Sự không thống nhất liên quan đến việc
huỷ bỏ hợp đồng
Theo quy định tại khoản 4 Điều 312
LTM, hợp đồng chỉ có thể bị huỷ bỏ trong
hai trường hợp đó là: i) Xảy ra hành vi vi
phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện
để hủy bỏ hợp đồng; ii) Một bên vi phạm cơ
bản nghĩa vụ hợp đồng. Ngoài các trường
hợp này, các bên không thể tuyên bố huỷ bỏ
hợp đồng trong bất cứ trường hợp nào.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 423
BLDS, hợp đồng có thể bị huỷ bỏ trong các
trường hợp sau: i) Bên kia vi phạm hợp đồng
là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa
thuận; ii) Bên kia vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ hợp đồng; iii) Trường hợp khác do
luật quy định.
Về cơ bản, LTM và BLDS thống nhất
với nhau ở hai trường hợp đầu tiên đó là các
bên thoả thuận vi phạm là điều kiện huỷ bỏ
và một bên vi phạm nghiêm trọng hoặc cơ
bản hợp đồng. Vi phạm nghiêm trọng và vi
phạm cơ bản đều là sự vi phạm của một bên
đến mức bên kia không đạt được mục đích
của sự vi phạm hợp đồng2. Tuy nhiên, ngoài
hai trường hợp này, BLDS còn cho phép một
bên được tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng trong
nhiều trường hợp khác mà luật có quy định,
ví dụ một bên chậm thực hiện nghĩa vụ, do
một bên không có khả năng thực hiện nghĩa
vụ, hoặc các trường hợp mà BLDS hoặc
luật khác có liên quan có quy định khác.
Trong khi đó, ngoài hai trường hợp được ghi
nhận tại khoản 4 Điều 312 LTM, các bên
giao kết hợp đồng thương mại không được
huỷ bỏ hợp đồng trong bất cứ trường hợp
nào. Tác giả cho rằng, quy định của LTM
không phù hợp với thực tiễn, vì lợi ích là tiền
đề của mọi quan hệ pháp luật dân sự mà các
bên tham gia, trong đó bao gồm cả quan hệ
hợp đồng. Trong nhiều trường hợp, chủ thể
giao kết hợp đồng thương mại có thể không
đạt được mục đích giao kết hợp đồng nhưng
không xuất phát từ vi phạm của bên kia (ví
dụ trường hợp tài sản bị mất mát, hư hỏng
hoặc một bên không có khả năng thực hiện
hợp đồng,.). Do đó, LTM cần được bổ sung
quy định về trường hợp mà một bên có thể
huỷ bỏ hợp đồng, tương tự như BLDS
9 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 19/01/2022 | Lượt xem: 261 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sự không thống nhất trong quy định về hợp đồng giữa luật thương mại và bộ luật dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Ở Việt Nam, BLDS là văn bản luật cóphạm vi điều chỉnh rộng nhất tronghệ thống các văn bản pháp luật tư.
Vấn đề này đã được ghi nhận tại Điều 1
BLDS như sau: “Bộ luật này quy định địa vị
pháp lý, chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử
của cá nhân, pháp nhân; quyền, nghĩa vụ về
nhân thân và tài sản của cá nhân, pháp nhân
trong các quan hệ được hình thành trên cơ
sở bình đẳng, tự do ý chí, độc lập về tài sản
và tự chịu trách nhiệm (sau đây gọi chung
là quan hệ dân sự)”1. Quy định này cho thấy,
BLDS có thể được áp dụng để điều chỉnh
mọi quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa
rộng, bao gồm cả quan hệ trong lĩnh vực
thương mại. Ngay trong một số quy định của
LTM cũng thể hiện phạm vi điều chỉnh của
BLDS đối với các hoạt động thương mại
như: Hoạt động thương mại không được quy
định trong LTM và trong các luật khác thì áp
dụng quy định của BLDS2; Trong trường
hợp thương nhân cử người của mình để làm
Số 2+3(402+403) - T1+2/202094 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
1 Xem Điều 1 BLDS năm 2015.
2 Xem khoản 3 Điều 4 LTM năm 2005.
SỰ KHÔNG THỐNG NHẤT TRONG QUY ĐỊNH VỀ HỢP ĐỒNG
GIỮA LUẬT THƯƠNG MẠI VÀ BỘ LUẬT DÂN SỰ
Nguyễn Văn hợi
TS. Trường Đại học Luật Hà Nội.
Thông tin bài viết:
Từ khóa: Bộ luật dân sự,
Luật thương mại, hợp đồng.
Lịch sử bài viết:
Nhận bài : 14/01/2020
Biên tập : 15/01/2020
Duyệt bài : 16/01/2020
Article Infomation:
Keywords: Civil Code;
Law on Commerce; contracts.
Article History:
Received : 14 Jan. 2020
Edited : 15 Jan. 2020
Approved : 16 Jan. 2020
Tóm tắt:
Chế định hợp đồng là một trong những chế định trung tập của Bộ
luật Dân sự năm 2015 (BLDS) và Luật Thương mại năm 2005
(LTM). Trên thực tế, vẫn còn tồn tại những điểm không thống nhất
liên quan đến các quy định về giao kết, thực hiện, xử lý vi phạm về
hợp đồng, gây ảnh hưởng đến quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng
và giải quyết tranh chấp phát sinh. Bài viết phân tích một số điểm
không thống nhất cơ bản về hợp đồng giữa hai văn bản này và đưa
ra một số kiến nghị hoàn thiện.
