Bên đề nghị có cơ sở hợp lý để tin là đề
nghị không hủy ngang: sự tin tưởng của bên
được đề nghị có thể xuất phát từ xử sự của bên
đề nghị hoặc do tính chất của đề nghị. Hành
vi mà bên được đề nghị phải thực hiện trên cơ
sở đề nghị có thể là tiến hành việc sản xuất,
mở LC với điều kiện là những hành vi này
được coi như thường gặp trong hoạt động mua
bán hàng hóa hoặc được bên đề nghị biết trước
hoặc dự liệu trước8.
Trong khi đó, Điều 393 BLDS 2005 quy
định: “Trong trường hợp bên đề nghị giao kết
hợp đồng thực hiện quyền huỷ bỏ đề nghị do
đã nêu rõ quyền này trong đề nghị thì phải
thông báo cho bên được đề nghị và thông báo
này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận
được thông báo trước khi bên được đề nghị
trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng”.
Quy định này ngược lại với những quy định
của CISG và PICC. Theo đó, một đề nghị về
nguyên tắc sẽ không bị hủy ngang, trừ khi
quyền hủy ngang được bên đề nghị quy định
trước trong đề nghị. Mặc dù Điều 393 BLDS
2005 đưa ra thời điểm “bên được đề nghị trả
lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng” làm
căn cứ để xác định hiệu lực của thông báo hủy
bỏ đề nghị của bên đề nghị, nhưng lại không
nêu rõ thời điểm nào được coi là bên được đề
nghị trả lời chấp nhận đề nghị. Nếu bên được
để nghị trả lời chấp nhận bằng miệng, thì thời
điểm đó dễ dàng xác định là thời điểm bên đề
nghị nhận được thông báo bằng miệng, nhưng
nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận dưới
dạng văn bản (bằng thư, điện tín, fax ), thì
thời điểm bên được đề nghị trả lời là thời
điểm người đó thể hiện xong ý chí chấp nhận
của mình dưới dạng văn bản hay là thời điểm
thông báo về việc chấp nhận đề nghị được gửi
đi , đó là một điểm bế tắc của BLDS. Vì vậy,
Điều 393 BLDS 2005 cần được sửa đổi, bổ
sung theo hướng tiếp thu các giải pháp được
thừa nhận chung được quy định tại Điều 16
của CISG và Điều 2.1.4 của PICC; hoặc nếu
giữ nguyên Điều 393 thì BLDS 2005 cũng nên
quy định rõ thời điểm bên được đề nghị trả lời
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Đó là
thời điểm “bên được đề nghị gửi chấp nhận đề
nghị cho bên đề nghị”.
8 trang |
Chia sẻ: hachi492 | Ngày: 22/01/2022 | Lượt xem: 206 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến đề nghị giao kết hợp đồng trong bộ luật dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
36 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(185) 122010
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
1. Đề nghị giao kết hợp đồng
Đề nghị giao kết hợp đồng về bản chất là
một hành vi pháp lý đơn phương của một chủ
thể bày tỏ ý định giao kết hợp đồng với chủ thể
khác theo các điều kiện xác định.
1.1. Người nhận đề nghị
Đề nghị thường hướng tới một hoặc một số
người xác định. Người nhận đề nghị có thể là
một thể nhân hoặc pháp nhân: cá nhân được
xác định bởi họ tên, quốc tịch, hộ khẩu thường
trú (hoặc địa chỉ tạm trú); pháp nhân được xác
định bởi tên gọi, trụ sở và quốc tịch. Tính xác
định của người được đề nghị thường được thể
hiện khi bên đề nghị gửi đề nghị giao kết hợp
đồng, vì khi đó bên đề nghị đã xác định được
họ muốn giao kết hợp đồng với ai.
Nếu đề nghị không được gửi tới một hoặc
một số người cụ thể, nó chỉ là một phần bảng
báo giá hoặc được gửi ra ngoài theo một thông
báo rộng rãi, nó không tạo thành một đề nghị1,
như tình huống trong vụ kiện sau2:
Tóm tắt vụ kiện: Ngày 6/4/1956, bị đơn
Great Minneapolis đăng quảng cáo trên báo
của thành phố Minneapolis: 9h sáng thứ bảy,
những chiếc áo lông mới hiệu Sharp giá 100
USD, sẽ bán cho người có mặt đầu tiên với giá
1 USD. Ngày 13/4/1956, bị đơn tiếp tục đăng
quảng cáo với nội dung: khăn choàng lông thỏ
màu đen dành cho phụ nữ giá 139.50 USD, sẽ
bán cho người có mặt đầu tiên với giá 1 USD.
Vào một trong những ngày thứ bảy theo
như đã công bố trên quảng cáo, nguyên đơn
Lefkowitz là người đầu tiên có mặt tại cửa hiệu
của bị đơn và trong mỗi thời điểm, nguyên đơn
yêu cầu bị đơn bán áo choàng và khăn như đã
quảng cáo. Trong cả hai thời điểm, bị đơn từ
chối bán hàng trưng bày cho nguyên đơn và
tuyên bố trong thời điểm thứ nhất rằng, do một
quy tắc của hãng, quảng cáo được đưa ra và chỉ
bán cho phụ nữ. Do đó, nguyên đơn đã kiện bị
đơn ra tòa vì cho rằng, bị đơn đã không thực
hiện đúng cam kết đã nêu trong quảng cáo.
