29 Report of the International Law Committee on the Work of its Forty-Eighth Session, 51st Sess., May 6–July 26, 1996,
U.N. Doc. A/51/10; GAOR, 51st Sess., Supp. No. 10 (1996).
chương của 19 quốc gia khác), phán quyết
của Toà Nuremberg và một nghị quyết sau
đó của Đại hội đồng UN đã xác nhận (mặc
dù không liệt kê) nguyên tắc của Tòa. Hơn
nữa, khoảng thời gian từ khi kết thúc chiến
tranh tới sự xác nhận của Đại hội đồng về các
nguyên tắc Nuremberg chỉ là một năm. Có
thể ví khoảng thời gian đó chỉ như “một giọt
trong thùng” so với lượng thời gian thường
được tính đến để “kết tinh” luật tập quán
quốc tế. Tuy nhiên, bất kể thực tiễn quốc
gia có hạn và thời gian rất ngắn, ICJ, Toà
án nhân quyền châu Âu và bốn tòa án hình
sự quốc tế đã xác nhận rằng Hiến chương
và phán quyết của Tòa Nuremberg ngay
lập tức đã “chín muồi” thành luật tập quán
quốc tế. Hiến chương và phán quyết của Tòa
Nuremberg đã đánh dấu một sự thay đổi cơ
bản đối với hệ thống quốc tế đến mức mà
một quy tắc mới của luật tập quán quốc tế có
thể nảy sinh với tốc độ ngoại lệ.
Hiến chương và phán quyết của Tòa
Nuremberg đã phản ánh một giải pháp mới
đối với sự tàn bạo chưa từng thấy trước bối
cảnh cuộc chiến tranh tàn phá nhất trong lịch
sử. Ngoài vụ xét xử của Tòa Nuremberg, các
quốc gia cũng có nhu cầu lớn về việc thực
hiện phổ quát các nguyên tắc Nuremberg.
Tuy nhiên, vào đêm trước của Chiến tranh
lạnh, rõ ràng là một công ước đa phương
được phê duyệt rộng rãi sẽ không phải là một
giải pháp trước mắt có thể thực hiện được.
Trên thực tế, cộng đồng quốc tế phải mất
nửa thế kỷ mới có thể ký kết một điều ước
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
15Số 15(367) T8/2018
được phê chuẩn rộng rãi nhằm chuyển hóa
mô hình Tòa Nuremberg trở thành một Tòa
án hình sự quốc tế thường trực. Bối cảnh sự
thay đổi cơ bản này và nhu cầu rất lớn về
một phản ứng kịp thời là cơ sở giải thích làm
thế nào Hiến chương và phán quyết của Tòa
Nuremberg có thể được chấp nhận như là
luật tập quán quốc tế một cách nhanh chóng
và phổ quát đến như vậy.
*Một số hoàn cảnh khác đẩy nhanh
quá trình hình thành luật tập quán quốc tế
Năm 1945, Tổng thống Truman tuyên
bố rằng, các nguồn tài nguyên ở thềm lục địa
ngoài khơi bờ biển nước Mỹ là thuộc về Mỹ.
Tuyên bố này thể hiện một sự chuyển hướng
quan trọng trong luật quốc tế hiện hành về
biển. Tuyên bố Truman được thúc đẩy bởi
sự phát triển của công nghệ khai thác khí đốt
ngoài khơi và nhu cầu mạnh mẽ sau chiến
tranh đối với các nguồn tài nguyên dầu mỏ,
khí đốt. Bất kể có sự thay đổi sâu rộng mà
nó đề cập, Tuyên bố Truman đã không bị
phản đối. Trong vòng năm năm, một nửa
các quốc gia ven biển trên thế giới đã đưa
ra tuyên bố tương tự đối với các nguồn tài
nguyên ở thềm lục địa của mình. Thậm chí,
các nhà bình luận tuyên bố rằng khái niệm
thềm lục địa đã gần như trở thành “luật tập
quán quốc tế tức thời”. Đến năm 1969, ICJ
xác nhận rằng, Tuyên bố Truman đã nhanh
chóng tạo ra luật tập quán quốc tế ràng buộc
với các quốc gia chưa phê chuẩn Công ước
năm 1958 về thềm lục địa.