Abstract:
The provisions on contracting is the recognized one of the common
provisions under both the Civil Code of 2015 (Civil Code) and the
Law on Commerce of 2005. In fact, there are still inconsistencies
related to the regulations on the contract signing, contract
performance, handling of contract violations, which affect the
process of signing, contract performance and handling of contract
disputes. This paper analysis of a number of inconsistencies in the
provisions on contracting between these two legal documents and
provides recommendations for improvements.
đại diện cho mình thì áp dụng quy định của
BLDS3; Người không có năng lực hành vi
dân sự, người mất năng lực hành vi dân sự,
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
theo quy định của BLDS hoặc người tại thời
điểm đấu giá không nhận thức, làm chủ được
hành vi của mình4.
Theo quy định, mặc dù không phải bất
cứ quan hệ thương mại nào đều chịu sự điều
chỉnh trực tiếp của BLDS, nhưng việc áp
dụng các quy định của pháp LTM cũng phải
có sự phù hợp với các quy định mang tính
nguyên tắc trong BLDS, bởi vì “Bộ luật này
là luật chung điều chỉnh các quan hệ dân
sự”5. Vấn đề này được thể hiện cụ thể trong
quy định về nguyên tắc áp dụng tập quán
trong hoạt động thương mại: “Trường hợp
pháp luật không có quy định, các bên không
có thoả thuận và không có thói quen đã được
thiết lập giữa các bên thì áp dụng tập quán
thương mại nhưng không được trái với
những nguyên tắc quy định trong Luật này
và trong BLDS”6. Trong BLDS, đòi hỏi này
cũng được ghi nhận cụ thể như sau: “Luật
khác có liên quan điều chỉnh quan hệ dân sự
trong các lĩnh vực cụ thể không được trái với
các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự
quy định tại Điều 3 của Bộ luật này”7. Ngoài
ra, BLDS còn ghi nhận quy định thể hiện sự
vô hiệu hoá đối với các quy định trong luật
khác nhưng không đáp ứng được yêu cầu
này. Cụ thể: “Trường hợp luật khác có liên
quan không quy định hoặc có quy định
nhưng vi phạm khoản 2 Điều này thì quy
định của Bộ luật này được áp dụng”8.
Những quy định được trích dẫn ở trên
cho thấy yêu cầu bảo đảm sự phù hợp của
các quy định trong luật chuyên ngành với
quy định mang tính nguyên tắc trong BLDS.
Sự phù hợp này được biểu hiện thông qua sự
thống nhất giữa quy định của luật chuyên
ngành và quy định của BLDS. Tuy nhiên,
nhiều quy định trong LTM nói riêng, pháp
luật thương mại nói chung hiện nay vẫn chưa
có sự thống nhất với quy định trong BLDS,
đặc biệt là các quy định liên quan đến hợp
đồng. Chính sự không thống nhất này là một
trong các yếu tố gây ra khó khăn cho quá
trình áp dụng pháp luật vào việc giải quyết
các tranh chấp liên quan trên thực tế.
1. Sự không thống nhất về phạm vi
điều chỉnh của lTM với các nguyên tắc cơ
bản trong BlDS
Điều 3 BLDS quy định các nguyên tắc
cơ bản của pháp luật dân. Tất cả các nguyên
tắc này đều được áp dụng đối với các lĩnh
vực chuyên ngành, trong đó bao gồm cả lĩnh
vực pháp luật thương mại. Các luật chuyên
ngành không được đưa ra các quy định trái
với các nguyên tắc cơ bản này. Trong các
nguyên tắc cơ bản này, nguyên tắc bình đẳng
và nguyên tắc thiện chí là những nguyên tắc
bảo đảm sự dung hoà lợi ích giữa các bên
tham gia quan hệ, đặc biệt là quan hệ hợp
đồng. Nguyên tắc bình đẳng đòi hỏi khi
tham gia quan hệ hợp đồng, dù có hay không
có mục đích sinh lợi thì các bên vẫn phải
bình đẳng về quyền và nghĩa vụ, ngay cả
quyền được lựa chọn luật để áp dụng với
quan hệ mà mình tham gia. Theo nguyên tắc
thiện chí, khi tham gia quan hệ hợp đồng,
mỗi bên chủ thể đều phải bảo đảm sự hài hoà
lợi ích của mình và đối tác. Tức là không chỉ
hướng đến lợi ích của mình mà bỏ qua lợi
ích của đối tác mà phải luôn luôn giúp đỡ đối
tác thực hiện tốt nghĩa vụ với mình.
95Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
3 Xem khoản 2 Điều 141 LTM năm 2005.
4 Xem khoản 1 Điều 198 LTM năm 2005.
5 Xem khoản 1 Điều 4 BLDS năm 2015.
6 Xem Điều 13 LTM năm 2005.
7 Xem khoản 2 Điều 4 BLDS năm 2015.
8 Xem khoản 3 Điều 4 BLDS năm 2015.
Tuy nhiên, khi xác định phạm vi áp
dụng, khoản 3 Điều 1 LTM quy định: “Hoạt
động không nhằm mục đích sinh lợi của một
bên trong giao dịch với thương nhân thực
hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam trong trường hợp bên thực
hiện hoạt động không nhằm mục đích sinh
lợi đó chọn áp dụng Luật này”. Quy định này
đã không phù hợp với nguyên tắc bình đẳng
được ghi nhận tại khoản 1 Điều 3 BLDS.