NGUYễN VĂN PHÁI *
Đề nghị giao kết hợp đồng là một vấn đề quan trọng của hợp đồng. Vì vậy, Công ước Viên về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế của Liên hiệp quốc năm 1980 (CISG), Bộ nguyên tắc về hợp đồng thương mại
quốc tế của UNIDROIT năm 2004 (PICC) và Bộ luật Dân sự năm 2005 của Việt Nam (BLDS 2005) đều có những
quy định về vấn đề này. Qua những tình huống thực tiễn, chúng tôi tập trung phân tích, so sánh những quy
định về đề nghị giao kết hợp đồng trong các văn bản trên để đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy
định của BLDS về đề nghị giao kết hợp đồng.
SỬA ĐỔI, BỔ SUNG
CÁC QUY ĐịNH LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ NGHị GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ
(*) ThS. Khoa Quan hệ quốc tế, Đại học KHXH&NV TP Hồ Chí Minh.
(1) Steven Emanuel and Steven Knowles (1991), Contracts(Fourth Edition), Emanuel Law Outlines, Inc, New York, p10.
(2) Nguồn:
Số 24(185) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 3712
2010
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Giải pháp của luật: đối với tình huống
trên, trong khi PICC không có quy định nào
liên quan đến tính xác định của người được đề
nghị, thì điều 14, 15, 24 của CISG quy định:
“một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay
nhiều người xác định được coi là một chào
hàng”; “chào hàng có hiệu lực khi nó tới nơi
người được chào hàng” hoặc được coi là có
hiệu lực khi “được giao bằng bất cứ phương
tiện nào cho chính người được chào hàng tại
trụ sở thương mại của họ, tại địa chỉ bưu chính
hoặc nếu họ không có trụ sở thương mại hay
địa chỉ bưu chính thì gửi tới nơi thường trú của
họ”. Dấu hiệu để xác định người mà bên đưa
ra đề nghị muốn hướng tới được thể hiện ngay
khi bên đề nghị “gửi” đề nghị, đó là tên của
pháp nhân hoặc thể nhân, địa chỉ trụ sở thương
mại, địa chỉ bưu chính hoặc địa chỉ thường
trú của bên đó, tức là bên đề nghị đã biết rõ
bên được đề nghị là ai khi họ “gửi” đề nghị.
Như vậy, quảng cáo của Great Minneapolis
chỉ là một lời mời chào hàng chứ không phải
là một đề nghị giao kết hợp đồng, vì nó hướng
tới công chúng, một tập hợp người không xác
định. Khi đăng quảng cáo, Great Minneapolis
không biết được ai sẽ đọc quảng cáo cũng như
không thể biết Lefkowitz sẽ là “người đầu tiên
tới cửa hàng” trong vô số những người đã đọc
quảng cáo và tới cửa hàng Great Minneapolis
để mua các sản phẩm lông thú.
Nếu đặt ví dụ trên vào hoàn cảnh của Việt
Nam thì rất khó giải quyết vì Điều 390 BLDS
2005 quy định: “Đề nghị giao kết hợp đồng là
việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và
chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề
nghị đối với bên đã được xác định cụ thể”. Tính
xác định của bên được đề nghị được giải thích
căn cứ hoàn toàn vào ý chí của bên đưa ra đề
nghị. Lefkowitz có thể coi là không được xác
định cụ thể theo cách lập luận ở trên khi vận
dụng CISG giải quyết tình huống này; nhưng
cũng có thể là được xác định nếu dựa vào tiêu
chí “người đầu tiên tới cửa hàng” như cách
lập luận của Lefkowitz. Khi đó, việc lựa chọn
phương án nào lại phụ thuộc vào cảm tính của
thẩm phán. Đó chính là hạn chế trong kỹ thuật
lập pháp của Điều 390 BLDS 2005, bởi theo
lý thuyết chung thì quy phạm pháp luật phải rõ
ràng và đơn nghĩa để đảm bảo cho pháp luật
được hiểu và áp dụng một cách thống nhất.
Vì vậy, chúng tôi cho rằng, Điều 390 BLDS
2005 cần được sửa đổi, bổ sung theo hướng
quy định rõ “tính xác định cụ thể của người
được đề nghị” để tránh trường hợp nó được
hiểu theo nhiều nghĩa, gây khó khăn trong hoạt
động áp dụng pháp luật. Theo đó, cần bổ sung
quy định “một bên được coi là xác định cụ thể
khi bên đề nghị gửi đề nghị của mình, bằng các
tiêu chí khách quan xác định được rõ bên mà
đề nghị sẽ được gửi tới” vào Điều 390 BLDS
2005 hoặc quy định giống Điều 14 của CISG.
1.2 Sự xác định của đề nghị
Một đề nghị phải xác định rõ ràng, nếu
không, nó không được coi là một đề nghị giao
kết hợp đồng mà chỉ là một đề nghị thương
lượng hợp đồng. Tính xác định của một đề
nghị thể hiện ở nội dung của nó, đề nghị phải
thể hiện rõ các nội dung cơ bản của hợp đồng,
để đảm bảo rằng khi bên được đề nghị trả lời
chấp nhận đề nghị thì hợp đồng được giao kết
với nội dung được xác định trong đề nghị.