Vào những năm 1960, những bước
tiến nhảy vọt trong công nghệ tên lửa đã
khánh thành kỷ nguyên của những chuyến
bay vào vũ trụ. Bối cảnh đó đã làm luật tập
quán quốc tế về khai thác khoảng không vũ
trụ nhanh chóng hình thành. Thay vì xây
dựng quy chế khoảng không vũ trụ giống
như biển quốc tế, cộng đồng quốc tế đã chấp
nhận một bộ quy tắc duy nhất để quản lý
lãnh thổ này và ghi nhận trong Tuyên bố
của Đại hội đồng UN năm 1963 về khoảng
không vũ trụ. Văn bản này đã được các quốc
gia nhất trí thông qua. Mặc dù thực tiễn quốc
gia chỉ giới hạn trong một vài chục chuyến
bay vào vũ trụ do Liên bang Xô viết và Mỹ
thực hiện và không có phản đối của các quốc
gia mà những tên lửa này đã bay qua nhưng
các quốc gia và các học giả đã kết luận rằng,
Tuyên bố của Đại hội đồng UN năm 1963 đã
xác nhận sự tồn tại của luật tập quán quốc tế.
Như vậy, các quy tắc của luật tập quán quốc
tế về khai thác khoảng không vũ trụ đã hình
thành một cách nhanh chóng trước sự phát
triển về công nghệ khai thác vũ trụ.
Luật tập quán quốc tế cũng xuất hiện
một cách nhanh chóng từ vụ xét xử của Toà
án về Nam Tư (cũ) vào những năm 1990.
Việc thành lập Toà án về Nam Tư (cũ) được
thực hiện do các sự kiện nổi bật vào cuối thời
kỳ Chiến tranh lạnh, bao gồm: sự tan rã của
Liên bang Xô viết; Liên bang Nga thay thế
ghế của Liên bang Xô viết trong Hội đồng
Bảo an UN; lần đầu tiên nạn diệt chủng xuất
hiện trở lại ở châu Âu kể từ thời Đức Quốc
xã. Trong vụ việc mở đầu của mình, Phòng
Kháng cáo của Toà án về Nam Tư (cũ) đã
đưa ra một quyết định mang tính cách mạng
khi lần đầu tiên phán quyết rằng: các cá nhân
có thể bị buộc phải chịu trách nhiệm hình sự
về các vi phạm Điều 3 chung và Nghị định
thư bổ sung II của Công ước Geneva đối với
các tội ác chiến tranh được thực hiện trong
cuộc xung đột vũ trang diễn ra trong nội bộ
quốc gia. Quyết định này đã khép lại một
khoảng trống trong phạm vi điều chỉnh của
luật nhân đạo quốc tế và sau đó đã sớm được
xác nhận bởi Tòa án Rwanda và Toà đặc biệt
về Sierra Leone. Năm 1998, quyết định này
đã được pháp điển hóa trong Quy chế Toà án
hình sự quốc tế - văn kiện mà đã được 122
quốc gia phê chuẩn.
2.2 Nhận diện “bối cảnh thay đổi cơ
bản”- tác nhân làm đẩy nhanh quá trình
hình thành luật tập quán quốc tế
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
16 Số 15(367) T8/2018
Cách tiếp cận truyền thống yêu cầu
thực tiễn quốc gia phải lặp đi lặp lại trong
một khoảng thời gian dài trước khi “kết
tinh” thành một quy tắc của luật tập quán.