Hơn nữa, trong quan hệ hợp đồng, các chủ
thể tham gia thường hướng tới việc tìm kiếm
lợi ích tối đa cho mình mà trong nhiều trường
hợp bỏ qua lợi ích của đối tác. Ví dụ, để thu
được các khoản tiền phạt vi phạm hợp đồng,
bên có quyền có thể từ chối giúp đỡ bên có
nghĩa vụ để họ hoàn thành nghĩa vụ đúng hạn
mặc dù có khả năng. Do đó, việc lựa chọn áp
dụng luật nào để điều chỉnh quan hệ hợp
đồng mà họ tham gia thường phụ thuộc vào
lợi ích mà họ đạt được trong hợp đồng đó lớn
hay nhỏ khi áp dụng các luật mà họ có thể
lựa chọn. Tức là bản thân người được lựa
chọn luật áp dụng sẽ luôn lấy lợi ích của
mình làm cơ sở để xác định luật mà mình
muốn áp dụng và có thể sẽ không quan tâm
đến lợi ích của đối tác. Mặc dù LTM đã trao
cho họ quyền lựa chọn luật, song việc thực
hiện quyền này có thể dẫn đến sự không thiện
chí của bên chọn luật. Đặc biệt, thời điểm lựa
chọn luật áp dụng lại có thể hoàn toàn là thời
điểm xảy ra tranh chấp.
Ví dụ, A là chủ thể tham gia hợp đồng
không nhằm mục đích sinh lợi với thương
nhân B. Trong hợp đồng có thoả thuận bên
nào vi phạm sẽ bị phạt 50% giá trị hợp đồng,
đồng thời trong hợp đồng các bên không
thoả thuận cụ thể về luật áp dụng đối với
quan hệ của mình. Tuy nhiên, có thể nhận
thấy một điều chắc chắn rằng nếu A vi phạm
thì A sẽ lựa chọn LTM để áp dụng với hợp
đồng đó để được áp dụng mức phạt tối đa
không quá 8% giá trị của phần vi phạm được
quy định tại Điều 301 LTM năm 2005. Nếu
B vi phạm, A sẽ không lựa chọn áp dụng
LTM mà áp dụng quy định của BLDS năm
2015 với mức phạt mà các bên thoả thuận,
bởi BLDS năm 2015 không có quy định giới
hạn mức phạt vi phạm được phép thoả thuận
là bao nhiêu.
Như vậy, việc chỉ cho phép một bên
lựa chọn luật áp dụng mà không xác định cụ
thể thời điểm được chọn luật khiến cho bên
còn lại (cụ thể là thương nhân) luôn bị động
trong quan hệ hợp đồng. Chính vì vậy, quy
định của khoản 3 Điều 1 LTM thể hiện sự
không phù hợp với nguyên tắc bình đẳng và
nguyên tắc thiện chí được ghi nhận tại Điều
3 BLDS. Để khắc phục sự không thống nhất
này, cần sửa đổi quy định tại khoản 3 Điều 1
LTM theo hướng sau: i) Cần xác định thời
điểm mà bên tham gia quan hệ không nhằm
mục đích sinh lợi được lựa chọn luật áp dụng
là thời điểm giao kết hợp đồng. Điều này bảo
đảm cho thương nhân giao kết hợp đồng có
thể chủ động trong việc đưa ra các thoả thuận
liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của
mình; ii) Cần xác định việc lựa chọn LTM
hoặc BLDS để áp dụng với quan hệ hợp đồng
là quyền của các bên và phải do các bên thoả
thuận tại thời điểm giao kết hợp đồng.
2. Sự không thống nhất về quy định liên
quan đến việc giao kết và thực hiện hợp
đồng
2.1. Quy định liên quan đến giao kết
hợp đồng
Về tư cách chủ thể trong giao kết và
thực hiện hợp đồng
a) Trước đây, BLDS năm 2005 ghi
nhận nhiều chủ thể có tư cách độc lập khi
tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự, bao
gồm cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp
tác, nhà nước và các tổ chức khác không có
tư cách pháp nhân. Cũng theo quy định của
BLDS năm 2005, cá nhân tham gia quan hệ
pháp luật dân sự trực tiếp hoặc thông qua cơ
chế đại diện. Các tổ chức dù có hay không
có tư cách pháp nhân thì đều tham gia quan
hệ thông qua người đại diện theo pháp luật
và đại diện theo uỷ quyền. BLDS hiện hành
Số 2+3(402+403) - T1+2/202096 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
đã không thừa nhận hộ gia đình, tổ hợp tác
là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự9,
đồng thời cũng không ghi nhận cơ chế đại
diện theo pháp luật của các tổ chức này, mà
chỉ ghi nhận cơ chế đại diện theo pháp luật
của cá nhân, pháp nhân10. Theo đó, khi tham
gia vào quan hệ pháp luật dân sự nói chung,
quan hệ hợp đồng nói riêng, các thành viên
của các tổ chức không có tư cách pháp nhân
là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện hợp
đồng hoặc ủy quyền cho người đại diện tham
gia xác lập, thực hiện hợp đồng11.