Nhưng trên thực tế, không phải đề nghị giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa nào cũng quy
định rõ ràng, chi tiết về hàng hóa, chất lượng
và giá cả của hàng hóa. Liệu rằng một sự áng
chừng về số lượng hay chất lượng hàng hóa có
được coi là rõ ràng hay không, như tình huống
trong vụ kiện sau3:
Tóm tắt vụ kiện: Tháng 3/1991, tại một
cuộc triển lãm ở Fuerstenstein (Đức), bị đơn -
một công ty có trụ sở tại Áo - đặt hàng nguyên
đơn, người nuôi chồn Chinchilla ở Đức một
số lượng lớn các bộ lông chồn Chinchilla. Các
bên thỏa thuận những bộ lông chồn Chinchilla
có chất lượng trung bình và cao hơn mức trung
bình, sẽ có mức giá trong khoảng 35 đến 65
DM mỗi bộ. Đầu tháng 4/1991, nguyên đơn
đóng gói 249 bộ lông chồn Chinchilla, trong
(3) Nguồn:
38 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(185) 122010
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
đó có 236 bộ có chất lượng trung bình và 13 bộ
có chất lượng thấp hơn gửi cho bị đơn. Ngày
6/4/1991, sau khi nhận được hàng, bị đơn giao
hàng cho một nhà buôn của Italia mà không
mở ra kiểm tra. Nhà buôn Italia chỉ thanh toán
236 bộ lông có chất lượng trung bình và gửi trả
13 bộ lông có chất lượng kém hơn cho bị đơn.
Sau đó, bị đơn than phiền về 13 bộ lông đã bị
trả lại và chuyển cho nguyên đơn 2,400 DM,
theo mức giá không quá 10 DM một bộ lông
chồn, trong khi những bộ lông chồn có chất
lượng trung bình đã được bán với mức giá 60
DM một bộ. Do đó, nguyên đơn kiện bị đơn
đòi thanh toán 9,500 DM còn lại; nguyên đơn
tính 50 DM trên mỗi bộ lông chồn.
Vấn đề pháp lý: Trong vụ kiện này, bị đơn
cho rằng “đặt hàng với số lượng lớn” và thỏa
thuận “những bộ lông chồn Chinchilla có
chất lượng trung bình và cao hơn mức trung
bình sẽ có mức giá trong khoảng 35 đến 65
DM trên mỗi bộ” là thiếu những sự xác định
cần thiết về số lượng và giá cả của hàng hóa,
cần bị từ chối.
Tòa án (tòa sơ thẩm, phúc thẩm, tòa án tối
cao Áo) đã dựa vào các quy định của CISG để
xác định tính rõ ràng về số lượng và giá cả trong
đặt hàng của bị đơn vào tháng 3/1991. Tòa án
lập luận rằng, bằng cách đặt hàng nguyên đơn
một số lượng lớn những bộ lông chồn có chất
lượng trung bình hoặc cao hơn trong mức giá
từ 35 đến 65 DM vào tháng 3/1991, bị đơn
đã đưa ra một đề nghị tới nguyên đơn về việc
giao kết hợp đồng, đề nghị đó được xác định
rõ ràng về hàng hóa, chất lượng và số lượng.
Nguyên đơn đã chấp nhận chào hàng này, do
đó, hợp đồng mua bán đã được ký kết giữa
hai bên. Mức giá thỏa thuận nằm trong khoảng
từ 35 đến 65 DM không ảnh hướng tới giá trị
của hợp đồng ký kết. Theo Điều 55 của CISG,
nó được xem như là một hợp đồng được ký
kết nhưng không quy định hoặc ấn định giá cả
hoặc đưa ra cách xác định giá, trong sự thiếu
vắng bất kỳ sự chỉ dẫn về sự trái ngược, các
bên được coi như có sự tham chiếu mặc nhiên
tới giá cả chung vào thời điểm hợp đồng được
ký kết đối với hàng hóa được bán trong điều
kiện thương mại liên quan. Các bên đã tham
chiếu tới giá chung cho những bộ lông chồn
được bán cho người mua. Theo hợp đồng và
CISG, bị đơn có nghĩa vụ thanh toán giá giao
dịch cho nguyên đơn tại trụ sở kinh doanh của
nó ngay sau khi nguyên đơn giao hàng cho bị
đơn. Như đã được thiết lập rằng những bộ lông
chồn có chất lượng trung bình được mua bán
trong thị trường ở mức giá 60 DM và thích
đáng với thực tế rằng quyết định của tòa án sơ
thẩm, quy định giá của mỗi bộ lông là 50 DM
không bị nghi ngờ. Điểm quan trọng nhất được
đưa ra để xem xét là hành vi bán hàng cuối
cùng của người mua trong việc giao những bộ
lông từ một số lượng nhỏ, không đề xuất bất
cứ sự phản đối nào về số lượng của hàng hóa
được giao. Dựa trên hành vi cuối cùng của các
bên, nó được xem rằng đặt hàng một số lượng
lớn được coi như là xác định rõ ràng. Theo các
nguyên tắc trên, yêu cầu về xác định giá cả
thỏa thuận theo Điều 14 CISG đã được đáp
ứng trong vụ việc này. Bằng việc thỏa thuận
một phạm vi giá cả giữa 35 và 65 DM cho mỗi
bộ lông có chất lượng trung bình hoặc cao hơn,
các bên đã đưa ra tiêu chuẩn rõ ràng, từ đó
một giá xác định có thể được tính dựa vào chất
lượng của bộ lông được giao. Thỏa thuận về
giá này có thể được xem là rõ ràng theo nghĩa
của Điều 14 CISG. Hợp đồng đã được ký kết
với một số lượng có thể xác định ít hơn và mức
giá có thể xác định thấp hơn.