Tuy nhiên, thực tiễn trình bày ở trên cho
thấy, các quy tắc của luật tập quán quốc tế
có khả năng hình thành nhanh hơn và với
ít thực tiễn quốc gia hơn nhằm đáp ứng kịp
thời và thích ứng với những hoàn cảnh thay
đổi cơ bản. Luật tập quán quốc tế hình thành
nhanh hơn có thể là do những phát triển mới
về công nghệ (ví dụ như công nghệ khoan,
khai thác thềm lục địa, công nghệ vũ trụ)
hoặc do sự khẩn cấp phải đối phó với các tội
ác diễn ra trong các xung đột vũ trang nội
bộ như ở Rwanda, Nam Tư Từ đây, xuất
hiện quan điểm: luật tập quán quốc tế có thể
hình thành nhanh, không yêu cầu cụ thể về
khoảng thời gian để “kết tinh” một quy tắc
của luật tập quán. “Việc diễn ra trong một
khoảng thời gian ngắn, hoặc chính khoảng
thời gian ngắn, không tất yếu là một rào cản
đối với sự hình thành một quy tắc mới của
luật tập quán quốc tế”30.
Tuy nhiên, không phải mọi bối cảnh
thay đổi cơ bản đều chứa đựng đầy đủ các
thành phần thiết yếu để nhanh chóng “kết
tinh” luật tập quán quốc tế. Vì vậy, việc xác
định “bối cảnh thay đổi cơ bản” cần phải
được đánh giá trên cơ sở từng trường hợp
cụ thể. Ví dụ, cộng đồng quốc tế đã ủng
hộ các cuộc không kích diễn ra năm 1999
của Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
(NATO) chống lại Serbia để bảo vệ người
Kosovo gốc Albania khỏi việc thanh trừng
sắc tộc. Hai năm sau đó, Ủy ban Quốc tế về
can thiệp và chủ quyền quốc gia (ICISS) đã
đưa ra Báo cáo trong đó trình bày về Học
thuyết “Trách nhiệm Bảo vệ (R2P)” và “can
thiệp nhân đạo đơn phương”. Khái niệm này
dường như đã có thể nhanh chóng phát triển
30 North Sea Continental Shelf, 1969, id. at 76.
thành luật tập quán quốc tế. Tuy nhiên, các
quốc gia chủ chốt đứng sau sự can thiệp của
NATO đã rút lui khỏi quan điểm rằng các
hành động của họ là thực hiện sự “can thiệp
nhân đạo đơn phương” hợp pháp. Thay vào
đó, các quốc gia này nhấn mạnh bản chất
ngoại lệ của hoạt động quân sự. Các tuyên
bố này đã làm chậm lại đà phát triển một
quy tắc mới của luật tập quán quốc tế.
Năm 2003, trong khi UN đang xem
xét các bước để xác nhận Báo cáo ICISS
và học thuyết “Trách nhiệm Bảo vệ”, dựa
trên trích dẫn những quan ngại nhân đạo như
một trong các biện minh cho hành động, Mỹ
đã tiến hành đưa quân vào Iraq. Thay vì tán
thành “can thiệp nhân đạo đơn phương”,
Đại hội đồng và Hội đồng Bảo an UN đã kết
luận bằng một tuyên bố, trong đó đã khẳng
định phải có sự cho phép của Hội đồng Bảo
an trước khi các quốc gia hoặc các tổ chức
khu vực được thực hiện hành động can thiệp
quân sự. Mặc dù khái niệm “Trách nhiệm
Bảo vệ” đã ảnh hưởng đến cuộc tranh luận
quốc tế liên quan đến việc ứng phó với các
cuộc khủng hoảng khác nhau nhưng nó đã
không dẫn đến một sự thay đổi cơ bản trong
luật quốc tế về can thiệp vũ trang.