Tuy nhiên, theo Luật Doanh nghiệp
năm 2014, chủ doanh nghiệp tư nhân là
người đại diện theo pháp luật của doanh
nghiệp tư nhân12. Đồng thời, khoản 1 Điều
13 của Luật này quy định: “Người đại diện
theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân
đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các
quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của
doanh nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với
tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa
án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy
định của pháp luật”. Ngoài ra, Luật này cũng
ghi nhận “Chủ doanh nghiệp tư nhân có toàn
quyền quyết định đối với tất cả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp”13. Những quy
định này có thể dẫn đến cách hiểu rằng việc
tham gia giao kết và thực hiện hợp đồng của
doanh nghiệp tư nhân vẫn có thể thông qua
cơ chế đại diện theo pháp luật. Những quy
định này cho thấy, khi tham gia quan hệ hợp
đồng, việc xác định cơ chế đại diện theo pháp
luật cho các tổ chức không có tư cách pháp
nhân giữa BLDS và pháp LTM còn có sự
không thống nhất. Theo quy định của BLDS
thì chủ doanh nghiệp tư nhân phải tham gia
quan hệ hợp đồng với tư cách cá nhân của
chính bản thân mình; theo quy định của LTM
thì chủ doanh nghiệp tư nhân lại tham gia
quan hệ hợp đồng với tư cách của người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp tư
nhân. Vậy chủ doanh nghiệp tư nhân hay
doanh nghiệp tư nhân là chủ thể giao kết hợp
đồng? Sự mâu thuẫn giữa hai văn bản luật
này tạo ra khó khăn trong việc xác định tư
cách chủ thể của hợp đồng với bên giao kết
là doanh nghiệp tư nhân.
b) Về tư cách giao kết hợp đồng của chi
nhánh và văn phòng đại diện của pháp nhân
Khoản 1 Điều 84 BLDS quy định:
“Chi nhánh, văn phòng đại diện là đơn vị
phụ thuộc của pháp nhân, không phải là
pháp nhân”. Đồng thời, khoản 3 Điều 84
BLDS quy định: “Văn phòng đại diện có
nhiệm vụ đại diện trong phạm vi do pháp
nhân giao, bảo vệ lợi ích của pháp nhân”.
Những quy định này cho thấy, văn phòng đại
diện, chi nhánh không có tư cách pháp nhân,
do đó không độc lập trong giao kết, thực
hiện hợp đồng14. Hay nói cách khác, không
phải là chủ thể giao kết hợp đồng.
Tuy nhiên, theo quy định tại khoản 6
Điều 3 LTM, “Văn phòng đại diện của
thương nhân nước ngoài tại Việt Nam là đơn
vị phụ thuộc của thương nhân nước ngoài,
được thành lập theo quy định của pháp luật
Việt Nam để tìm hiểu thị trường và thực hiện
một số hoạt động xúc tiến thương mại mà
pháp luật Việt Nam cho phép”. Đồng thời,
khoản 7 Điều 3 LTM năm 2005 quy định:
“Chi nhánh của thương nhân nước ngoài tại
97Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
9 Nguyễn Văn Cừ & Trần Thị Huệ (đồng chủ biên), Bình luận khoa học BLDS năm 2015 của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội năm 2017, tr.196.
10 Xem thêm Điều 136 và 137 BLDS năm 2015.
11 Xem thêm khoản 1 Điều 101 BLDS năm 2015.
12 Xem khoản 4 Điều 185 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
13 Xem khoản 1 Điều 185 Luật Doanh nghiệp năm 2014.
14 Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội năm 2016, tr.151.
Việt Nam là đơn vị phụ thuộc của thương
nhân nước ngoài, được thành lập và hoạt
động thương mại tại Việt Nam theo quy định
của pháp luật Việt Nam hoặc điều ước quốc
tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên”. Theo những quy định này, vẫn
có sự tương đồng giữa LTM và BLDS liên
quan đến việc xác định tư cách của chi nhánh
và văn phòng đại diện của pháp nhân. Song,
các quy định về quyền của Văn phòng đại
diện và Chi nhánh của thương nhân nước
ngoài hoạt động tại Việt Nam lại cho thấy tư
cách độc lập của Văn phòng đại diện và Chi
nhánh khi có thể ký các hợp đồng thuê trụ sở,
thuê, mua các phương tiện, vật dụng cần thiết
phục vụ hoạt động, các hợp đồng khác15.
Về hình thức giao kết hợp đồng
Về cơ bản, cả BLDS và LTM đều ghi
nhận các hình thức giao kết hợp đồng để các
bên có thể lựa chọn như văn bản, lời nói,
hành vi cụ thể. Đồng thời, theo cả hai văn
bản luật này thì hình thức của hợp đồng
không phải là yêu cầu bắt buộc đối với mọi
hợp đồng được xác lập trên thực tế. Tuy
nhiên, liên quan đến các trường hợp bắt buộc
hợp đồng phải được giao kết dưới hình thức
nhất định, hai văn bản này lại không có sự
thống nhất. Cụ thể:
Khoản 2 Điều 117 BLDS quy định:
“Hình thức của giao dịch dân sự là điều kiện
có hiệu lực của giao dịch dân sự trong
trường hợp luật có quy định”. Theo quy định
này chỉ có văn bản luật mới có thể quy định
một hình thức bắt buộc đối với hợp đồng, các
văn bản dưới luật không phải là căn cứ xác
định điều kiện về hình thức của hợp đồng.