Giải pháp của luật: khi nghiên cứu pháp
luật giải quyết vụ án trên, ta thấy có sự khác
biệt rất lớn giữa Điều 14 của CISG với Điều
390 BLDS 2005 và Điều 2.1.2 của PICC trong
việc đưa ra tiêu chí để đánh giá mức độ xác
định của một đề nghị giao kết hợp đồng mua
bán hàng hóa.
Khoản 1 Điều 14 của CISG quy định rất
chi tiết: “Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho
một hay nhiều người xác định được coi là một
chào hàng nếu có đủ chính xác và nếu nó chỉ rõ
ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc
mình trong trường hợp có sự chấp nhận chào
hàng đó. Một đề nghị là đủ chính xác khi nó
nêu rõ hàng hóa và ấn định số lượng về giá cả
Số 24(185) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 3912
2010
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc quy định
thể thức xác định những yếu tố này”. Khoản 1
Điều 390 BLDS 2005 quy định “Đề nghị giao
kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết
hợp đồng”. Theo đó, tính xác định của đề
nghị giao kết hợp đồng phụ thuộc vào mức độ
rõ ràng trong việc diễn đạt ý định của bên đưa
ra đề nghị, thông thường trong hợp đồng mua
bán hàng hóa, thì bên đề nghị thường thể hiện
rõ ý định của mình về số lượng, chất lượng
và giá cả hàng hóa mà mình muốn mua hoặc
muốn bán, nhưng BLDS 2005 không có quy
định nào tạo cơ sở pháp lý cho việc giải thích ý
chí của bên đưa ra đề nghị như cách giải thích
nêu trên.
Còn Điều 2.1.2 của PICC quy định “Một đề
nghị được gọi là đề nghị giao kết hợp đồng nếu
nó đủ rõ ràng và thể hiện ý chí của bên đưa ra
đề nghị bị ràng buộc khi đề nghị giao kết được
chấp nhận” theo đó tính xác định của đề nghị
phụ thuộc và tiêu chí “đủ rõ ràng”. Và theo
khoản 2 Điều 4.1 của PICC, thì tiêu chí đủ rõ
ràng có thể “được giải thích theo cách hiểu của
một người bình thường có cùng phẩm chất và
ở cùng hoàn cảnh với người tuyên bố và thực
hiện hành vi”. Như vậy, nếu áp dụng Điều 14
của CISG và Điều 2.1.2 của PICC thì sẽ có
cách giải thích thỏa đáng dựa vào hoàn cảnh
trong mối quan hệ cụ thể của hai bên. Trong vụ
án trên, khi bị đơn đặt mua “một số lượng lớn
các bộ lông chồn” tức là bị đơn đưa ra cách xác
định số lượng dựa trên khả năng cung cấp của
nguyên đơn, do đó, đặt hàng của bị đơn là xác
định về số lượng.
Tuy nhiên, nếu áp dụng Điều 390 BLDS
2005 để giải quyết vụ kiện trên thì sẽ rơi vào
bế tắc vì chúng ta không giải quyết được liệu
rằng khi bị đơn đặt “một số lượng lớn các bộ
lông chồn” thì ý định của bị đơn là muốn mua
bao nhiêu bộ lông chồn? Nó có được coi là
một cách xác định số lượng hàng hóa trong
đề nghị giao kết hợp đồng hay không? Vì vậy,
theo chúng tôi, Điều 390 BLDS 2005 cần được
hỗ trợ bằng một nguyên tắc nhằm giải thích ý
chí của các bên tham gia hợp đồng như giải
pháp của PICC, nguyên tắc đó có thể được quy
định như nguyên tắc được đưa ra tại Điều 8
Khoản 2 của CISG là: “Tuyên bố cách xử sự
khác của một bên được giải thích theo nghĩa
mà một người có lý trí, nếu người đó được đặt
vào vị trí của phía bên kia trong những hoàn
cảnh tương tự cũng sẽ hiểu như thế”.
1.3. Mong muốn được ràng buộc
Đề nghị phải thể hiện rõ ý định giao kết
hợp đồng và mong muốn được ràng buộc của
bên đưa ra đề nghị đối với bên được đề nghị về
những nội dung của đề nghị. Điều này thể hiện
ở chỗ khi đề nghị được gửi tới cho bên được đề
nghị làm cho bên được đề nghị tin tưởng rằng
chỉ cần trả lời chấp nhận là hợp đồng được ký
kết, sự chắc chắn đó tạo ra những ràng buộc
pháp lý đối với bên đưa ra đề nghị. Để xác
định ý chí mong muốn bị ràng buộc, người ta
dựa vào các tiêu chí: cách thức bên đề nghị
trình bày một đề nghị (ví dụ: cách quy định rõ
đó là bản “đề nghị giao kết” hoặc đơn giản chỉ
là “lời mời thảo luận”), nội dung của đề nghị
và bên nhận đề nghị4.
Nói chung, đề nghị càng chi tiết, cụ thể thì
càng có nhiều cơ hội được xem như một đề
nghị giao kết hợp đồng. Do mong muốn này
ít khi được tuyên bố rõ ràng, nên thường phải
diễn giải từ các tình huống cụ thể và dựa theo
quy định của pháp luật, như tình huống trong
vụ kiện giữa nguyên đơn là một công ty TNHH
được thành lập và hoạt động theo luật của Đức,
có trụ sở tại Solingen Đức và bị đơn - một công
ty TNHH, có trụ sở tại Thụy Sĩ được giải quyết
tại Tòa án thương mại Handelsgericht Aargau
Thụy Sĩ vào ngày 26/9/19975.