Một ví dụ khác là sự phản ứng của
cộng đồng quốc tế đối với các cuộc tấn công
khủng bố vào ngày 11/9/2001. Trước khi xảy
ra các cuộc tấn công này, luật quốc tế yêu
cầu sự cho phép của quốc gia sở tại trước khi
một quốc gia bị thiệt hại do khủng bố có thể
khởi động một cuộc tấn công để tự vệ chống
lại các thực thể phi nhà nước đang hiện diện
ở lãnh thổ quốc gia khác. Yêu cầu đó dường
như sẽ bị thay đổi cơ bản khi cộng đồng
quốc tế đã tán thành hành động của quân đội
Mỹ chống lại Al-Qaeda ở Afghanistan như
là một trường hợp sử dụng vũ lực hợp pháp
để tự vệ. Học thuyết Bush đã được đưa ra để
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
17Số 15(367) T8/2018
cho phép các quốc gia tấn công vào các phần
tử Al-Qaeda chủ chốt và tiêu diệt các căn
cứ của Al-Qaeda ở các quốc gia mà rõ ràng
là đã không sẵn sàng hoặc không thể ngăn
chặn Al-Qaeda hoạt động trên lãnh thổ của
họ. Tuy nhiên, học thuyết Bush được tuyên
bố rộng rãi đã gây ra phản hồi từ ICJ. Trong
vụ Wall năm 2004 và vụ Congo năm 2005,
ICJ đã tái khẳng định sự cho phép của quốc
gia sở tại vẫn là một điều kiện tiên quyết để
được phép sử dụng vũ lực nhằm mục đích
tự vệ. Mặc dù vẫn có khá nhiều chỉ trích về
những phán quyết này, nhưng trong ngắn
hạn, các phán quyết này đã làm chậm lại
sự hình thành quy tắc mới của luật tập quán
quốc tế sau sự kiện ngày 11/9/2001.
Hai ví dụ trên cho thấy, một quy phạm
nhanh chóng hình thành cũng có thể bị
chậm lại, chưa thể trở thành luật tập quán
quốc tế bởi vì thực tiễn quốc gia hoặc tuyên
bố rõ ràng đã cấu thành một sự lạm dụng
quy phạm rất dễ nhận thức thấy. Cụ thể, sự
can thiệt của Mỹ vào Iraq năm 2003 và của
Nga vào Gruzia trong năm 2008 đã nhắc lại
những quan ngại rằng một học thuyết cho
phép “can thiệp nhân đạo đơn phương” sẽ dễ
bị lạm dụng, qua đó giảm được đà phát triển
của khái niệm “Trách nhiệm Bảo vệ” như
là cơ sở hợp pháp cho hành động nhân đạo
ngoài khuôn khổ UN. Tương tự như vậy, sự
nhận thức rằng Học thuyết Bush là quá rộng
và dễ dàng bị lạm dụng đã làm chậm động
lực dẫn đến sự thay đổi trong luật về tự vệ
chống lại các thực thể phi nhà nước.
Nghiên cứu các trường hợp điển hình
ở trên cũng chỉ ra rằng, ngoài việc đáp ứng
thay đổi về mặt công nghệ, kinh tế - xã hội,
sự hình thành nhanh luật tập quán quốc tế
một phần là do sự sắp xếp lại địa - chính trị,
mà thông thường là sau chiến tranh. Ví dụ,
sự khẳng định các nguyên tắc Nuremberg và
sự phát triển của khái niệm thềm lục địa đã
diễn ra ngay sau khi Chiến tranh thế giới lần
II chấm dứt. Tương tự, việc thành lập Tòa án
Nam Tư (cũ) và phán quyết trong vụ Tadic
về áp dụng tội phạm chiến tranh đối với các
cuộc xung đột vũ trang nội bộ đã diễn ra
ngay sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc và sự
sụp đổ của Liên Xô (cũ). Phản ứng của cộng
đồng quốc tế đối với các vụ tấn công ngày
11/9 đã có vẻ như sẽ dẫn đến một sự sắp xếp
lại địa - chính trị bởi các động cơ chung là
chống khủng bố. Tuy nhiên, các hành động
sau đó của Mỹ (ví dụ như ngược đãi các tù
nhân khủng bố tại Vịnh Guantanamo và các
căn cứ CIA Black) đã làm đứt đoạn sự đồng
thuận về thời gian, địa điểm và cách thức
sử dụng vũ lực chống lại các thực thể phi
quốc gia.