LTM quy định bắt buộc về hình thức
của hợp đồng được thể hiện trong từng
trường hợp cụ thể nhưng đều thống nhất ghi
nhận hình thức bắt buộc của hợp đồng có thể
do pháp luật quy định. Khoản 2 Điều 24 quy
định: “Đối với các loại hợp đồng mua bán
hàng hoá mà pháp luật quy định phải được
lập thành văn bản thì phải tuân theo các quy
định đó”; Khoản 2 Điều 74 quy định: “Đối
với các loại hợp đồng dịch vụ mà pháp luật
quy định phải được lập thành văn bản thì
phải tuân theo các quy định đó”. Theo các
quy định này, không chỉ văn bản luật mà cả
các văn bản dưới luật cũng có thể quy định
về hình thức bắt buộc của hợp đồng mà các
bên phải tuân thủ.
Như vậy, sự không thống nhất giữa
BLDS và LTM khi xác định loại văn bản có
giá trị áp dụng khi giải quyết vấn đề về hình
thức của hợp đồng như đề cập ở trên đây có
thể dẫn đến những khó khăn trong việc áp
dụng trên thực tế. Nên chỉnh sửa quy định
của LTM theo hướng lược bỏ các quy định
tại khoản 2 Điều 24 và khoản 2 Điều 74 vì
sự không cần thiết của các quy định này. Bởi
vì quy định bắt buộc về hình thức của hợp
đồng thương mại hoàn toàn có thể dựa trên
cơ sở quy định chung tại khoản 2 Điều 117
BLDS năm 2015. Trường hợp không lược bỏ
hai quy định này thì cũng nên sửa đổi theo
hướng ghi nhận chỉ văn bản luật mới có thể
quy định về hình thức bắt buộc của hợp đồng.
2.2. Quy định về thực hiện hợp đồng
Về vấn đề cầm giữ tài sản trong
trong quá trình thực hiện hợp đồng
Theo quy định của BLDS, cầm giữ tài
sản không chỉ được ghi nhận trong chế định
hợp đồng với tư cách là quyền của các bên
trong quá trình thực hiện hợp đồng song vụ,
mà còn được ghi nhận là một trong các biện
pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong chế
định bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Trong khi
đó, LTM chỉ ghi nhận quyền cầm giữ là một
trong các quyền của chủ thể giao kết hợp
đồng đại diện cho thương nhân16, hoặc là
một trong các quyền của thương nhân kinh
doanh dịch vụ logistics17. Tuy nhiên, việc
sắp xếp quy định về cầm giữ trong chế định
hợp đồng hay chế định bảo đảm thực hiện
Số 2+3(402+403) - T1+2/202098 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
15 Xem Điều 17 và Điều 19 LTM năm 2005.
16 Xem Điều 149 LTM năm 2005.
17 Xem Điều 239 và 240 LTM năm 2005.
nghĩa vụ cũng đều nhằm hướng tới việc bảo
đảm các quyền của các bên trong quá trình
thực hiện hợp đồng. Sự khác biệt mang tính
không thống nhất giữa cầm giữ trong BLDS
và LTM cần bàn luận bao gồm những điểm
như sau:
i) BLDS cho phép các chủ thể của hợp
đồng có đối tượng là tài sản (hợp đồng: mua
bán, trao đổi, tặng cho, vay, thuê, mượn) có
quyền cầm giữ tài sản nếu bên có nghĩa vụ
không thực hiện nghĩa vụ đến hạn. Trong khi
đó, LTM cho phép bên đại diện trong hợp
đồng đại diện cho thương nhân và bên kinh
doanh dịch vụ logistics được quyền cầm giữ
tài sản (bản chất của các hợp đồng này đều
là dịch vụ có đối tượng là công việc phải
thực hiện). Sự không thống nhất trong hai
văn bản luật này không chỉ tạo ra khó khăn
trong quá trình áp dụng, mà còn cho thấy sự
thiếu sót trong quy định của luật về các
trường hợp phát sinh quyền cầm giữ. Để
khắc phục tình trạng này, tác giả cho rằng
cần mở rộng phạm vi áp dụng quyền cầm
giữ tài sản ở cả các hợp đồng có đối tượng
là tài sản và cả các hợp đồng có đối tượng là
công việc phải thực hiện. Điều này có thể
thực hiện khi sửa đổi các văn bản luật này
theo hướng ghi nhận chung ở cả hai văn bản
hoặc ghi nhận thống nhất trong BLDS.
ii) BLDS không ghi nhận quyền của
bên cầm giữ được định đoạt tài sản cầm giữ.