Tóm tắt vụ kiện: Từ năm 1991, bị đơn
thường xuyên mua những bộ kéo của nguyên
đơn và bán lại chúng ở Thụy Sĩ theo cách bị
đơn đặt hàng trước cho nguyên đơn và sau đó
(thông thường là ba tuần) thông báo lại cho
nguyên đơn số lượng, chất lượng hàng hóa và
(4) Nhà pháp luật Việt Pháp,Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về Hợp đồng thương mại Quốc tế 2004, Nxb. Tư pháp, tr. 82.
(5) Nguồn:
40 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(185) 122010
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
ngày giao hàng cụ thể. Sau khi bị đơn đặt hàng,
hàng sẽ được sản xuất với những mẫu mã và
dấu hiệu riêng của bị đơn và sẽ được nguyên
đơn giao theo đúng số lượng, chất lượng và
thời gian mà bị đơn thông báo.
Ngày 10/4/1992, bị đơn đặt nguyên đơn
sản xuất kéo. Ngày 24/4/1992, đại diện hai
bên gặp gỡ trao đổi. Trong cuộc họp, bị đơn đã
nhấn mạnh việc cung cấp độc quyền những bộ
kéo của nguyên đơn, bị đơn không muốn đối
mặt với việc cạnh tranh từ việc đặt hàng các
loại kéo tương tự. Ngày 24/4/1992, nguyên
đơn gửi thư cho bị đơn đảm bảo cung cấp độc
quyền những bộ kéo theo mẫu 580.
Ngày 26/5/1992, bị đơn fax cho nguyên
đơn một thông báo yêu cầu sản xuất những
bộ kéo được mạ vàng một phần và đóng nhãn
theo dấu hiệu riêng của bị đơn, trong đó ghi số
lượng cụ thể và thời gian dự kiến cho việc giao
hàng (chuẩn bị cho việc giao hàng lần thứ nhất
gồm 150 bộ kéo theo mẫu 580 đến hạn vào
tháng 10/1992), đồng thời bị đơn còn hỏi dứt
khoát cho việc xác nhận đặt hàng liên quan tới
ngày giao hàng.
Trong fax trả lời ngày 12/6/1992, nguyên
đơn dẫn chiếu tới đơn đặt hàng của bị đơn
ngày 26/5/1992. Nguyên đơn xác nhận với bị
đơn rằng, giá cả hiện tại trên mỗi món hàng sẽ
áp dụng và việc giao hàng sẽ được thực hiện
trong ngày theo yêu cầu của bị đơn như thông
lệ mà hai bên đã thiết lập. Sau đó, bị đơn đã
không thông báo lại cho nguyên đơn về việc
giao hàng như thông lệ giữa hai bên. Tháng
9/1993, nguyên đơn giao hàng cho bị đơn,
nhưng bị đơn từ chối nhận. Ngày 12/10/1993,
nguyên đơn gửi bị đơn hóa đơn thanh toán cho
chi phí của việc không giao được hàng, nhưng
bị đơn từ chối. Ngày 21/2/1996, nguyên đơn
kiện bị đơn ra tòa đòi bồi thường. Nguyên
đơn cho rằng đơn đặt hàng ngày 10/4/1992
và 25/6/1992 của bị đơn đã thể hiện rõ mong
muốn ký kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về
mặt pháp lý đối với mặt hàng đó. Còn bị đơn
lại cho rằng những bản fax hai ngày nói trên
thực chất chỉ là những đề nghị thương lượng
hợp đồng, thể hiện mong muốn của bị đơn sẽ
đặt hàng trong tương lai, do đó, nó không có
tính ràng buộc đối với bị đơn.
Quyết định của tòa án: Tòa án dựa trên quy
định của Điều 8 của CISG “tuyên bố hoặc
hành vi của một bên được giải thích theo ý
muốn của anh ta trong tình huống bên kia biết
hoặc không thể không biết mong muốn của
anh ta là gì Khi xác định ý muốn của một
bên hoặc cách hiểu của một người có lý trí sẽ
hiểu thế nào, cần phải tính đến mọi tình tiết
liên quan, kể cả các cuộc đàm phán, mọi thực
tế mà các bên đã có trong mối quan hệ tương
hỗ của họ, các tập quán và mọi hành vi sau đó
của hai bên” và thông lệ được thiết lập giữa
hai bên từ năm 1991 để giải thích mong muốn
được ràng buộc của bị đơn thể hiện trong các
tuyên bố thông qua các bản fax ngày 10/4/1992
và 26/5/1992.
Giải pháp của luật: định nghĩa về đề nghị
giao kết hợp đồng trong các văn bản pháp luật
đều đưa ra điều kiện đối với đề nghị giao kết,
đó là mong muốn được ràng buộc của bên đưa
ra đề nghị, cụ thể: Điều 14 của CISG quy định:
“Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một
hay nhiều người xác định được coi là một chào
hàng nếu có đủ chính xác và nếu nó chỉ rõ ý
chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc
mình trong trường hợp có sự chấp nhận chào
hàng đó”.
Điều 2.1.2 PICC quy định: “Một đề nghị
được gọi là đề nghị giao kết hợp đồng nếu nó
đủ rõ ràng và thể hiện ý chí của bên đưa ra đề
nghị bị ràng buộc khi đề nghị giao kết được
chấp nhận”. Còn theo Khoản 1 Điều 390 BLDS
2005, thì “Đề nghị giao kết hợp đồng là việc
thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu
sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị
đối với bên đã được xác định cụ thể” và “trong
trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu
rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết
hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ
bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường
thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được
giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh”.