Hơn nữa, trong các trường hợp Tòa
Nuremberg, thềm lục địa và luật vũ trụ, bối
cảnh thay đổi cơ bản đã dẫn tới sự hình thành
nhanh chóng các nguyên tắc cơ bản của luật
tập quán quốc tế nhưng vẫn còn có sự chưa
rõ ràng, chưa chắc chắn liên quan đến nghĩa
chính xác của khái niệm xâm lược, thềm lục
địa và khoảng không vũ trụ Những khái
niệm này vẫn phải tiếp tục được hoàn thiện
và phát triển trong những năm tiếp theo.
Điều này chỉ ra rằng, luật tập quán quốc tế
được hình thành nhanh chóng do bối cảnh
quốc tế thay đổi cơ bản nhưng chúng cũng
có thể không được hoàn thiện một cách đầy
đủ để thể hiện một sự thay đổi cơ bản trong
luật pháp.
Bên cạnh đó, luật tập quán quốc tế
hình thành nhanh không có nghĩa là luật
tập quán quốc tế có thể hình thành ngay lập
tức, chỉ trên cơ sở nghị quyết của Đại hội
đồng UN mà không cần thực tiễn quốc gia.
Mặc dù các tuyên bố, lời nói cũng được coi
là thực tiễn quốc gia nhưng nghị quyết của
Đại hội đồng UN được thông qua trên cơ
sở nhất trí hoặc đa số không thể cấu thành
đồng thời cả yếu tố vật chất và tinh thần để
ngay lập tức hình thành quy tắc của luật tập
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
18 Số 15(367) T8/2018
quán quốc tế31. Trước hết, khi đề cập đến các
quyền hạn và chức năng của Đại hội đồng,
Hiến chương UN sử dụng thuật ngữ “kiến
nghị - recommend”32. Các văn bản ghi chép
quá trình đàm phán Hiến chương UN cũng
cho thấy các quốc gia đã có ý định rằng nghị
quyết Đại hội đồng chỉ có tính khuyến nghị33;
thứ hai, nghị quyết của Đại hội đồng thường
không phân biệt rõ giữa quy tắc xử sự là luật
với quy tắc xử sự là khuyến nghị các bên
nên thực hiện theo. Ví dụ, mặc dù Tuyên bố
Manila về hòa bình giải quyết tranh chấp
quốc tế34 yêu cầu “các bên phải kiềm chế
không tiến hành các hành động làm cho tình
hình trở nên xấu đi” nhưng đó chỉ là xử sự
mong muốn đạt được. Với mong muốn có
nhiều quốc gia nhất trí thông quan văn bản,
các Nghị quyết Đại hội đồng UN thường
phản ánh sự mập mờ có chủ ý giữa thực tế
và mong muốn. Vì vậy, một “quy tắc” mà
chỉ dựa duy nhất vào lời nói hay tuyên bố
trong nghị quyết của Đại hội đồng sẽ không
đạt được sự tuân thủ chắc chắn trong thực
tiễn; thứ ba, nghị quyết của Đại hội đồng
không phải lúc nào cũng thể hiện đúng ý
định thực sự của các quốc gia. Các quốc gia
thường bỏ phiếu thông qua nghị quyết của
Đại hội đồng UN để làm đẹp hình ảnh của
mình hoặc không mong đợi rằng nghị quyết
sẽ thiết lập một quy tắc mới là luật; thứ tư,
ngay cả khi nếu các tuyên bố và bỏ phiếu tại
Đại hội đồng UN có thể hội tụ đủ điều kiện
như là thực tiễn quốc gia hoặc biểu hiện của
yếu tố tinh thần, sẽ là không logic nếu tính
một hành động thể hiện cả yếu tố vật chất
và yếu tố tinh thần. Như vậy, cần phải nhìn
nhận rằng, nghị quyết của Đại hội đồng UN
31 Khurshid Iqbal, The right to development in international law: The case of Pakistan 120 (2010); South West Africa
Cases (Ethiopia & Liberia. v. South Africa), 1966 I.C.J. Rep. 248, 291–93 (ý kiến riêng của thẩm phán Tanaka).