Trong khi đó LTM cho phép bên kinh doanh
dịch vụ logictics thực hiện việc định đoạt tài
sản, cụ thể như sau: “Sau thời hạn bốn mươi
lăm ngày kể từ ngày thông báo cầm giữ hàng
hoá hoặc chứng từ liên quan đến hàng hoá,
nếu khách hàng không trả tiền nợ thì thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền
định đoạt hàng hoá hoặc chứng từ đó theo
quy định của pháp luật; trong trường hợp
hàng hoá có dấu hiệu bị hư hỏng thì thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền
định đoạt hàng hoá ngay khi có bất kỳ khoản
nợ đến hạn nào của khách hàng”18. Việc
định đoạt hàng hoá hoặc chứng từ này nhằm
bảo đảm việc thanh toán các khoản nợ và các
chi phí có liên quan mà bên có hàng hoá bị
cầm giữ chưa thực hiện. Có lẽ đây là điểm
khác biệt cơ bản và quan trọng nhất về cầm
giữ tài sản. Chúng tôi cho rằng, việc ghi
nhận thời hạn cầm giữ và trao quyền định
đoạt hàng hoá cho bên cầm giữ như LTM là
phù hợp với mục đích của việc đặt ra quyền
này. Bởi lẽ, trong nhiều trường hợp, nếu
LTM không quy định thời hạn cầm giữ tối
đa và không cho phép định đoạt tài sản như
BLDS sẽ khiến cho mục đích của cầm giữ
tài sản không đạt được. Thậm chí, đối với
một số trường hợp, việc cầm giữ vừa không
bảo đảm được quyền lợi cho bên có quyền,
vừa khiến bên có tài sản phải gánh chịu thêm
các chi phí liên quan đến việc gửi giữ, bảo
quản tài sản. Do đó, tác giả cho rằng, cần
phải hoàn thiện các quy định trong BLDS
theo hướng trao cho bên cầm giữ quyền
được xử lý tài sản cầm giữ sau một thời hạn
nhất định. Chỉ khi ghi nhận quyền này thì
biện pháp cầm giữ mới thể hiện được giá trị
đích thực và mới thể hiện được bản chất của
một biện pháp bảo đảm.
Về trách nhiệm khi giao tài sản
không đúng thoả thuận
i) Về trách nhiệm liên quan đến khuyết
tật của tài sản (hàng hoá) trong hợp đồng
mua bán
BLDS ghi nhận 3 trường hợp bên bán
không phải chịu trách nhiệm về khuyết tật
của vật mua bán đó là: khuyết tật mà bên
mua đã biết hoặc phải biết khi mua; vật bán
đấu giá, vật bán ở cửa hàng đồ cũ; bên mua
có lỗi gây ra khuyết tật của vật19. Tuy nhiên,
LTM chỉ ghi nhận một trường hợp bên bán
không phải chịu trách nhiệm về khuyết tật
của hàng hoá đó là “vào thời điểm giao kết
hợp đồng bên mua đã biết hoặc phải biết về
99Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
18 Xem khoản 2 Điều 239 LTM năm 2005
19 Xem thêm Khoản 3 Điều 445 BLDS năm 2015.
những khiếm khuyết đó”20. Sự không thống
nhất này có thể dẫn đến các cách hiểu khác
nhau trên thực tế. Cách thứ nhất, có thể hiểu
rằng, với hợp đồng mua bán hàng hoá, bên
bán chỉ không phải chịu trách nhiệm trong
một trường hợp đã được LTM quy định.
Cách thứ hai, có thể hiểu rằng, các trường
hợp khác mà LTM không quy định sẽ được
áp dụng quy định của BLDS để giải quyết,
tức là bên bán cũng không phải chịu trách
nhiệm về khuyết tật của hàng hoá vật bán
đấu giá, vật bán ở cửa hàng đồ cũ, bên mua
có lỗi gây ra khuyết tật. Vì vậy, theo tác giả,
để quy định của luật được áp dụng thống
nhất trên thực tế, cần phải có phương án
hoàn thiện sự không thống nhất giữa hai văn
bản luật nêu trên. Hướng hoàn thiện có thể
là liệt kê thêm các trường hợp mà bên bán
hàng hoá không phải chịu trách nhiệm về
khuyết tật của hàng hoá, hoặc bổ sung quy
định dẫn chiếu đến BLDS.
ii) Về trách nhiệm giao tài sản (hàng
hoá) không đúng số lượng
Khoản 2 Điều 437 BLDS quy định:
“Trường hợp bên bán giao ít hơn số lượng
đã thỏa thuận thì bên mua có một trong các
quyền sau đây: Nhận phần đã giao và định
thời hạn để bên bán giao tiếp phần còn thiếu;
Nhận phần đã giao và yêu cầu bồi thường
thiệt hại; Hủy bỏ hợp đồng và yêu cầu bồi
thường thiệt hại nếu việc vi phạm làm cho
bên mua không đạt được mục đích giao kết
hợp đồng”. Trong khi đó, khoản 1 Điều 40
LTM lại quy định: “Trừ trường hợp có thỏa
thuận khác, nếu hợp đồng chỉ quy định thời
hạn giao hàng và không xác định thời điểm
giao hàng cụ thể mà bên bán giao hàng trước
khi hết thời hạn giao hàng và giao thiếu hàng
hoặc giao hàng không phù hợp với hợp đồng
thì bên bán vẫn có thể giao phần hàng còn
thiếu hoặc thay thế hàng hoá cho phù hợp
với hợp đồng hoặc khắc phục sự không phù
hợp của hàng hoá trong thời hạn còn lại”.
Như vậy, LTM cho phép bên bán có
thể giao bổ sung hoặc khắc phục sai sót
trong quá trình giao kết hợp đồng nếu thời
hạn giao hàng vẫn còn mà các bên không có
thoả thuận khác. Trong khi BLDS không ghi
nhận về vấn đề giao bổ sung hoặc khắc phục
sai sót trong quá trình thực hiện hợp đồng
mua bán. Vậy quy định nào phù hợp hơn với
thực tế, chúng ta cùng xem xét ví dụ sau đây:
Theo thoả thuận trong hợp đồng mua bán,
ngày 15/4/2019 A phải giao đầy đủ tài sản
cho B, nhưng A lại giao tài sản vào ngày
10/4/2019 và được B đồng ý. Tuy nhiên, khi
giao xong B phát hiện số lượng không đúng
thoả thuận. Vậy A có được giao bổ sung hay
không được giao bổ sung?