Tuy nhiên, khi giải quyết tình huống trong
vụ kiện trên, các văn bản lại có những giải
Số 24(185) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 4112
2010
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
pháp khác nhau: CISG dựa vào các nguyên
tắc nêu ra tại Điều 8 như là giải pháp chỉ rõ
mong muốn của bên đưa ra đề nghị bởi sự giải
thích một tuyên bố hoặc hành vi theo đoạn (1)
hay (2) của Điều 8. Theo hiệu lực của đoạn
(3) Điều 8, mong muốn này có thể được thiết
lập bởi tất cả những tình huống liên quan, bao
gồm các tuyên bố hay các cách ứng xử khác
trong quá trình đàm phán và ứng xử của các
bên trước khi ký kết hợp đồng6 thì nội dung
bản fax ngày 26/5/1992 của bị đơn cấu thành
một chào hàng (thể hiện mong muốn được
ràng buộc của bị đơn) cho hợp đồng mua bán
hàng hóa, trong đó việc giao hàng được thực
hiện nhiều lần theo lệnh giao hàng của bị đơn.
Còn khi áp dụng Điều 2.1.2 của PICC để xác
định bên bị đơn có mong muốn bị ràng buộc
theo nội dung bản fax ngày 26/5/1992 hay
không thì chúng ta dựa vào nguyên tắc được
nêu trong Điều 4.1 để giải thích ý định của bị
đơn, nhưng giải pháp này không tối ưu bằng
cách giải quyết của CISG khi dựa vào nguyên
tắc của Điều 8.
Khi áp dụng Điều 390 BLDS 2005 để giải
quyết tình huống nêu trên, Tòa án sẽ lúng túng
trước lập luận của hai bên nhằm giải thích
cho ý định của bị đơn thể hiện trong nội dung
bản fax ngày 26/5/1992, bởi vì Tòa án không
có cơ sở pháp lý vững chắc nào để phản bác
một trong hai lập luận đó. Mặt khác, đơn đặt
hàng ngày 26/5/1992 không ấn định thời hạn
trả lời chấp nhận nên tòa án không thể viện
dẫn Khoản 2 Điều 390 BLDS 2005 để tuyên
bố bị đơn có mong muốn được ràng buộc đối
với đơn đặt hàng ngày 26/5/1992. Vì vậy, để
xác định mong muốn được ràng buộc của bên
đề nghị khi đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng,
BLDS 2005 trong phần quy định về đề nghị
giao kết hợp đồng nên tiếp thu giải pháp được
đưa ra tại Điều 8 của CISG, đó là “tuyên bố và
cách xử sự khác của một bên được giải thích
theo đúng ý định của họ nếu bên kia đã biết
hoặc không thể không biết ý định ấy. Nếu điểm
trên không được áp dụng thì tuyên bố cách xử
sự khác của một bên được giải thích theo nghĩa
mà một người có lý trí, nếu người đó được đặt
vào vị trí của phía bên kia trong những hoàn
cảnh tương tự, cũng sẽ hiểu như thế. Khi xác
định ý muốn của một bên hoặc cách hiểu của
một người có lý trí sẽ hiểu thế nào, cần phải
tính đến mọi tình tiết liên quan, kể cả các cuộc
đàm phán, mọi thực tế mà các bên đã có trong
mối quan hệ tương hỗ của họ, các tập quán và
mọi hành vi sau đó của hai bên”.
2. Thay đổi, rút lại và hủy bỏ đề nghị
2.1. Thay đổi, rút lại đề nghị
Thực tế cho thấy, đến khi đề nghị có hiệu
lực, bên đề nghị có quyền đổi ý và quyết định
không giao kết hợp đồng nữa hoặc thay thế
đề nghị ban đầu bằng một đề nghị khác, mà
không quan tâm xem đề nghị ban đầu có được
coi là có thể hủy ngang hay không.
Ví dụ: A gửi cho B một đề nghị giao kết
hợp đồng. Ngay sau đó, A thay đổi ý định và
gửi B một thông báo về việc rút lại đề nghị vừa
mới gửi. Trong tình huống trên, có hai vấn đề
pháp lý đặt ra: trường hợp nào thì thông báo
rút lại đề nghị của A có hiệu lực; hình thức của
thông báo rút lại có phải tuân theo hình thức đã
đưa ra đề nghị hay không.
Khi giải quyết hai vấn đề pháp lý trên thì
CISG, PICC và BLDS 2005 đưa ra các giải
pháp giống nhau. Khoản 2 Điều 15 của CISG
quy định: “Chào hàng dù là loại chào hàng cố
định, vẫn có thể bị rút lại nếu như thông báo
về việc rút lại chào hàng đến người được chào
hàng trước hoặc cùng lúc với chào hàng”. Còn
theo Điều 2.1.3 của PICC, thì “đề nghị giao
kết hợp đồng, kể cả không thể hủy ngang, có
thể được rút lại nếu việc rút lại đề nghị đến
người nhận trước hoặc cùng lúc với đề nghị”.