32 Điều 10, Điều 11 Hiến chương UN.
33 Gregory J. Kerwin, The Role of United Nations General Assembly Resolutions in Determining Principles of International
Law in United States Courts, 1983 DUKE L. J. 876, 879 (1983).
34 General Assembly Resolution 37/10, U.N. Doc. A/RES/37/10 (Nov. 14, 1982).
35 Nuclear Weapons Advisory Opinion, 1996 I.C.J. at 254-55.
có thể khẳng định và làm sáng tỏ các quy tắc
hiện tại hoặc định hình sự phát triển trong
tương lai của luật tập quán quốc tế. Khi một
quy tắc của luật tập quán đang hình thành
hoặc vẫn còn một số nghi ngờ về vị thế luật
tập quán của nó, một nghị quyết nhất trí có
thể củng cố luật tập quán và loại bỏ những
nghi ngờ mà có thể đã tồn tại.
3. Ý nghĩa của sự hình thành nhanh luật
tập quán quốc tế
Nghị quyết của Đại hội đồng UN có
vai trò như là một thành phần thiết yếu trong
việc đẩy nhanh sự hình thành luật tập quán
quốc tế. Tuyên bố năm 1946 khẳng định
nguyên tắc Nuremberg và Tuyên bố năm
1963 về khoảng không vũ trụ là các ví dụ
về nghị quyết Đại hội đồng có ảnh hưởng
đáng kể đến sự hình thành và pháp điển hóa
nhanh chóng luật tập quán quốc tế. Ngược
lại, nghiên cứu sự can thiệp của NATO năm
1999 đã cho thấy các nghị quyết của Đại hội
đồng và Hội đồng Bảo an có thể làm cho một
bối cảnh quốc tế có khả năng thay đổi cơ bản
nhưng đã không thể dẫn đến sự hình thành
một quy tắc mới của luật tập quán quốc tế.
Khi quyết định có nên coi một nghị
quyết cụ thể của Đại hội đồng UN như là
bằng chứng về một quy tắc luật tập quán
quốc tế, ICJ cho rằng “cần phải nhìn vào
nội dung và các điều kiện thông qua nghị
quyết”35. Khi xem xét các yếu tố này, Tòa
thường coi loại hình nghị quyết có ý nghĩa
quan trọng. Các nghị quyết khuyến nghị
(recommendation) thường được trao ít trọng
lượng. Các tuyên bố (declarations) thường
được sử dụng để tăng sự trang trọng. Các
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
19Số 15(367) T8/2018
nghị quyết khẳng định (affirmations) thường
được sử dụng để chỉ ra sự pháp điển hoá
hoặc sự kết tinh luật tập quán quốc tế. Một
điểm quan trọng nữa là kết quả bỏ phiếu.
Các nghị quyết được thông qua trên cơ sở
nhất trí hoặc đa số thường có ảnh hưởng tạo
ra luật. Ngược lại, sự bất đồng đáng kể (ví
dụ, rất nhiều phiếu trắng hoặc phản đối của
một số ít quốc gia nhưng lại là quốc gia có
vai trò quan trọng trong các hoạt động được
đề cập) sẽ ngăn cản sự hình thành luật tập
quán quốc tế36. Các nghị quyết đồng thuận
(được thông qua mà không có phiếu phản
đối) phải được trao ít sức nặng thực tiễn hơn
so với các nghị quyết được nhất trí thông
qua, bởi vì, các quốc gia thường bị áp lực
phải giữ im lặng (ngay cả khi họ có phản
đối) để không phá vỡ sự đồng thuận. ICJ
cũng chỉ ra rằng, khi bỏ phiếu thông qua
một nghị quyết cụ thể của Đại hội đồng, nếu
một quốc gia đề cập một cách rõ ràng rằng
chỉ coi văn bản nghị quyết như là một tuyên
bố chính trị thì nghị quyết đó có thể không
được viện dẫn để chống lại quốc gia đó37.