Về vấn đề này, chúng ta cần căn cứ
thêm quy định tại khoản 2 Điều 278 BLDS:
“Trường hợp bên có nghĩa vụ đã tự ý thực
hiện nghĩa vụ trước thời hạn và bên có quyền
đã chấp nhận việc thực hiện nghĩa vụ thì
nghĩa vụ được coi là đã hoàn thành đúng thời
hạn”. Theo quy định này, khi đã giao tài sản
trước thời hạn thì thời hạn giao tài sản được
thay đổi so với thoả thuận ban đầu và đó
chính là thời điểm giao tài sản trên thực tế.
Có thể coi đây là một trường hợp thoả thuận
thay đổi thời hạn giao tài sản mua bán.
Những phân tích trên cho thấy, quy
định của BLDS là phù hợp hơn và rõ ràng
trong các trường hợp.
3. Sự không thống nhất trong các quy
định về chế tài do vi phạm hợp đồng
BLDS và LTM đều quy định về phạt
vi phạm và bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng. Song quy định trong hai văn bản
này có những điểm khác biệt cơ bản về mức
phạt vi phạm.
Đối với các hợp đồng dân sự thuần
tuý, phạt vi phạm hợp đồng được áp dụng
theo Điều 418 BLDS và mức phạt vi phạm
do các bên thoả thuận mà không bị giới hạn.
Đối với các loại hợp đồng thương mại, phạt
vi phạm hợp đồng được áp dụng theo Điều
300 và 301 LTM. Theo đó, các bên trong
Số 2+3(402+403) - T1+2/2020100 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
20 Xem thêm khoản 1 Điều 40 LTM năm 2005.
hợp đồng thương mại không được thoả
thuận mức phạt quá cao so với quy định. Đối
với hợp đồng dịch vụ giám định, mức phạt
vi phạm do các bên thoả thuận có thể lên đến
10 lần thù lao dịch vụ giám định, tức là có
thể gấp 10 lần giá trị hợp đồng21. Đối với các
hợp đồng thương mại còn lại, mức phạt vi
phạm hợp đồng không vượt quá 8% giá trị
phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm22.
Trường hợp các bên thoả thuận mức phạt cao
hơn mức phạt giới hạn nhưng không phát
sinh tranh chấp thì các bên vẫn thực hiện
theo thoả thuận này23. Do đó, mức phạt giới
hạn này chỉ thực sự có giá trị khi các bên
phát sinh tranh chấp liên quan đến khoản
tiền phạt vi phạm và được giải quyết tại cơ
quan có thẩm quyền.
Về bản chất, quan hệ thương mại cũng
là một trường hợp cụ thể của quan hệ pháp
luật dân sự, đặc biệt là đối với trường hợp
hợp đồng được giao kết giữa một bên là
thương nhân và một bên không là thương
nhân và giao kết hợp đồng không có mục
đích sinh lợi thì việc lựa chọn luật áp dụng
lại hoàn toàn phụ thuộc vào bên không phải
là thương nhân. Điều này khiến cho quy định
về giới hạn mức phạt trong LTM có thể bị
vô hiệu hoá. Hơn nữa, bản chất của quan hệ
hợp đồng là sự thoả thuận nên việc giới hạn
mức phạt đã hạn chế quyền thoả thuận của
các bên. Mặc dù việc xác định giới hạn mức
phạt vi phạm có thể bảo đảm sự dung hoà lợi
ích giữa các bên và không tạo ra sự chênh
lệch lớn về quyền của các bên, song trong
nhiều trường hợp vẫn không có ý nghĩa thực
tiễn nếu không phát sinh tranh chấp giữa các
bên. Hơn nữa, bản thân các chủ thể khi giao
kết hợp đồng đã có thể cân nhắc đến những
lợi ích có được và mất khi chấp nhận thoả
thuận về mức phạt vi phạm.
Về vấn đề bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng, khoản 3 Điều 418 BLDS
quy định: “Các bên có thể thỏa thuận về việc
bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi
phạm mà không phải bồi thường thiệt hại
hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải
bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên có
thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không
thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi
phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại thì
bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi
phạm”. Theo quy định này, khi đã có thoả
thuận về phạt vi phạm mà không có thoả
thuận về bồi thường thiệt hại thì dù có thiệt
hại xảy ra cũng không được áp dụng chế tài
bồi thường thiệt hại.
Không giống như quy định trong
BLDS, khoản 2 Điều 307 LTM quy định:
“Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi
phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng
cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường
thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy
định khác”. Theo quy định này, chế tài bồi
thường thiệt hại đương nhiên được áp dụng
nếu có thiệt hại xảy ra mà không phụ thuộc
vào việc các bên có thoả thuận áp dụng chế
tài này hay không. Tức là chế tài bồi thường
thiệt hại có thể áp dụng cùng một lúc với chế
tài phạt vi phạm2.