Điều 392 BLDS 2005 quy định: “Bên đề nghị
giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề
nghị giao kết hợp đồng trong các trường hợp
sau đây: a) Nếu bên được đề nghị nhận được
thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị
trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề
(6) UNCITRAL (2008), Digest of Case Law on the United Nations Convention on the International Sale of Goods, New York, p. 58
42 INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI Số 24(185) 122010
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
nghị; b) Điều kiện thay đổi hoặc rút lại đề nghị
phát sinh trong trường hợp bên đề nghị có nêu
rõ về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị
khi điều kiện đó phát sinh”. Theo đó, điều kiện
duy nhất là bên B phải nhận được thông báo
rút lại đề nghị của bên A trước hoặc cùng thời
điểm mà bên B nhận được đề nghị ban đầu.
Tuy nhiên, điểm b Khoản 1 Điều 392 BLDS
còn bổ sung thêm trường hợp: bên đề nghị có
thể rút lại đề nghị nếu điều kiện thay đổi hoặc
rút lại đề nghị phát sinh trong trường hợp bên
đề nghị nói rõ về việc thay đổi hoặc rút lại đề
nghị khi điều kiện đó phát sinh. Quy định này
tạo ra ưu thế pháp lý tuyệt đối cho bên đề nghị,
khi bên đề nghị có thể áp đặt ý chí của mình
đối với bên được đề nghị bằng cách ấn định
trước điều kiện thay đổi, rút lại đề nghị. Trước
khi hợp đồng được ký kết, vào bất cứ thời điểm
nào mà điều kiện về việc thay đổi hoặc rút lại
đề nghị (do bên A đã ấn định sẵn) phát sinh thì
đề nghị của bên A sẽ bị coi như là bị thay đổi
hoặc rút lại. Quy định này là không cần thiết
và nó đã vi phạm nguyên tắc tự do ý chí trong
giao kết hợp đồng. Vì vậy, theo chúng tôi, để
bảo đảm sự bình đằng giữa các bên, đảm bảo
nguyên tắc tự do ý chí trong giao kết hợp đồng,
nên bỏ quy định tại điểm b Khoản 1 Điều 392
BLDS 2005.
2.2. Hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng
Một đề nghị giao kết hợp đồng có thể hủy
ngang hay không là một trong những vấn đề
gây tranh cãi nhất trong vấn đề hình thành hợp
đồng. Có hai cách tiếp cận trái ngược nhau về
vấn đề này, bao gồm: cách tiếp cận của CISG
và PICC; cách tiếp cận của BLDS 2005.
Khoản 1 Điều 2.1.4 và Khoản 1 Điều 16
của CISG đều quy định về nguyên tắc, các đề
nghị giao kết hợp đồng có thể bị hủy ngang.
Tuy nhiên, các điều khoản này cũng quy định
việc hủy bỏ một đề nghị giao kết hợp đồng
có thể được thực hiện với điều kiện hủy bỏ
này đến bên được đề nghị trước khi bên này
gửi chấp nhận đề nghị. Như vậy, chỉ khi bên
được đề nghị chấp nhận đề nghị bằng miệng
hoặc khi bên được đề nghị chứng minh là đã
chấp nhận bằng cách thực hiện một hành vi
mà không thông báo tới bên đề nghị thì bên đề
nghị có quyền tiếp tục hủy bỏ đề nghị cho tới
khi hợp đồng được giao kết. Mặt khác, khi một
đề nghị được chấp nhận bằng văn bản, thì hợp
đồng được giao kết khi chấp nhận đến bên đề
nghị; trong trường hợp này, bên đề nghị mất
quyền hủy bỏ đề nghị ngay khi bên được đề
nghị gửi chấp nhận đề nghị. Cách giải quyết
như vậy có thể gây nhiều bất lợi cho bên đề
nghị, vì không phải lúc nào cũng biết liệu còn
có thể hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng hay
không. Tuy nhiên, giải pháp này cũng bảo vệ
lợi ích hợp pháp của bên được đề nghị bằng
việc rút ngắn khoảng thời gian mà đề nghị giao
kết hợp đồng có thể hủy bỏ.
Bên cạnh đó, Khoản 2 Điều 2.1.4 PICC và
Khoản 2 Điều 16 của CISG quy định hai ngoại
lệ quan trọng của nguyên tắc chung liên quan
đến khả năng hủy ngang một đề nghị giao kết
hợp đồng, đó là:
Khi đề nghị quy định rõ là không thể bị hủy
ngang: đề nghị giao kết hợp đồng không thể
bị hủy ngang mà có thể được thực hiện bằng
nhiều cách khác nhau, cách rõ ràng và trực tiếp
nhất là bên đưa ra đề nghị tuyên bố rõ điều này
(ví dụ: “đây là một đề nghị cố định”; “chúng
tôi sẽ duy trì đề nghị này cho đến khi có câu
trả lời của quý công ty”) hoặc ấn định thời hạn
cho việc trả lời chấp nhận. Tuy nhiên, quy định
này có thể được suy luận một cách đơn giản
từ những tuyên bố hoặc hành động của bên đề
nghị. Chính việc quy định rõ một thời hạn nhất
định cho việc chấp nhận, tuy không buộc phải
như vậy, có thể tương đương với một quy định
ngầm của một đề nghị không hủy ngang. Nói
chung, nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng hoạt
động trong một hệ thống pháp luật, theo đó,
việc ấn định thời hạn chấp nhận được coi là
quy định tính không hủy ngang, người ta có
thể cho rằng khi quy định một thời hạn, bên đề
nghị dự định đưa ra một đề nghị không bị hủy
ngang. Mặt khác nếu bên đề nghị hoạt động
trong một hệ thống pháp luật theo đó ấn định
một thời hạn chấp nhận không đủ để chỉ ra tính
không hủy ngang, thì bên đề nghị không có ý
định như vậy7.