Với những lý do này, không có cơ sở để phải
lo ngại rằng việc thừa nhận nghị quyết của
Đại hội đồng UN có vai trò trong việc hình
thành luật tập quán quốc tế sẽ làm cho Đại
hội đồng UN trở thành một cơ quan lập pháp
quốc tế và dẫn đến chế độ áp đặt của đa số.
Tương tự như vậy, các quyết định
của tòa án quốc tế đã đưa ra lời giải thích
có căn cứ xác đáng làm hoàn tất sự hình
thành luật tập quán bằng cách xác nhận sự
tồn tại quy tắc mới của luật tập quán. Ví dụ,
trong vụ North Sea Continental Shelf, ICJ đã
xác nhận vị thế luật tập quán của Tuyên bố
Truman. Ngược lại, tuyên bố của Tòa trong
vụ Wall và Congo đã ngăn cản sự phát triển
“kết tinh” luật tập quán về tự vệ chống lại
các nhóm khủng bố mà hành vi của chúng
36 Nuclear Weapons Advisory Opinion, 1996 I.C.J. at 255.
37 Nicaragua Case, 1986 I.C.J. at 106-07.
không thể quy cho quốc gia mà chúng hiện
diện. Như vậy, giống như nghị quyết của Đại
hội đồng UN, quyết định của tòa án quốc tế
có ý nghĩa tăng cường, làm cho quá trình
hình thành quy tắc luật tập quán quốc tế diễn
ra nhanh hơn.
Việc thừa nhận sự hình thành nhanh
luật tập quán quốc tế có một số ý nghĩa thực
tế sau đây:
- Nó có thể giải thích sự hình thành
nhanh chóng của các quy tắc tập quán ở thời
điểm bối cảnh có sự thay đổi mạnh mẽ, qua
đó làm cho quy tắc sớm phổ biến và được
thừa nhận là luật;
- Việc thừa nhận này cũng có thể giúp
học giả tư vấn cho các chính phủ khi muốn
tìm kiếm giải pháp bằng một nghị quyết Đại
hội đồng UN như là một phương tiện để tạo
thuận lợi cho việc hình thành nhanh luật tập
quán quốc tế;
- Trong những hoàn cảnh thích hợp,
việc thừa nhận luật tập quán hình thành
nhanh sẽ có thể củng cố các vụ việc mà trong
đó, các đương sự tranh luận về sự tồn tại của
một quy tắc luật tập quán quốc tế mới;
- Sự thừa nhận đó cũng có thể làm
cho các tòa án quốc tế sẵn sàng hơn trong
việc công nhận các quy tắc mới của luật
tập quán quốc tế trong các hoàn cảnh thích
hợp, mặc dù có tương đối ít thực tiễn quốc
gia và khoảng thời gian hạn chế. Đặc biệt,
trong trường hợp quan hệ quốc tế mới nảy
sinh nhưng chưa có các quy tắc của điều
ước hoặc nguyên tắc chung của luật để điều
chỉnh, việc thừa nhận luật tập quán quốc tế
có thể nhanh chóng hình thành sẽ giúp cơ
quan tài phán quốc tế tránh được việc phải
tuyên bố về tình trạng không có luật có thể
áp dụng (non liquet)■
NHAÂ NÛÚÁC VAÂ PHAÁP LUÊÅT
20 Số 15(367) T8/2018
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_hinh_thanh_luat_tap_quan_quoc_te_truoc_boi_canh_thay_doi.pdf