Tác giả cho rằng, quy định trong LTM
phù hợp hơn, vì chế tài bồi thường thiệt hại
được áp dụng dựa trên thiệt hại thực tế xảy
ra. Do đó, nếu chỉ áp dụng chế tài phạt vi
phạm thì trong nhiều trường hợp, mức phạt
vi phạm sẽ không đủ khắc phục thiệt hại xảy
ra cho người bị vi phạm. Chỉ trong trường
hợp các bên không có thoả thuận về phạt vi
phạm mà có thiệt hại do vi phạm hợp đồng
xảy ra, bên bị vi phạm mới đương nhiên
được quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Điều này khiến cho quy định của BLDS về
bồi thường thiệt hại trong các trường hợp
không có sự thống nhất. Tức là có trường
hợp chế tài bồi thường thiệt hại chỉ được áp
101Số 2+3(402+403) - T1+2/2020
NGHIÊN CỨU
LẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
21 Xem Điều 266 khoản 1 LTM năm 2005.
22 Xem Điều 301 LTM năm 2005.
23 Xem thêm Nguyễn Việt Khoa, Chế tài phạt vi phạm hợp đồng theo LTM năm 2005, Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp, số 15 năm 2011, tr.48.
dụng nếu có thoả thuận, nhưng lại có trường
hợp đương nhiên được áp dụng khi có thiệt
hại xảy ra. Do đó, tác giả cho rằng, cần sửa
đổi BLDS theo hướng ghi nhận điều kiện áp
dụng chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm
hợp đồng dựa trên thiệt hại thực tế thay vì
sự thoả thuận như hiện nay.
4. Sự không thống nhất liên quan đến việc
huỷ bỏ hợp đồng
Theo quy định tại khoản 4 Điều 312
LTM, hợp đồng chỉ có thể bị huỷ bỏ trong
hai trường hợp đó là: i) Xảy ra hành vi vi
phạm mà các bên đã thoả thuận là điều kiện
để hủy bỏ hợp đồng; ii) Một bên vi phạm cơ
bản nghĩa vụ hợp đồng. Ngoài các trường
hợp này, các bên không thể tuyên bố huỷ bỏ
hợp đồng trong bất cứ trường hợp nào.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 423
BLDS, hợp đồng có thể bị huỷ bỏ trong các
trường hợp sau: i) Bên kia vi phạm hợp đồng
là điều kiện hủy bỏ mà các bên đã thỏa
thuận; ii) Bên kia vi phạm nghiêm trọng
nghĩa vụ hợp đồng; iii) Trường hợp khác do
luật quy định.
Về cơ bản, LTM và BLDS thống nhất
với nhau ở hai trường hợp đầu tiên đó là các
bên thoả thuận vi phạm là điều kiện huỷ bỏ
và một bên vi phạm nghiêm trọng hoặc cơ
bản hợp đồng. Vi phạm nghiêm trọng và vi
phạm cơ bản đều là sự vi phạm của một bên
đến mức bên kia không đạt được mục đích
của sự vi phạm hợp đồng2. Tuy nhiên, ngoài
hai trường hợp này, BLDS còn cho phép một
bên được tuyên bố huỷ bỏ hợp đồng trong
nhiều trường hợp khác mà luật có quy định,
ví dụ một bên chậm thực hiện nghĩa vụ, do
một bên không có khả năng thực hiện nghĩa
vụ, hoặc các trường hợp mà BLDS hoặc
luật khác có liên quan có quy định khác.
Trong khi đó, ngoài hai trường hợp được ghi
nhận tại khoản 4 Điều 312 LTM, các bên
giao kết hợp đồng thương mại không được
huỷ bỏ hợp đồng trong bất cứ trường hợp
nào. Tác giả cho rằng, quy định của LTM
không phù hợp với thực tiễn, vì lợi ích là tiền
đề của mọi quan hệ pháp luật dân sự mà các
bên tham gia, trong đó bao gồm cả quan hệ
hợp đồng. Trong nhiều trường hợp, chủ thể
giao kết hợp đồng thương mại có thể không
đạt được mục đích giao kết hợp đồng nhưng
không xuất phát từ vi phạm của bên kia (ví
dụ trường hợp tài sản bị mất mát, hư hỏng
hoặc một bên không có khả năng thực hiện
hợp đồng,...). Do đó, LTM cần được bổ sung
quy định về trường hợp mà một bên có thể
huỷ bỏ hợp đồng, tương tự như BLDS n
Số 2+3(402+403) - T1+2/2020102 NGHIÊN CỨULẬP PHÁP
THỰC TIỄN PHÁP LUẬT
24 Đồng Thái Quang (2014), Chế tài phạt vi phạm hợp đồng theo LTM năm 2005 – Một số vướng mắc về lý
luận và thực tiễn, Tạp chí Toà án, số 20, tr.22.
25 Xem thêm khoản 2 Điều 423 BLDS năm 2015 và khoản 13 Điều 3 LTM năm 2005.
DANh MỤC TàI lIệu ThAM khảo
1. Nguyễn Văn Cừ & Trần Thị Huệ (đồng chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự
năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Công an nhân dân, Hà
Nội năm 2017.
2. Nguyễn Việt Khoa, Chế tài phạt vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại năm 2005,
Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 15 năm 2011, tr.48.
3. Đồng Thái Quang, Chế tài phạt vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại năm 2005 –
Một số vướng mắc về lý luận và thực tiễn, Tạp chí Toà án, số 20 năm 2014, tr.22.
4. Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội năm 2016.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- su_khong_thong_nhat_trong_quy_dinh_ve_hop_dong_giua_luat_thu.pdf