Số 24(185) INGHIÊN CỨU LẬP PHÁPI 4312
2010
BÀN VỀ DỰ ÁN LUẬT
Bên đề nghị có cơ sở hợp lý để tin là đề
nghị không hủy ngang: sự tin tưởng của bên
được đề nghị có thể xuất phát từ xử sự của bên
đề nghị hoặc do tính chất của đề nghị. Hành
vi mà bên được đề nghị phải thực hiện trên cơ
sở đề nghị có thể là tiến hành việc sản xuất,
mở LC với điều kiện là những hành vi này
được coi như thường gặp trong hoạt động mua
bán hàng hóa hoặc được bên đề nghị biết trước
hoặc dự liệu trước8.
Trong khi đó, Điều 393 BLDS 2005 quy
định: “Trong trường hợp bên đề nghị giao kết
hợp đồng thực hiện quyền huỷ bỏ đề nghị do
đã nêu rõ quyền này trong đề nghị thì phải
thông báo cho bên được đề nghị và thông báo
này chỉ có hiệu lực khi bên được đề nghị nhận
được thông báo trước khi bên được đề nghị
trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng”.
Quy định này ngược lại với những quy định
của CISG và PICC. Theo đó, một đề nghị về
nguyên tắc sẽ không bị hủy ngang, trừ khi
quyền hủy ngang được bên đề nghị quy định
trước trong đề nghị. Mặc dù Điều 393 BLDS
2005 đưa ra thời điểm “bên được đề nghị trả
lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng” làm
căn cứ để xác định hiệu lực của thông báo hủy
bỏ đề nghị của bên đề nghị, nhưng lại không
nêu rõ thời điểm nào được coi là bên được đề
nghị trả lời chấp nhận đề nghị. Nếu bên được
để nghị trả lời chấp nhận bằng miệng, thì thời
điểm đó dễ dàng xác định là thời điểm bên đề
nghị nhận được thông báo bằng miệng, nhưng
nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận dưới
dạng văn bản (bằng thư, điện tín, fax), thì
thời điểm bên được đề nghị trả lời là thời
điểm người đó thể hiện xong ý chí chấp nhận
của mình dưới dạng văn bản hay là thời điểm
thông báo về việc chấp nhận đề nghị được gửi
đi, đó là một điểm bế tắc của BLDS. Vì vậy,
Điều 393 BLDS 2005 cần được sửa đổi, bổ
sung theo hướng tiếp thu các giải pháp được
thừa nhận chung được quy định tại Điều 16
của CISG và Điều 2.1.4 của PICC; hoặc nếu
giữ nguyên Điều 393 thì BLDS 2005 cũng nên
quy định rõ thời điểm bên được đề nghị trả lời
chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Đó là
thời điểm “bên được đề nghị gửi chấp nhận đề
nghị cho bên đề nghị”.
(7) Nhà pháp luật Việt Pháp, Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về Hợp đồng thương mại Quốc tế 2004, Nxb. Tư pháp, tr. 87.
(8) Nhà pháp luật Việt Pháp, Bộ nguyên tắc của UNIDROIT về Hợp đồng thương mại Quốc tế 2004, Nxb. Tư Pháp, tr. 88.
CHỨC NĂNG ĐẠI DIỆN CỦA
QUốC HỘI:...
Ở nước ta hiện nay, trong bối cảnh vẫn còn
một bộ phận lớn các đại biểu hoạt động kiêm
nhiệm thì việc dung hoà giữa công việc của nghị
viện và công việc bên ngoài nghị viện để đại diện
có hiệu quả vẫn đang là một bài toán khó. Việc
quy định về yếu tố thời gian cũng đã được tính
đến nhưng theo chiều ngược lại. Đó là yêu cầu
các đại biểu kiêm nhiệm phải được dành ít nhất
(29) Ở Quốc hội nước ta chưa có những thống kê cụ thể về việc sử dụng thời gian của các đại biểu kiêm nhiệm nhưng có thể thấy, nếu
chỉ dành một phần ba thời gian để thực hiện nhiệm vụ đại biểu thì chỉ mới đáp ứng được yêu cầu của việc tham gia các kỳ họp
Quốc hội (kéo dài 3 tháng, chiếm 1/4 thời gian trong cả năm) và các phiên họp của Uỷ ban.
một phần ba thời gian để thực hiện nhiệm vụ đại
biểu, tức là chủ yếu để cân nhắc, xem xét các vấn
đề chung có liên quan đến lợi ích của toàn quốc
gia29. Tuy nhiên, khoảng thời gian đó sẽ không
có nhiều ý nghĩa nếu trong khoảng hai phần ba
thời gian còn lại các đại biểu kiêm nhiệm không
có điều kiện để tìm hiểu tâm tư, nguyện vọng
của các cử tri trong địa phương mình. Vì vậy,
bên cạnh nhiều lý do khác có liên quan đến việc
tăng cường hiệu quả hoạt động của Quốc hội,
thì yếu tố đảm bảo chức năng đại diện của các
ĐBQH cũng là một trong những lý do cơ bản để
phải thực hiện giải pháp nâng cao tỷ lệ ĐBQH
chuyên trách ở Quốc hội nước ta.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- sua_doi_bo_sung_cac_quy_dinh_lien_quan_den_de_nghi_giao_ket.pdf